Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2024

Góc Việt Thi : Thơ Xuân Cao Bá Quát (P.4) (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Việt Thi : 

       Thơ Xuân Cao Bá Quát (P.4)

                                              
                   XUÂN NHẬT TUYÊT CÚ THẬP THỦ 
                            (Mười bài thơ Tuyệt Cú Ngày Xuân)

7. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 7) :

 春 日 絕 句 其 七           XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 7)

城 北 城 南 處 處 家,     Thành bắc thành nam xứ xứ gia,
斷 蓬 枯 蔓 繚 籬 斜。     Đoạn bồng khô mạn liễu ly tà.
趁 蕃 餘 樹 忙 人 事,     Sấn phồn dư thụ mang nhân sự,
閑 日 迢 催 未 報 衙。     Nhàn nhật thiều thôi vị báo nha.
              高 伯 适                                   Cao Bá Quát
         
                      

* Chú thích:
    - Đoạn Bồng Khô Mạn 斷 蓬 枯 蔓 : là Cỏ bồng gãy, dây leo khô.
    - Liễu Ly Tà 繚 籬 斜 : LIỄU là quấn quanh; LY là Hàng rào; Tà là Nghiêng đổ.
    - Sấn Phồn 趁 蕃 : Nhân lúc (cây cỏ) rậm rạp.
    - Mang 忙 : là Bận rộn. MANG NHÂN SỰ là Bận rộn với chuyện người đời.
    - Thiều Thôi 迢 催 : là Điều Đệ Thôi Thúc 迢 递 催 促, là Xa xôi Hối Thúc, Ý chỉ : Thời gian vằng vặc nhưng qua cũng rất nhanh. 
    - Báo Nha 報 衙 : là trình báp đến nha môn, cửa quan.

* Nghĩa bài thơ :
         Từ thành Bắc đến thành Nam, nơi nào nhà cửa cũng san sát nhau. Cỏ bồng dây leo khô gãy quấn quanh bờ giậu xiêu vẹo. Nhân lúc cây cỏ rậm rạp các cây lớn khác như đang bận rộn với chuyện của người đời (đang ăn Tết). Những ngày nhàn rỗi thấy như dài nhưng lại qua rất nhanh đến chưa kịp báo quan hay.

* Diễn Nôm :
                    Thành Bắc thành Nam rợp những nhà,
                    Dây khô cỏ gãy quấn rào ta.
                    Rậm rạp cây kia như bận rộn,
                    Ngày dài nhàn rỗi thoáng đà qua !
        Lục bát :
                    Bắc Nam thành rợp nóc gia,
                    Cỏ khô dây quấn rào hoa nghiêng chiều.
                    Cây kia bận bịu bấy nhiêu,
                    Ngày nhàn thoáng chốc quên điều báo quan.

    8. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 8) :  
          
 春 日 絕 句 其 八          XUÂN NHẬT TUYẸT CÚ  (Kỳ 8)
  
故 園 今 日 草 依 依,    Cố viên kim nhật thảo y y,
春 滿 池 塘 夢 到 稀。    Xuân mãn trì đường mộng đáo hi.
悵 望 無 情 珥 江 水,   Trướng vọng vô tình Nhĩ Giang thủy,
悠 悠 何 事 向 南 歸。    Du du hà sự hướng nam quy?
                高 伯 适                            Cao Bá Quát
     
                               
* Chú thích :
    - Cố Viên 故 園 : là Vườn xưa, mà cũng có nghĩa là Quê xưa nữa.
    - Y Y 依 依 : là Bịn rịn, lưu luyến; Nhưng ở đây Y Y là Hình Dung Từ bổ nghĩa cho THẢO, nên THẢO Y Y 草 依 依 là Cỏ mọc dài mơn mởn trong mùa Xuân.
    - Trì Đường 池 塘 : là Ao chuôm, những ao nước nhỏ.
    - Trướng Vọng 悵 望 : là Trông ngóng một cách bâng khuâng buồn bã.
    - Nhĩ Giang 珥 江 : tên riêng của sông Hồng.
    - Du du 悠 悠 : là Dằng dặc xa xôi tiếp nối mãi.

* Nghĩa bài thơ :
        Nơi quê cũ hôm nay chắc cỏ đã mọc dài một cách mượt mà mơm mởn; Mùa Xuân chắc cũng đã về trên khắp ao chuôm, mà ta thì vẫn ít mộng thấy quê nhà. Bồi hồi nhìn dòng sông Nhĩ Giang vẫn tuôn chảy một cách vô tình, cứ dằng dặc chảy mãi về hướng Nam là cớ tại làm sao ?!
        Hỏi tức là đã trả lời, vì dòng sông đổ ra biển Nam Hải, không chảy về Nam thì chảy về đâu ? Cũng như lòng của Cao Bá Quát luôn luôn hướng về vườn cũ của quê nhà để chỉ nhớ đến cỏ Xuân mượt mà và các ao chuôm nước đọng. Nhưng những thứ tầm thường đó là hình ảnh của quê hương, của nơi chôn nhau cắt rốn mà không ai có thể quên đi được !.

* Diễn Nôm :
                 
           
               
                 Vườn cũ hôm nay cỏ mọc dài,
                 Ao chuôm Xuân đến khó mơ hoài.
                 Buồn trông sông Nhĩ vô tình chảy,
                 Dằng dặc về nam như nhớ ai !
     Lục bát :
                 Cỏ non quê cũ xuân xanh,
                 Ao chuôm xuân sắc khó thành giấc mơ.
                 Buồn trông sông Nhĩ lững lờ,
                 Xuôi nam chảy mãi như chờ đợi ai.

 9. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 9) : 
     
 春 日 絕 句 其 九          XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ  (Kỳ 9)
 
懶 非 性 耐 渾 思 懶,     Lãn phi tính nại hồn tư lãn,
閑 是 生 餘 未 即 閑。     Nhàn thị sanh dư vị tức nhàn.
笑 剎 年 年 較 晴 雨,     Tiếu sát niên niên giảo tình vũ,
孤 山 吟 思 滿 江 關。     Cô sơn ngâm tứ mãn giang quan.
              高 伯 适                                 Cao Bá Quát
      
                              

* Chú thích :
    - Lãn 懶 : là Lười biếng. 
    - Nại 耐 : là Chịu đựng; TÍNH NẠI là Tánh chịu đựng.
    - Hồn 渾 : là Tữ nhiên, là Thường tình.
    - Sinh Dư 生 餘 : là Sống thừa, chỉ Sống mà không làm nên được gì cả.
    - Tiếu Sát 笑 剎 : là Nực cười, là Tức cười.

* Nghĩa bài thơ :
        Lười biếng không phải là tính chịu đựng của ta, nhưng tự nhiên ta cũng nghĩ đến chuyện lười; Vì nhàn rỗi một cách vô tích sự, thì vị tất đã là nhàn rỗi. Nực cười thay chuyện nắng rồi mưa , mưa rồi lại nắng hằng năm cứ thế. Như ngọn núi đơn độc nhưng khi ngâm vịnh lên thì cũng đầy rẫy cả núi sông quan ải.

* Diễn Nôm :
                    Chẳng lười nhưng lại tự nhiên ngông,
                    Nhàn chẳng đúng thời nhàn tựa không.
                    Nực cười mưa nắng năm năm vẫn...
                    Núi côi ngâm vịnh khắp non sông.
        Lục bát :
                    
                   

                   Chẳng lười lại tự nhiên lười,
                   Nhàn vô tích sự nực cười nắng mưa.
                   Năm năm mưa nắng giao mùa,
                   Núi côi ngâm vịnh như đùa non sông.

10. Bài thơ Xuân Nhật Tuyệt Cú (kỳ 10) : 
 
 春 日 絕 句 (其 十)          XUÂN NHẬT TUYỆT CÚ (Kỳ 10)

襭 取 長 春 萬 里 風,   Hiệt thủ trường Xuân vạn lý phong,
憑 高 揮 洒 欲 回 空。   Bằng cao huy sái dục hồi không.
生 憎 浪 泊 一 篙 水,   Sinh tăng Lãng Bạc nhất cao thuỷ,
日 日 輕 帆 送 醉 翁。   Nhật nhật khinh phàm tống tuý ông.
         高 伯 适                          Cao Bá Quát
   
                                         

* Chú thích :
    - Hiệt Thủ 襭 取 : là Lấy vạt áo đùm vật gì đó lại.
    - Bằng Cao 憑 高 : Dựa vào cái thế trên cao; Từ trên cao.
    - Tăng 憎 : là Ghét.
    - Khinh Phàm 輕 帆 : Một cánh buồm nhẹ.

* Nghĩa bài thơ :
         Ta muốn dùng vạt áo nầy để gói cả làn gió Xuân của muôn dặm; Rồi lên cao vung tay áo một cách phóng khoáng để thả gió về lại với tầng không. Bình sinh ta rất ghét chống thuyền đi trên hồ Lãng Bạc, chỉ muốn ngày ngày đều có cánh buồm nhẹ đưa lão già say đi về.
         Người đời thường bảo là Cao Bá Quát ngông cuồng. Quả không ngoa! Bọc hết gió Xuân muôn dặm rồi lên cao thả ra theo ý thích của mình. Không muốn chèo chống chiếc thuyền nan trên hồ, mà chỉ muốn mỗi ngày đều có cánh buồm nhẹ lướt sóng để đưa người say trở về.

* Diễn Nôm :
     - Song thất Lục bát :

                    
                               
                  Vạt áo gom gió Xuân vạn dặm,
                  Phất tay cao thả gió về không.
                  Chống thuyền Lãng Bạc chẳng mong,
                  Ngày ngày buồm nhẹ đưa ông say về !
     - Lục bát :
                  Muốn gom muôn dặm gió Xuân,
                  Lên cao thả gió cho lòng hả hê.
                  Chống thuyền Lãng Bạc vốn chê,
                  Chỉ mong buồm nhẹ đưa về ông say.
                                    Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

      Hẹn bài dịch tới !

                                               杜 紹 德
                                           Đỗ Chiêu Đức

                                *****

Mười Bài Tuyệt Cú Ngày Xuân Kỳ 07

Thành bắc, thành nam khắp chốn nhà

Cỏ khô, bồng gãy, dậu tiêu ma

Dăm cây lấn bụi như đời rộn

Ngày rỗi trôi mau chửa báo nha!

 

Mười Bài Tuyệt Cú Ngày Xuân Kỳ 08

Vườn cũ hôm nay cỏ phất phơ

Đầm ao xuân khắp, mông lưa thưa

Vô tình buồn ngắm dòng sông Nhĩ

Dằng dặc nam xuôi nước chảy ùa !?

 

Mười Bài Tuyệt Cú Ngày Xuân Kỳ 09

Lười không bản chất, chỉ làm biếng

Nhàn rỗi sống dư chẳng phải nhàn

Cười tựa tháng, năm mưa tiếp nắng

Núi trơ ngâm vịnh khắp giang san

 

Mười Bài Tuyệt Cú Ngày Xuân Kỳ 10

Xuân đến áo đùm gió bốn phương

Lên cao vung xỏa giữa trời không

Không ưa Lãng Bạc sào tre đẩy

Buồm nhẹ hàng ngày tiễn túy ông

                                     Lộc Bắc

                                    Jan24















Không có nhận xét nào: