Thứ Tư, 17 tháng 1, 2024

Góc Việt Thi : Thơ Xuân Cao Bá Quát (P. 2) (Đỗ Chiêu Đức) & Thơ phỏng dịch

 Góc Việt Thi: 

            Thơ Xuân Cao Bá Quát (P. 2)

             
                 

                   
XUÂN NHẬT TUYÊT CÚ THẬP THỦ 
                            (Mười bài thơ Tuyệt Cú Ngày Xuân)

1. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 1) :

春 日 絕 句 (其 一)       XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 1)

五 門 樓 上 散 嚴 更,     Ngũ môn lâu thượng tán nghiêm canh,
玄 武 城 頭 煙 氣 明。     Huyền Vũ thành đầu yên khí minh.
赤 日 自 通 南 闕 曙,     Xích nhật tự thông nam khuyết thự,
春 風 先 渡 北 江 晴。     Xuân phong tiên độ bắc giang tình.
               高 伯 适                                    Cao Bá Quát

         
                       

* Chú thích :
    - Nghiêm Canh 嚴 更 : Sự canh gác nghiêm cẩn trong đêm.
    - Huyền Võ Thành Đầu 玄 武 城 頭 : Trên đầu thành Huyền Võ. HUYỀN VÕ 玄 武 là một trong 4 chòm sao của "Nhị Thập Bát Tú" là: Thanh Long 青 龍 7 sao ở phương Đông、Bạch Hổ 白 虎 7 sao ở phương Tây、Chu Tước 朱 雀 7 sao ở phương Nam、và Huyền Võ 玄 武 7 sao ở phương Bắc, nên HUYỀN VÕ THÀNH ĐẦU là trên đầu thành Huyền Võ ở phương Bắc.
    - Xích Nhật 赤 日 : là Mặt trời màu đỏ chói (sau những tháng mùa Đông ảm đạm).
    - Nam Khuyết 南 闕 : Chỉ Vòng thành ở phía cửa Nam trong kinh thành.
    - Thự 曙 : là Rạng sáng, là Ánh nắng ban mai của mặt trời.
    - Tình 晴 : là Nắng ráo.

* Nghĩa bài thơ :
                           TUYỆT CÚ NGÀY XUÂN (1)
      Sự canh gác nghiêm cẩn trên thành lầu Ngũ Môn đã thư giản sau canh năm; Trên đầu thành Huyền Võ ở phương Bắc mây khói đã sáng lên không còn u ám nữa. Mặt trời màu đỏ chói chan đã tự động làm cho phía thành Nam cũng sáng lên vì ánh nắng mặt trời. Gió Xuân đã thổi qua dòng sông phía bắc trong cảnh trời nắng ráo.

      Cảnh trí của buổi sáng đầu Xuân đã bắt đầu đem đến ánh nắng đầu ngày rực rỡ ấm áp sau những ngày mùa Đông ảm đạm lạnh lùng.

* Diễn Nôm :
                    XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 1)
                   
                                                    
                   Tiếng trống Ngũ Môn canh đã tàn,
                   Đầu thành Huyền Võ khói sương tan.
                   Mặt trời rực nắng Nam thành chiếu,
                   Giang Bắc gió Xuân đã độ sang !
     Lục bát :
                   Ngũ Môn tiếng trống canh tàn,
                   Đầu thành Huyền Võ sương tan sáng trời.
                   Cửa Nam nắng chiếu khắp nơi,
                   Sông Bắc hây hẫy ngập trời gió Xuân !  
                                      Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

2. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 2) :

春日絕句(其二)       XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 2)
 
襟 帶 山 河 千 里 府,     Khâm đới sơn hà thiên lý phủ,
風 流 歌 管 萬 人 家。     Phong lưu ca quản vạn nhân gia.
朱 橋 錦 宇 舊 時 燕,     Chu kiều cẩm vũ cựu thời yến,
韋 曲 紅 綢 無 賴 花。     Vi khúc hồng trù vô lại hoa !
              高 伯 适                              Cao Bá Quát
        
                                                       
* Chú thích :
    - Khâm Đới 襟 帶 : KHÂM là Vạt áo; ĐỚI là dây thắt lưng; KHÂM ĐỚI SƠN HÀ 襟 帶 山 河 là Núi sông như vạt áo và dây thắt lưng ôm ấp quyện chặt lấy nhau, lấy ý ở một câu trong "Đằng Vương Các Tự 滕 王 閣 序" của Vương Bột đời Đường là:

  襟 三 江 而 帶 五 湖,   KHÂM Tam giang nhi ĐỚI Ngũ hồ,
  控 蠻 荆 而 引 甌 越。   Khống Man kinh nhi dẫn Âu Việt.
 Có nghĩa :
       - Tam giang như vạt áo và Ngũ hồ như dây thắt lưng ôm quyện lấy nhau. 
       - Khống chế đất Man kinh và như dẫn dắt đất Âu Việt.

    - Ca Quản 歌 管 : CA là lời ca; QUẢN là Ống Tiêu, Ống Sáo; nên CA QUẢN chỉ Lời ca tiếng hát trong âm nhạc hòa tấu, chỉ sự hát xướng vui chơi.
    - Chu Kiều 朱 橋 : tức là Cầu Chu Tước trong bài Ô Y Hạng của Lưu Vũ Tích:
  朱 雀 橋 邊 野 草 花,   Chu Tước kiều biên dã thảo hoa,
 烏 衣 巷 口 夕 陽 斜.    Ô y hãng khẩu tịch dương tà !
      Có nghĩa :
                  Bên cầu Chu Tước cỏ hoa hoang,
                  Trước hẽm Ô Y nắng xế tàn.
    - Cẩm Vũ 錦 宇 : CẨM là Gấm; VŨ là ỐC VŨ 屋 宇 là Nhà cửa; nên CẨM VŨ là Nhà cửa đẹp như gấm, chỉ nhà giàu có khá giả.
    - Vi Khúc 韋 曲 : Tên một con phố ở Trường An ngày xưa, trong bài thơ mượn để chỉ kinh thành Thăng Long.
               
                                                                         
    - Hồng Trù 紅 綢 : là Gấm lụa màu đỏ, ở đây chỉ khúc múa bằng gấm lụa màu đỏ ngày xưa, HỒNG TRÙ là múa lụa đỏ chỉ khúc múa vui chơi ngày xuân. 
    - Vô Lại 無 賴 : là Không cần dựa dẵm, không cần nhờ cậy...

* Nghĩa bài thơ :
                         Tuyệt Cú Ngày Xuân (2)
        Các phủ đệ kéo dài cả ngàn dặm như núi sông ôm ấp lấy nhau, muôn vạn nhà đều có cuộc sống phong lưu trong lời ca tiếng hát vang lừng. Những con chim én thuở xưa bên cầu Chu Tước cạnh các nhà giàu có ngày trước lại bay về. Trên phố Vi Khúc ở Trường An các điệu múa lụa đỏ rực rỡ mà không cần nhờ vào những đóa hoa Xuân.    

        Cảnh thái bình thịnh vượng giàu có vui chơi của cư dân đất kinh thành trong những ngày đầu Xuân rực rỡ.
 
* Diễn Nôm :
                      XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 2)
                               
             

                     Nhà cửa núi sông muôn dặm xa,
                     Phong lưu hát xướng tự muôn nhà.
                     Én xưa Chu tước nay tìm đến,
                     Lụa đào ca múa át ngàn hoa !
        Lục bát :
                     Núi sông ôm ấp muôn nhà,
                     Phong lưu cuộc sống hát ca tư bề. 
                     Én cầu Chu tước tìm về,
                     Vi Khúc múa hát chẳng hề nhờ hoa !
                                                 Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

3. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 3) :            

春 日 絕 句 (其 三)            XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 3)
 
旭 掛 旗 臺 煙 水 消,     Húc quải kỳ đài yên thủy tiêu,
三 營 四 觀 日 迢 迢。     Tam doanh tứ quán nhật thiều thiều.
萬 重 山 勢 長 春 色,     Vn trùng sơn thế trường xuân sắc,
千 尺 江 流 送 往 潮。     Thiên xích giang lưu tống vãng triều.
              高 伯 适                                         Cao Bá Quát

                  
* Chú thích :
    - Húc 旭 : là HÚC NHẬT 旭 日 Mặt trời buổi sáng, Mặt trời mới mọc.
    - Tam Doanh Tứ Quán 三 營 四 觀 : Các đơn vị tổ chức của quân đội ngày xưa.
    - Nhật Thiều Thiều 日 迢 迢  : Nếu NHẬT là Ngày, thì là Ngày dài dằng dặc; Nếu Nhật là NẮNG, thì có nghĩa là Nắng chan chan.
    - Sơn Thế 山 勢 : là cái thế của núi non.
    - Vãng Triều 往 潮 : Nước thủy triều rút đi.

* Nghĩa bài thơ :
                       Tuyệt Cú Ngày Xuân (3) 
       Khi mặt trời buổi sáng mọc, quân kỳ được treo lên kỳ đài thì hơi nước ẩm cũng tiêu tan. Trong tam dinh tứ quán ngày đã trở nên dài dằng dặc (tràn ngập cả nắng vàng). Chập chùng muôn vạn thế núi đều đầy hương sắc của mùa Xuân. Trong khi ngàn thước sông cuộn trôi cũng đã cuốn đưa nước thủy triều đi xuống.

* Diễn Nôm :
                      XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 3)
                      
              

                      Sáng thượng kỳ đài mây khói tan,
                      Ba dinh bốn quán nắng chan chan.
                      Muôn trùng thế núi đầy xuân sắc,
                      Ngàn thước sông trôi nước xuống ngàn.
        Lục bát :
                      Kỳ đài sáng khói mây tan,
                      Ba dinh bốn quán nắng vàng đầy vơi.
                      Khắp nơi thế núi xuân tươi,
                      Muôn ngàn sông chảy cuốn lui thủy triều.
                                                   Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm.

      Hẹn bài dịch tới !

                                                                杜 紹 德
                                                            Đỗ Chiêu Đức

                               *****
Thơ phỏng dịch:

Mười Bài Tuyệt Cú Ngày Xuân kỳ 01

Ngũ Môn vọng gác đã tàn canh

Huyền vũ khói sương nhạt nóc thành

Trời đỏ thông qua nam cửa khuyết

Gió xuân vượt khỏi bắc sông xanh

 

Mười Bài Tuyệt Cú Ngày Xuân kỳ 02

Sông núi áo đai dài phủ đệ

Phong lưu đàn hát khắp muôn nhà

Cầu son, dinh thự én xưa liệng

Vi Khúc lụa hồng chẳng cậy hoa!

 

Mười Bài Tuyệt Cú Ngày Xuân kỳ 03

Trời chớm kỳ đài hơi nước tiêu

Ba dinh, bốn quán nắng hoang liêu

Muôn trùng thế núi đầy xuân sắc

Nghìn thước sông trôi tiễn thủy triều!

                             Lộc Bắc

                             Jan24

 





Không có nhận xét nào: