Thứ Tư, 2 tháng 2, 2022

Tạp Ghi và Phiếm Luận: NHỮNG TỪ NGỮ LÝ THÚ BẤT NGỜ (4) (Đỗ Chiêu Đức)

 Tạp Ghi và Phiếm Luận :  

       NHỮNG TỪ NGỮ LÝ THÚ BẤT NGỜ  (4)

                                 
  CHÚC TẾT                         

        Gần Tết, ta hay nghe những lời chúc tụng lẫn nhau, chúc khỏe mạnh, chúc giàu sang, chúc sống lâu, chúc mua may bán đắt, chúc mọi điều như ý... Vậy, CHÚC 祝 là gì? Ta sẽ truy nguyên để tìm hiểu nghĩa gốc của chữ CHÚC nầy nhé!

      Theo "CHỮ NHO... DỄ HỌC" thì CHÚC thuộc dạng chữ tổng hợp của Tượng Hình, Chỉ Sự và Hội Ý, có diễn tiến chữ viết như sau:

 Giáp Cốt Văn   Đại Triện   Tiểu Triện   Lệ Thư   Khải Thư
                         
Ta thấy :
            Từ Giáp Cốt Văn, Đại Triện đến Tiểu Triện: Bên trái có một gạch ngang ba gạch xuôi là cái bàn thờ ông Thiên, phía trên có một gạch ngắn như cái dĩa đựng đồ cúng là bộ THỊ 示, có nghĩa là Bày Tỏ. Bên phải là hình tượng của một người quỳ trước bàn thờ, phần trên là chữ KHẨU口 là Cái Miệng, phần dưới là chữ NHÂN 儿(人) là Người; Cái Miệng của Người muốn bày tỏ khi cúng tế, tức là VAN VÁI. Nên CHÚC 祝 là Những lời Van Vái khi cúng tế, thường thì đều là những lời tốt đẹp, đâu có ai vái những điều xấu xa bao giờ, nên nghĩa gốc của Chúc là "Những lời van vái". Sau nầy dùng rộng ra, hễ "Nói Những lời Tốt Đẹp Cho Người Khác" thì cũng gọi là CHÚC, như :
      - Tôi CHÚC cho anh được bình an trong mùa Cô-vít, tức là...
      - Tôi VAN VÁI cho anh được bình an trong mùa Cô-vít đó!

     CHÚC 祝 khi là Danh từ còn có nghĩa là "Phù Thủy Nam", ta gọi là Thầy Pháp, Thầy Cúng, người chuyên cúng tế ở các đình chùa miếu mạo, bây giờ là Ông Từ, gọi theo chữ NHO là Miếu Chúc 廟 祝. và Ông Từ ngày nay thì chỉ ở để giữ chùa và ăn ké cơm của chùa mà thôi! Trong "Tăng Quảng Hiền Văn" có câu:

      Quan thanh thư lại sấu,             官 清 書 吏  
      Thần linh MIẾU CHÚC phì.   神 靈 廟 祝 肥。

Có nghĩa :
             - Ông quan thanh liêm thì người thư ký ốm (vì phải làm việc nhiều và không có tiền... hối lộ !). Còn...
            - Ông thần mà linh thiêng thì ÔNG TỪ (người giữ chùa) sẽ mập ra (Vì có nhiều người đến cúng tế cho mà ăn!)
     Những từ được thành lập bởi chữ CHÚC rất nhiểu, nhất là vào dịp Tết Âm Lịch như hiện nay, ta thường gặp các từ như:

        - Chúc Xuân, Chúc Tết,
        - Chúc Phúc, Chúc Thọ.
        - Chúc may mắn, Chúc giàu sang, Chúc mua may bán đắc, Chúc an khang thịnh vượng, Chúc vạn sự như ý...

       Chữ CHÚC đã được Việt hóa thành chữ Nôm và mất đi Ý nghĩa lúc ban đầu là Lời VAN VÁI.

                  
         Thư Pháp CHÚC XUÂN của Đỗ Chiêu Đức       
     
         
Trong "Tăng Quảng Hiền Văn" lại có câu:

         是 非 終 日 有,   THỊ PHI chung nhật hữu,
         不 聽 自 然 無。   Bất thính tự nhiên vô.

Có nghĩa :
           - Chuyện THỊ PHI có suốt ngày, nếu...
           - Không nghe thì tự nhiên sẽ như không có chuyện gì xảy ra cả!

      Vậy chuyện THỊ PHI 是 非 là chuyện gì? Ta tìm hiểu nghĩa "đen thùi" của nó nhé!
      THỊ 是 là ĐÚNG, PHI 非 là SAI; THỊ là PHẢI, PHI là TRÁI; THỊ là TỐT, PHI là XẤU... nên CHUYỆN THỊ PHI là "Chuyện Đúng Sai, Phải Trái, Tốt Xấu của tất cả mọi người, của tất cả mọi chuyện ở trên đời nầy". Cho nên, chuyện Thị Phi là... chuyện của các người hay ngồi lê đôi mách, chuyện của các "ông bà Tám" ăn không ngồi rồi, chuyện của những người "ăn cơm nhà lo chuyện thiên hạ"... Nên tiếp đó "Tăng Quảng Hiền Văn" lại có câu:       
            
      來 說 是 非 者,   Lai thuyết THỊ PHI giả,
      便 是 是 非 人。   Tiện thị THỊ PHI nhân.

Có nghĩa là :
           - Những người đến nói chuyện THI PHI, thì...
           - Chính những người đó là những CON NGƯỜI THỊ PHI đó!

     Nói chuyện THỊ PHI, còn có nghĩa nói tốt cho người nầy, nói xấu cho người kia; tệ hại hơn nữa là đặt điều nói xấu người khác hay vẽ chuyện để nịnh bợ kẻ bề trên... Vì THỊ cũng có nghĩa là CÓ, PHI là KHÔNG, nên Chuyện THỊ PHI cũng là "Chuyện có nói không, chuyện không nói có" do đó ích lợi thì không thấy mà tác hại lại vô cùng! "Tăng Quảng Hiền Văn" lại khuyên răn:

   莫 待 是 非 來 入 耳,   Mạc đãi THỊ PHI lai nhập nhĩ,
   從 前 恩 愛 反 為 仇。   Tòng tiền ân ái phản vi cừu.

Có nghĩa :
        - Đừng nên để cho chuyện THỊ PHI lọt vào tai, để nên nổi...
        - Trước đây từng yêu thương ân ái với nhau bây giờ lại hóa ra thù hận.

      Trong Truyện Kiều, khi có người muốn tâng công, đến mách với Hoạn Thư là Thúc Sinh có vợ lẻ bên ngoài; Hoạn Thư đã ra lệnh thị uy "đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng" và bảo cho chúng biết rằng:

              Chồng tao nào phải như ai,
      Điều này hẳn miệng những người THỊ PHI!
            
         Ngoài miệng thì nói thế, chớ trong lòng Hoạn Thư thì lại ấm ức vô cùng "Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho" và quyết lòng "Làm cho nhìn chẳng được nhau, Làm cho đày đọa cất đầu chẳng lên". Ngoài miệng nói khác, còn trong lòng thì nghĩ khác, người ta gọi như thế là "Khẩu THỊ tâm PHI 口 是 心 非", là miệng thì nói phải mà lòng thì nghĩ trái lại:

            Bề ngoài thơn thớt nói cười,
     Mà trong nham hiểm giết người không dao !
                  
                  
                        TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN

     Ta hay nghe người đời nhắc tới TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN, vậy Tăng Quảng Hiền Văn là 
    TĂNG QUẢNG 增 廣 là làm cho Gia tăng và Mở rộng.
    HIỀN VĂN 賢 文 là Áng văn hay, áng văn dạy những điều tốt lành.
Nên...
      TĂNG QUẢNG HIỀN VĂN 增 廣 賢 文 là Áng văn hay, dạy cho ta những điều tốt điều lành, làm cho ta gia tăng và mở rộng thêm kiến thức về mọi mặt của cuộc sống. Thường thì khi nhắc đến từ HIỀN là người ta nghĩ ngay đến LÀNH, nên ta có từ kép là HIỀN LÀNH để đối xứng với từ kép HUNG DỮ. HIỀN là ngoan ngoản tuân phục không chống đối, nên ta cũng có từ kép NGOAN HIỀN. HIỀN là có lòng nhân hậu từ ái, dịu dàng, hòa nhã, nên ta lại có các từ kép HIỀN HẬU, HIỀN TỪ, HIỀN HÒA, HIỀN DỊU... như một nữ tu dễ thương, vì thế mà ta thường nghe câu "Em hiền như Ma-Sơ"... 
      Ngoài nghĩa HIỀN là... Hiền ra, HIỀN còn có nghĩa là GIỎI GIANG, TÀI BA, THÁNH THIỆN, như ta thường nghe:
    - THÁNH HIỀN 聖 賢 : Người được xem là có đạo đức rất cao và tài năng rất giỏi trong xã hội phong kiến ngày xưa mà cho đến ngày nay vẫn còn được mọi người tôn sùng kính trọng.
    - HIỀN THẦN 賢 臣 : Bề tôi giỏi giang về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội... có tài giúp vua dựng nước và giữ nước. 
    - HIỀN TÀI 賢 才 : Người có tài cao, học rộng và có đạo đức tốt, một lòng một dạ vì lợi ích của nhân dân, Tổ quốc. HIỀN TÀI còn là cái Phẩm đầu tiên trong Ban Thế Đạo của Cao Đài Giáo, là người có tài đức, có trí thức vượt trội trong hàng đạo hữu bình thường.
    - HIỀN NHÂN QUÂN TỬ 賢 人 君 子 : Đây là hình tượng mẫu người lý tưởng của Nho Giáo ngày xưa: là người đàn ông có phẩm hạnh đạo đức tốt (quân tử) lại có tài kinh luân thao lược (hiền nhân) là mẫu người đàn ông lý tưởng của các bà các cô ngày xưa.
     Nên...
          * HIỀN MẪU 賢 母 : Chẳng những là "Bà mẹ hiền" mà còn là "Bà mẹ giỏi giang" nữa! Tương tự, ta có:
          * HIỀN THÊ 賢 妻 : là người vợ hiền lành giỏi giang.
          * HIỀN PHỤ 賢 婦 : là người phụ nữ hiền hòa từ ái, đãm đang, và quán xuyến trong ngoài.                                                      

         Hiền Thê                        Hiền Phụ                  Hiền Mẫu
   
      Trong cuộc sống lứa đôi, người ta thường nhắc đến hai chữ CHUNG THỦY để chỉ tình nghĩa vợ chồng luôn gắn bó với nhau mà không có kẻ thứ ba nào chen vào. Nếu "Ông ăn chả" hoặc "Bà ăn nem" thì gọi là "KHÔNG CHUNG THỦY", là không một lòng một dạ với người hôn phối hoặc người yêu của mình. Vậy CHUNG THỦY nghĩa gốc là gì, ta sẽ lần lược tìm hiểu sau đây: 
      
     CHUNG THỦY 終 始, đúng ra phải nói là THỦY CHUNG 始 終. Tại sao? Thưa, vì...

     - THỦY 始 : Còn đọc là THỈ theo diễn tiến của chữ viết như sau:

    Chung Đỉnh Văn  Tiểu Triện          Lệ Thư          Khải Thư
                              


Ta thấy :
       Chung Đỉnh Văn và Tiểu Triện là hai hình tượng ngược lại với nhau nhưng cùng diễn một ý. Tiểu Triện bên trái là chữ NỮ 女  là Cô gái, bên phải phần trên là hình tượng của một đứa bé mới sinh đầu lật ngược trở xuống, phần dưới là cái chậu đựng nước dùng để hứng lấy đứa bé, nên THỦY 始 là hình tượng của cô gái sinh con với Hội Ý là "Cuộc sống mới bắt đầu"; cho nên THỦY có nghĩa là BẮT ĐẦU, MỞ ĐẦU, như:
     - Khởi Thủy 起 始 : là Vừa mới bắt đầu, Bắt đầu ...
     - Nguyên Thủy 原 始 : là Lúc bắt đầu, lúc ban đầu.
     - Thủy Tổ 始 祖 : là Ông Tổ đầu tiên khai sáng ra... cái gì đó.
Còn...
     - CHUNG 終 : là Hết, là dạng chữ Hình Thanh, theo diễn tiến của chữ viết như sau:

  Giáp Cốt Văn   Kim Văn   Tiểu Triện    Lệ Thư      Khải Thư
                           

Ta thấy :
           Giáp Cốt Văn là hình tượng của hai đầu kén của con tằm đã được kéo thành tơ, đến Kim Văn thì cuộn tơ đã thành hình được treo lên cho rũ hai đầu xuống hai bên, đến Tiểu Triện thì bên trái lại thêm bộ MỊCH 糸  là cuộn tơ đã được đưa lên máy dệt là đã hoàn thành giai đoạn kéo tơ dệt vải. Bên phải là chữ ĐÔNG 冬 để lấy Âm (dong). Nên CHUNG có nghĩa là: Hoàn thành, Chấm dứt, là Hết, là Kết cuộc, là Xuyên suốt... như :
         - Chung Kết 終 結 : là Chấm hết, là Cuối cùng
         - Chung Cục 終 局 : là Kết cuộc, là đến nước sau cùng . 
         - Chung Thân 終 身 : là Xuyên suốt cả cuộc đời, là suốt đời.
Nên :
         THỦY là Mở đầu, CHUNG là Kết cuộc. Cái gì có mở đầu mà có kết cuộc  thì gọi là "CÓ THỦY CÓ CHUNG"; còn có mở đầu mà không có kết cuộc thì gọi là "Hữu thủy vô chung 有 始 無 終". Thương ai đó nửa chừng rồi bỏ, thì nói là "Có Thủy mà không có Chung", nói cho gọn là "không chung thủy". Không phải chỉ trong tình yêu mà thôi, hễ làm việc gì đó mà bỏ dở giữa chừng thì cũng bị gọi là người "làm viêc không có chung thủy", là làm việc có đầu không có đuôi . CHUNG THỦY là Đầu Đuôi, là Trước  làm sao thì sau cũng làm vậy, là "Trước sau như một" chữ Nho gọi là THỦY CHUNG NHƯ NHẤT 始 終 如 一 !
         "Con Người CHUNG THỦY" là con người bền lòng chặc dạ, trước sau như một, kể cả trong tình yêu và việc làm trong cuộc sống hằng ngày.

         CHUNG là hết, là cuối, là kết thúc... nên cuối các quyển thơ, truyện ngày xưa hay có chữ "CHUNG" thật lớn. Các từ có chữ CHUNG mà ta  thường gặp như:
        - Lâm Chung 臨 終 : là lúc sắp hết cuộc đời, là lúc sắp chết.  
        - Thọ Chung 壽 終 : là Tuổi thọ đà hết, là chết già, chết thọ. Còn...            
        - Chung Nhật 終 日 : là hết ngày, là suốt ngày, như câu ta vừa đề cập ở trên là:
         是 非 終 日 有 Thị phi CHUNG NHẬT hữu  (là chuyện thị phi có SUỐT CẢ NGÀY).
       - Chung Niên 終 年 : là suốt cả năm, là quanh năm. Nhưng ...
       - Niên Chung 年 終 : là Năm hết Tết đến. Còn THỦY thì ta có thành ngữ "Nhất Nguyên phục THỦY 一  元  復  始" mà ta thường hay thấy làm vế đầu của câu đối Tết treo trước cổng ra vào như sau:

        Nhất Nguyên phục THỦY,    一  元  復  始,
        Vạn tượng canh tân.              萬  象  更  新!
Có nghĩa :
            -  Cái nguyên khí của trời đất trở lại lúc ban đầu, làm cho...
            -  Vạn vật muôn loài đều đổi mới !

                


        Mong rằng trong mùa XUÂN mới nầy, cùng với vạn vật đón Xuân vươn mình đổi mới thì con người chúng ta cũng sẽ quật cường đổi mới vươn lên sống hòa mình với cơn dịch thế kỷ đã gần đến hồi CÁO CHUNG nầy. Mong lắm thay!

       Cầu CHÚC cho tất cả mọi người, mọi nhà trên thế gian nầy đều có được một MÙA XUÂN NHƯ Ý,  AN KHANG THỊNH VƯỢNG !
* Mời nghe Như Quỳnh hát nhạc xuân:




                                                        杜 紹 德
                                                    Đỗ Chiêu Đức









Không có nhận xét nào: