Chữ Nghĩa Làng Văn
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
***
Chữ Việt cổ
Con đỏ: con mới đẻ
(Đại Nam quốc âm tự vị - Huỳnh Tịnh Paulus Của)
Chữ nghĩa làng văn
Truyện Kiều, câu 1160:
Một tay chôn biết mấy cành phù dung
Nó cũng xuất hiện trong Chinh Phụ Ngâm:
Vẻ phù dung một đoá khoe tươi.
Phù dung có 2 loại:
- Mộc phù dung (mộc liên) mọc ở trên đất tức hoa dâm bụt (hibiscus).
- Thảo phù dung mọc ở dưới nước tức hoa sen (lotus).
Phù dung trong câu thơ Kiều và Chinh Phụ Ngâm trên không thể là hoa sen, vì sen chỉ có cuống lá, cuống hoa, không có cành. Vả lại sen nở hoa trong hồ, trong đầm, chứ không trên sông.
Như vậy, phù dung trong Truyện Kiều là một loài hoa dâm bụt.
(Trần Văn Tích - Cỏ cây trong truyện Kiều)
Chữ Việt cổ
Lép đép: lâu đời lắm
(Đại Nam quốc âm tự vị - Huỳnh Tịnh Paulus Của)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Chị tôi lớn tuổi hơn tôi
Mẹ tôi lớn tuổi hơn tôi rất nhiều
Thi sĩ Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương
Những thiên tài bạc mệnh của Sài Gòn xưa
Lịch sử văn học Việt Nam đã ghi nhận tên tuổi họ, nhưng trong bbiến thiên của lịch sử dân tộc không ít văn thi sĩ tên tuổi phải cchìm nổi cùng vận mệnh đất nước…
Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương là những nhà thơ nổi tiếng từ hồi “phong trào Thơ Mới” thời tiền chiến. Họ đều là những “đại gia” trong làng thơ, nhưng cả hai không ai tự tạo dựng được cho mình được một mái nhà mà suốt đời toàn đi ở nhà thuê.
Năm 1954, khi di cư vào Sài Gòn, hai người thuê một căn nhà lợp tôn, vách ván tại xóm Hòa Hưng. Vũ Hoàng Chương cùng vợ ở trên gác, dưới nhà là tổ ấm của gia đình Đinh Hùng. Nhị vị này là anh em: Vũ Hoàng Chương lấy chị ruột Đinh Hùng là bà Đinh Thị Thục Oanh, nên hai nhà sống chung với nhau trong bước đầu nơi xứ lạ, quê người là điều dễ hiểu.
Tuy nhiên thực tế lại rất… khó sống. Quen với cảnh “miếu nguyệt, vườn sương”, “cách tường hoa ảnh động”, nay phải giam mình trong căn gác gỗ nóng hầm hập, hơi nóng từ mái tôn phả xuống như muốn luộc chín người, Vũ Hoàng Chương cảm thấy nguồn thơ đang bị nắng Sài Gòn làm cho khô cạn.
Dưới nhà, Đinh Hùng cũng chẳng hơn gì, anh cũng cởi trần ra, vừa quạt, vừa nắm viết “Kỳ Nữ gò Ôn Khâu”, “Đao phủ thành Đại La” cho các nhật báo Sài Gòn thời đó. Ngoài viết tiểu thuyết dài từng kỳ, anh còn vẽ tranh vui và giữ luôn mục “Đàn ngang cung” là mục thơ trào phúng ký tên Thần Đăng.
Chữ nghĩa làng văn
Năm 1992 do bạn hữu ở Paris tổ chức ra mắt tập thơ Thủy Mộ Quan. Trước một cử tọa khoảng ba trăm người tôi hỏi cử tọa: “Có một câu hỏi tôi không trả lời được, nhiều người được hỏi cũng không ai trả lời được, hy vọng quí vị ở đây sẽ có người trả lời được câu hỏi ấy: Tại sao các quốc gia trên thế giới phần lớn dùng chữ “đất - land,” để chỉ quê hương tổ quốc của họ, duy nhất chỉ có Việt Nam dùng chữ “nước-water” để chỉ tổ quốc của mình?”
Tôi cũng nói thêm kể thêm với cử tọa là trong suốt 6 tháng làm tập thơ Thủy Mộ Quan, làm trong nhà ngoài vườn, tôi không trả lời được cho mình tại sao những chuyện đau thương hay hùng vĩ, bi thống hay can trường, lớn hay nhỏ liên hệ tới lịch sử ta đều xảy ra trên mặt nước? Từ tinh sương nguyên đán của dân tộc Việt, từ mối duyên đầu và sự chia ly thứ nhất của nòi giống Việt, đã xảy ra trên mặt nước của Động Đình Hồ. Có phải từ Lộc Tục xuôi thuyền nơi đó rồi cùng Long Nữ “rung động nước thiên thu” mà có Lạc Long Quân? Rồi Lạc Long Quân lấy Âu Cơ, bỏ Âu Cơ mà ra biển, trở về thủy phủ, để “những đứa theo cha khổ đến giờ?” Liên tiếp theo đó là những giếng nước gieo mình của truyện Mỵ Châu Trọng Thủy nơi An Dương Vương mất nước về tay Triệu Đà, và Mỵ Châu mất đầu khi người cha đưa một lưỡi gươm và gọi to trên bãi biển Mộ Dạ: “Thần Kim Quy ở đâu sao không tới cứu ta?” Và nhân vật lịch sử này lại cũng xuống nước mà đi mất.
Những Mê Linh hai bà sau ba năm dành độc lập cũng lại nhảy xuống Hát Giang. Và tại sao dân tộc ta không vượt Trường Sơn vào sâu trong đất liền, mà cứ kéo nhau tiến theo bờ biển ngoằn ngoèo kéo dài từ mũi Kỳ Cùng xuống tới mỏm Cà Mau? Tại sao cứ bám lấy sóng cứ nổi trôi trên mặt nước?
(Giỗ đầu, nhớ Thái Văn Kiểm – Viên Linh)
Những trăn trở tháng Tư - 1
Nguyễn thị Thanh Bình: Chuyện “hoà giải” càng khó vì bản tính “phe phái” và “chấp” của người Việt. Cứ xem ngay trong số người ghét cộng sản hiện nay, kể cả trí thức văn nghệ sĩ, vẫn có sự chia rẽ đến nản lòng: giữa người Nam và người Bắc, giữa những người luôn hô hào “chống cộng quyết liệt” với những người muốn “thoát cộng bằng áp lực chuyển hoá phi bạo lực”; giữa những nạn nhân của CS với những cựu CS nay “giác ngộ, hồi chánh”.
Hàng ngồi, từ trái sang: Lê Xuân Khoa, Nhật Tiến, Hoàng Hưng. Hàng đứng, từ trái: Trịnh Y Thư, Nguyễn Thị Khánh Minh, Đặng Thơ Thơ, ca sĩ Thu Vàng. Trong buổi ra mắt thi tập song ngữ Ác Mộng/Nightmares của Hoàng Hưng hôm 16/9/2018 tại Fountain Valley, Quận Cam.
(Nguyễn thị Thanh Bình phỏng vấn Hòang Hưng)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Trần gian vốn là mộng
Thực hư cũng là mộng
Say mộng hay tỉnh mộng
Đều là mộng mà thôi
(Thanh Từ)
Những trăn trở tháng Tư - 2
Hòang Hưng: Kinh nghiệm bản thân là một người không biết mình thuộc “bên” nào, vì sau 30/4/1975 thì vào Sài Gòn với danh nghĩa “bên thắng” nhưng trong bụng thầm nghĩ mình “thua”, rồi sau đó lại bị “bên thắng” tống giam cùng với “bên thua”, còn bây giờ thì được “bên thắng” coi là “đối tượng ngăn chặn”, cùng lúc lại… hẫng hụt trước những sự kỳ thị, hay xầm xì nghi kỵ!
Vậy: “Hoà giải” thì không thể! Nhưng có khả năng “hoà hợp”:
- Trước mắt: Hoà hợp trước tiên là giữa tất cả những người VN Tự Do trong-ngoài nước, bất kể quá khứ, nay chung một mục tiêu kép: “thoát Trung, thoát Cộng”.
- Tương lai: người Việt sẽ tự động “hoà hợp” sau vài thế hệ, khi mục tiêu trên đã hoàn thành, khi con cháu của “Cộng sản” cũng như Cộng hoà lúc ấy đều là… nhà tư bản hoặc người làm thuê, là trí thức hay doanh nhân độc lập (self-employed), chẳng còn ai nhớ gì đến quá khứ lẫy lừng hoặc đau thương của cha ông trong cuộc nội chiến 20 năm và “thống nhất” những năm sau đó!
Vậy thì: Nếu không thay đổi được lịch sử, thôi thì ta cứ góp một hạt cát cho ngôi nhà tương lai của người Việt, theo viễn cảnh được vẽ ra ở trên!
(Nguyễn thị Thanh Bình phỏng vấn Hòang Hưng)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Đêm qua mộng lại thật gần
Đừng lay tôi nhé hồng trần mong manh
Phạm Thị Hoài
Trần Vũ: Đọc Mâm xôi cúng cụ tên “bác” trên môi, Hồ Chí Minh: Tôi hạ lệnh cho nhân dân và nhiều tiểu luận khác, tôi nhận ra tác giả của Thiên Sứ theo dõi sát sao hành trình, sự nghiệp và từng chữ viết của “chủ tịch”. Ngay cả khi trưng bày khía cạnh négatif, vẫn gần như là một mê mẩn. Có thật vậy?
Phạm Thị Hoài: Tôi đang đọc và so sánh hàng loạt bài diễn thuyết của ông Hồ ở nhiều thời kỳ khác nhau trước nhiều tầng lớp dân chúng khác nhau. Kết luận sơ bộ của tôi là: Hồ Chí Minh là chủ biên của chế độ, trái với niềm tin của những người tiếp tục tiếc nuối rằng nếu chế độ này thực sự làm đúng những điều “bác Hồ” mong muốn thì nó đã ít nhiều nhân bản hơn, ít nhiều dân chủ hơn. Còn “nếu” gì ở đây? Ông ấy thậm chí là người đã tôi luyện cái ngôn ngữ tuyên huấn khủng khiếp chúng ta vẫn đang nghe hôm nay.
(Trần Vũ thực hiện)
Tiểu sử: Phạm Thị Hoài tên thật: Phạm Thị Hoài Nam. Sinh năm 1960 tại Hải Dương. Ngụ cư tại Berlin, Germany
Tác phẩm: Thiên sứ, Mê lộ, Từ Man Nương đến AK và những tiểu luận, Marie Sến. Tác phẩm biên soạn: Trần Dần: Ghi 1954-1960.
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Trăm năm nhìn xuống đời mộng ảo
Khoảnh khắc nhìn lên ngộ lẽ trời
Phạm Thị Hoài
Trần Vũ: Không duy nhất là một nhà văn, Phạm Thị Hoài còn là người sáng lập trang web nổi tiếng Talawas rồi Pro&Contra. Tuy đình bản đã lâu nhưng đến này vẫn còn nhiều người băn khoăn về ý nghĩa của hai “thương hiệu” đó. Tôi trong số đám đông này và từng tự diễn dịch: “Ta” là chúng ta, “La” là la mắng và “Was” là phân thì quá khứ của động từ to Be. Có nghĩa “Ta mắng quá khứ”, tức chối từ quá khứ thụ động, phân rẽ và hiềm khích của dân tộc, hoặc “Ta là quá khứ”, vì tri thức thụt lùi so với thời đại. Với tôi, Talawas mang nghĩa này. Đa phần là tôi hiểu sai?
Phạm Thị Hoài: Apple không bán táo mà bán iPhone. Google thì hoàn toàn vô nghĩa, do một lỗi đánh máy. Talawas là gì, điều đó không quan trọng. Trong các trường phái nghệ thuật, chỉ có Dada và Punk là đem lại cho tôi cảm hứng lâu dài. Tôi tin rằng những người đồng sáng lập Talawas sẽ không phản đối nếu tôi đặt nó vào luồng cảm hứng đó.
(Trần Vũ thực hiện)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Sống trong cõi mộng ta đừng mộng
Ở chốn vô thường ta vẫn thường
Những tác phẩm trong… sọt rác
Đó là một tờ giấy học trò khổ nhỏ. Một bài thơ. Chữ viết bằng bút chì nguệch ngoạc, nét run, nét mờ, như thể viết ra một lần là xong và gửi luôn cho toà báo. Theo quy định của báo là bài lai cảo phải viết trên một mặt giấy sạch sẽ. Còn bài thơ nét chữ bút chì này lại viết trên cả hai mặt giấy. Nhưng bài thơ khiến ông xúc động lạ thường, đó là Hai Sắc Hoa Ti Gôn của T.T.Kh.
Và ông đã ngồi lặng đi trong mối rung cảm. Rồi ông bước vội đến đưa bài thơ cho Trúc Khê, yêu cầu đọc ngay. Trúc Khê thấy ông đang quá xúc động, cũng bỏ bút, cầm đọc bài thơ. Trúc Khê cũng ngồi lặng đi, rồi đọc lại lần nữa. Ông già Trúc Khê vỗ tay xuống bàn, nói với ông: “Sao lại có bài thơ tuyệt đến thế này”. Ngay sau đó, Ngọc Giao gọi ông cai thợ sắp chữ nhà in lên, bảo sắp chữ ngay bài thơ ấy cho số báo sắp ra.
(Hồi ức của nhà văn Ngọc Giao
về bài thơ Hai Sắc Hoa Ti Gôn)
Giai thoại về Tô Hoài
Thích chuyện tào lao
Lớp học của Tô Hoài hồi đó lổn nhổn tuổi tác, với muôn vàn lí do. Có người học Tây, có người học Nho, có người sau 1945 mới tập ngoáy chữ. Hầu hết các học viên đầu đã bạc tóc hoặc đương bạc.
Những lúc ngồi chuyện tào lao, Tô Hoài thường cùng bè bạn lôi đủ thứ ra bàn bạc trêu chọc. Chẳng hạn chuyện có ông thường xuyên trốn học, nhưng cũng được ra trường với danh cao cấp. Có người đi học vì sắp được lên chức. Có người học được dăm bữa nửa ngày, thì nhận được giấy gọi đi chiến trường B. Có người bỏ vợ bỏ con về trường bồi dưỡng văn hóa, sau đó về hưu.
Rồi việc ngày xưa Nguyễn Công Hoan nhờ bạn vào làm bài thi vấn đáp hộ, bây giờ thì nhờ thi viết hộ. Muôn nỗi buồn cười. Tô Hoài có cái tật ngồi lê đôi mách và hay hóng chuyện.
Người tình cuối trong cuộc đời Hồ Xuân Hương là ai?
Nữ sĩ họ Hồ là một tài thơ hiếm thấy và có mối kết giao rộng rãi với các bậc văn nhân tài tử đương thời.
(Hồ Xuân Hương, tranh Bùi Xuân Phái)
Bà từng kết bạn với Nguyễn Du, Tốn Phong Thị, Chiêu Hổ, Tham hiệp trấn Sơn Nam Hạ Trần Quang Tỉnh.... và đã làm lẽ vài lần.
Những mối tình của bà luôn gắn với những giai thoại lưu truyền trong dân gian và trong thơ ca. Mối tình cuối cùng của Hồ Xuân Hương là với Tham hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển. Hồ Xuân Hương làm vợ lẽ Trần Phúc Hiển vào khoảng năm 1814 đến 1818, đây có lẽ là khoảng thời gian hạnh phúc nhất của bà.
Trần Phúc Hiển là người đàng trong. Ông vốn con nhà thi thư, năm Gia Long thứ 2 (1803), được bổ chức Hàn Lâm Viện Thi Thư, sau đó làm Tri Phủ Tam Đái thuộc trấn Sơn Tây. Đến năm Gia Long thứ 12 (1813), Trần Phúc Hiển được thăng chức Tham Hiệp trấn Yên Quảng (Quảng Yên, Quảng Ninh). Trần Phúc Hiển khi đó đã có vợ ở quê nhưng người vợ không theo chồng ra Bắc nên đã lấy lẽ Hồ Xuân Hương và đến sống ở Quảng Yên.
(Uông Triều)
Sự tích Tây Hồ
Bên bờ phía đông của hồ Tây có một doi đất ăn lạn ra hồ như một bán đảo. Bán đảo đó là làng Tây Hồ, một làng cổ của kinh thành Thăng Long.
Ở đầu làng sát ngay mép nước có một ngôi đền thờ bà Liễu Hạnh, một nhân vật có thật sống vào thế kỷ XVII nhưng được dân gian thần thánh hoá tôn làm Thánh Mẫu đứng đầu thần điện của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Những nơi thờ mẫu gọi là đền, nhưng đặc biệt những nơi có liên quan mật thiết đến mẫu Liễu Hạnh (nơi sinh, nơi hiển thánh) thì gọi là phủ.
Tây Hồ - Hồ Tây
(Hồ Tây năm 1831)
Trong dân gian, hồ được gọi là hồ Trâu Vàng và còn có tên khác là Dâm Đàm (đầm mù sương - khói sương mờ mịt tạo nên cảnh trời, đất, nước kỳ lạ).
Theo tài liệu của ông Bùi Văn Nguyên trong Cảnh trí Hồ Tây xuất bản năm 1978" thì tên Dâm Đàm còn được sử dụng đến năm 1573 (đời nhà Trần, nhà Lý). Khi vua Lê Thế Tông lên ngôi, vì tránh gọi hồ là Dâm Đàm, là tên húy của vua là Duy Đàm, nên gọi là Tây Hồ. Năm 1832, Minh Mạng thứ 12 đổi tên Thăng Long là Hà Nội và đổi Tây Hồ là Hồ Tây.
Ai là người dịch Chinh phụ ngâm
Bấy giờ có sự tham dự của các nhà in ở Phố Hàng Gai như Liễu Văn đường, Phúc Văn đường, Phú Văn đường... in nối bản của Vũ Hoạt, với các bản in chữ Nôm sao chép lại câu; Thanh Trì Nhân Mục Đặng Trần tiên sinh Côn trước – Văn Giang Trung Phú Đoàn phu nhân Điểm diễn âm
(Đặng Trần Côn tiên sinh ở Thanh Trì, Nhân Mục soạn. Đoàn Thị Điểm phu nhân ở Văn Giang, Trung Phú dịch nôm).
Phố Hàng Gai cuối thế kỉ XX; nơi tập trung các nhà in sách như Cát Thành, Liễu Văn đường, Tụ Văn đường, Phúc Văn đường, Đồng Văn đường, Quảng Thịnh đường, Cẩm Văn đường, Quan Văn đường, Trường Văn đường, Gia Liễu đường
Vậy là từ đó về sau, mọi người mặc nhiên công nhận bản Chinh Phụ ngâm diễn âm hiện hành là của Đoàn Thị Điểm. Như Chinh Phụ ngâm khúc dẫn giải của Nguyễn Đỗ Mục (Tân Dân, 1944),Chinh Phụ ngâm khúc giảng luận của Thuần Phong Ngô Văn Phát (1952), Chinh Phụ ngâm của Vũ Đình Liên-Hoàng Ngọc Phách-Lê Thước, Nữ lưu văn học sử của Lê Dư, Việt Nam văn học sử yếu của Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử trích yếu của Nghiêm Toản, Việt Nam Văn học sử Giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ cũng như Chinh Phụ ngâm của Vân Bình Tôn Thất Lương do Tân Việt xuất bản ở miền Nam... đều cứ theo lời người xưa mà cho rằng Chinh Phụ ngâm diễn âm hiện hành là của Đoàn Thị Điểm.
Ngay cả Từ điển Văn học 2005 do Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên cũng viết trong mục từ Đoàn Thị Điểm: “...có lẽ trong thời gian xa chồng bà đã dịch ra quốc âm tập thơ Chinh Phụ Ngâm từ bản chữ Hán của danh sĩ Đặng Trần Côn...”.
(Nguyễn Cẩm Xuyên)
Đại Việt sử lược
Đại Việt sử lược là bộ biên niên sử xưa nhất nước ta.
Sách ghi chép từ đời Hùng Vương đến nhà Lý, viết vào năm 1377 có ghi niên hiệu vua Trần cuối cùng là Trần Đế Nghiễn.
Sách này có thể là quyển Việt Chí của Trần Phổ soạn.
Sau đó Lê Văn Hưu sửa lại là Đại Việt sử ký, rồi bị thất lạc một thời gian và bị đổi tên, mãi về sau mới tìm thấy ở bên Trung Hoa và được xếp vào Tứ khố toàn thư, một bộ bách khoa toàn thư của nhà Thanh và mang tên là Việt Sử lược, không ghi tên tác giả.
Sách này được Tiên Hi Tộ đời Thanh hiệu đính.
Còn bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu bị thất lạc, chỉ còn một số lời bình luận được chép lại trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên được hoàn tất năm 1479.
(Nguyễn Văn Nghệ)
Gối đầu lên sử tre gỗ mít
Trần Trọng Kim trong lời Tựa sách Việt Nam Sử Lược viết:
"Nước Việt ta khởi đầu có sử từ đời nhà Trần, vào thế kỷ thứ 13". Ông Lê Văn Hưu vâng lệnh vua Trần Thái Tông (1225 - 1258) biên soạn bộ Ðại Việt Sử Ký được xem là bộ sử đầu tiên và như vậy học giới cho rằng ông là người viết sử đầu tiên của nước ta.”
Theo ông Hoa Bằng viết trong Tạp chí Tri Tân, số 6 ngày 8-7-1941, thì: Trước Lê Văn Hưu đã có Trần Tấn (cùng sống dưới triều vua Trần Thái Tông) trước tác bộ Việt Chí, sau đó Lê Văn Hưu mới sửa lại cho hoàn chỉnh, đầy đủ, thứ tự và có lời bàn tức bộ Ðại Việt Sử Ký ngày nay.
Khoa cử thời xưa
Hương cống, tiến sĩ
Từ thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497), thí sinh sau khi thi sát hạch ở trấn được dự khoa thi Hương (hương là đất quê gần quê nhà) qua 4 kỳ thi được gọi là tứ trường.
(Thi Hương ở trường thi
Nam Định năm 1897)
Đỗ kỳ thứ nhất (nhất trường)
Đỗ kỳ thứ hai (nhị trường)
Đỗ kỳ thứ ba (tam trường)
Đỗ tam trường được nhận học vị Sinh Đồ (thời Minh Mạng là Tú tài). Đỗ kỳ thứ tư (tứ trường), được nhận học vị Hương Cống hay Cống sĩ (thời Minh Mạng là Cử Nhân)
Ghi chú: Đỗ thi Hương được bổ làm tri huyện.
(Tiến sĩ Nho học Thăng Long Hà Nội - Bùi Xuân Đính)
Tác phẩm của Trần Trọng Kim
Sơ học An Nam sử lược (1917)
Sư phạm yếu lược (1918)
Việt Nam sử lược (1919)
Truyện Thúy Kiều chú giải (1925)
Quốc văn giáo khoa thư
Việt Nam văn phạm (cùng Bùi Kỷ, Nguyễn Mạnh Tường) (1941).
"Chẳng hạn, với những sách trước 1975, Cục Xuất bản yêu cầu các nhà xuất bản thành lập hội đồng thẩm định, trước khi nộp hồ sơ xin giấy phép."
"Ứng xử mạch lạc như thế thì tránh tình trạng làm phiền lẫn nhau khi nhà xuất bản đã phát hành sách, mà Cục lại thu hồi bằng cách giải thích riêng."
"Chính hội đồng thẩm định sẽ đảm bảo cho giá trị cuốn sách trước người đọc và trước cơ quan quản lý."
Bởi lẽ, không phải biên tập viên nào của nhà xuất bản cũng đủ trình độ để thẩm định một cuốn sách đã có độ lùi lịch sử, hoặc tác giả có vướng mắc quá khứ."
Cũng trong hôm 27/6, Giáo sư Vũ Dương Ninh nói với BBC từ Hà Nội: "Từ góc độ nhà nghiên cứu, tôi cho rằng cuốn Một Cơn Gió Bụi có giá trị lịch sử vì nó nói người thực, việc thực để chúng tôi có nhìn nhận, đánh giá về giai đoạn đó"
"Còn về góc độ văn học cho công chúng, tôi nghĩ ở thời điểm này thì xuất bản cuốn sách đó ở Việt Nam có lẽ không phù hợp."
(Dương Cầm)
Tản mạn về tiếng Việt
Cánh
Cánh tay, cánh quạt, cánh cửa, cánh buồm, cánh đồng, cánh rừng (?), cánh quân, cánh tả (phái), cánh hữu (phái), cánh thời gian (Thời gian hỡi, dừng ngay cánh lại... O temps suspends ton vol, et vous, heures propices, suspendez votre cours.... Le Lac của Lamartine, bản dịch của Khái Hưng).
Thực tình tôi chưa thấy ai dùng mạo từ cánh cho danh từ thời gian. Nhưng Khái Hưng, một trong hai nhà văn hàng đầu của Tự Lực Văn Đoàn đã bảo thời gian dừng cánh. Và nhà thơ Pháp Lamartine, trong kiệt tác Le Lac (Hồ Leman ở Thụy Sĩ) của ông đã bảo thời gian ngừng bay.
Thì ngày nay nếu có ai mạnh dạn chắp (mạo từ) cánh cho (danh từ) thời gian, thì cũng có thể chấp nhận được.
Càng làm giầu cho tiếng Việt thôi.
(Minh Võ)
Chuyện lông rùa sừng thỏ
Cụ Nguyễn Văn Siêu (thần Siêu thánh Quát) khi nói về kim chỉ nam của Tầu giúp phái đoàn ta đi qua Phù Nam, Lâm Ấp về nước đã phán một câu: “Trong chiêm bao nói chuyện chiêm bao”.
Cụ Nguyễn Văn Siêu đã chê rất nhiều học giả, sử gia. Trong số người bị chê có cả Lê Quý Đôn, mà người Việt tôn làm đại học giả. Nếu cụ Nguyễn chê đúng thì văn cụ Lê không đáng tận tín. Nếu chê sai thì văn cụ Nguyễn bất như vô thư.
Chuyện Nguyễn Trãi – Thị Lộ đúng là chuyện lông rùa sừng thỏ 100 phần 100. Bởi một cuốn sử lề trái (không phải chính sử mà cũng không phải dã sử) đã viết rằng ông Nguyễn xin về hưu, vua không cho, ông phải dâng người thiếp là Thị Lộ, vua mới ưng.
Nếu tôi nói rằng Thái Tông cướp vợ của Nguyễn Trãi thì quí vị chửi tắt bếp!
(Chân Diện Muc)
Những vai phụ “láy”, “đệm” trong ngôn ngữ Việt
Việt ngữ có nhiều từ ngữ, nếu đứng riêng một mình, thường không có nghĩa gì cả. Trước tôi, đã có nhiều tác giả bàn luận về loại từ ngữ này và đặt tên cho chúng là "từ láy" cặp kè trong những "từ kép" hoặc "từ đôi". Khi bàn về "từ láy", Anh Lê Hữu chỉ ghi vài dòng trong ngoặc kép:
"từ ngữ láy, một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả" , và đan cử một vài thí dụ: khe khẽ, nhẹ nhàng, êm ả, gần gũi, lạ lùng… hoặc: khẽ khàng, im ả, yên ắng, gần gụi, lạ lẫm… Theo ý tôi, gọn nhưng rất chính xác.
Cặn kẽ hơn, anh Bùi Vĩnh Phúc viết:
"Thật ra thì từ láy có thể được dùng để làm cho lời văn uyển chuyển, dịu dàng hơn, mà cũng có thể làm cho lời văn mạnh mẽ, dồn dập hơn, tuỳ trường hợp và tuỳ cách láy. Cùng với từ kép, từ láy làm cho lời văn tiếng Việt trở nên giàu sắc điệu hơn, nghĩa là làm cho lời văn có nhiều mầu sắc và nhịp điệu để thể hiện ý tứ, tình cảm và tâm tư của người viết.
Từ kép có thể là danh từ (chợ búa, cửa nhà…), mà cũng có thể là động từ (cáu gắt, la mắng…), hay tính từ (giận dữ, vui tươi, buồn chán…), hay theo lối lắp ghép (một tính từ cộng một động từ: buồn thương, vui cười…), v.v…; còn từ láy thường là tính từ, và có thể nói hầu hết từ láy là từ thuần Việt.
Ngoài tính từ, những từ loại khác hiếm được tìm thấy trong dạng từ láy, mặc dù cũng có thể có (như nghỉ ngơi, chạy nhảy, nảy nở…)" , vì không đồng ý hoàn toàn với lý giải của Anh Lê Hữu.
(Ngô Nguyên Dũng)
Xe đạp hòm ba bánh
Gốc gác của xích lô được Tam Lang gợi ý như sau
- Một cái màn vải dọc trắng dọc đỏ căng trên bốn chiếc gọng sắt lừ lừ tiến đến trước mặt tôi; là chiếc xe đạp hòm ba bánh đem bán rong đường những đồ giải khát.
Đứng trên bờ hè, tôi nhìn hai chiếc xe đạp này dùng thay cho xe kéo. Ba chiếc bánh cao su lắp vào một cái gióng bằng sắt, hai bánh để trước, một bánh để sau. Giữa hai bánh trước, đặt một cái giỏ mây vào, sau lưng giỏ dựng một cái cần cao để làm cọc chống đỡ lấy cái mui; vành sau giỏ lắp một cái tay xe cho người ngồi đạp đằng sau cầm lái.
(Nguyễn Dư)
“Nhiều chuyện” với hẻm
Sài Gòn có nhiều hẻm số hẳn hoi nhưng người Sài Gòn vẫn quen gọi tên hẻm theo “dấu hiệu nhận biết”. Ví dụ như nói hẻm số 53 đường Nguyễn Huệ, Q.1 thì ít người biết nhưng nhắc đến hẻm “Bà Cả Đọi” thì không chỉ người Sài Gòn mà người miền Bắc cũng biết. Theo người dân sinh sống ở hẻm này, trước giải phóng, tại đây có quán cơm do người phụ nữ miền Bắc tên Cả Đọi làm chủ. Lâu dần, người ta lấy “cơm Bà Cả Đọi” làm “dấu hiệu” nhận biết, thành ra có tên “hẻm Bà Cả Đọi”.
Hiện nay, tiệm cơm bà Cả vẫn còn nhưng do người thân của bà đứng bán là tiệm cơm Đồng Nhân - cơm bà Cả đặt nhiều ở các địa điểm như đường Trương Định, Tôn Thất Thiệp… Tương tự như vậy, nói hẻm số thì chẳng mấy ai biết nhưng nói “hẻm bún ốc”; “hẻm bún riêu”, “hẻm bún đậu”; “hẻm bia hơi”… thì ai cũng rành, không chỉ riêng giới trẻ.
(Trần Tuy An)
Mũi dại lái phải chịu đòn
Câu “mũi dại lái phải chịu đòn”, chẳng hạn, là một kết quả của từ nguyên dân gian trong đó “dại” là một kẻ tiếm lập đã chiếm chỗ của từ “vạy” vì hình thức nguyên thuỷ của câu tục ngữ là “mũi vạy lái phải chịu đòn”.
Đây vốn là lối nói của nghề ghe thuyền “mũi vạy” là mũi thuyền đi lệch hướng, thường là do ảnh hưởng của dòng nước xiết hoặc cơn nước xoáy. Trong tình thế khó khăn này, người cầm lái phải vững vàng thì mới có thể đưa con thuyền đi trở lại cho đúng hướng mà vượt qua chỗ nguy hiểm được.
Chính vì thế mà anh ta phải “chịu đòn”, nghĩa là phải ra sức ghị cây đòn lái cho thật chắc theo hướng đã định để cho con thuyền khỏi bị cuốn theo cơn nước xoáy hay dòng nước xiết.
Động từ “chịu” ở đây chỉ là một với “chịu” trong “chịu mũi”, “chịu lái”, “đứng mũi chịu sào” … chứ “chịu đòn” ở đây không phải là nhận hình phạt bằng roi vọt. Chỉ vì không hiểu lối nói này của nghề ghe thuyền nên người ta mới nói trại tiếng thứ hai của câu tục ngữ đang xét từ “vạy” thành “dại” rồi hiểu “đòn” ở đây là roi vọt mà thôi.
(Phan Trọng Hoa – Thành ngữ, tục ngữ khó hiểu)
Khoa trương trong ca dao của người Việt
Sử dụng so sánh tu từ
So sánh tu từ là sự đối chiếu về hai sự vật (về tính chất, trạng thái sự việc) A và B cùng có một dấu hiệu chung nào đó giống nhau. A là sự vật chưa biết, nhờ qua B mà người đọc biết A hoặc hiểu thêm về A. So sánh tu từ còn gọi là so sánh hình ảnh, đó là một sự so sánh không đồng loại, không cùng một phạm trù chung, miễn là một nét tương đồng nào đó về mặt nhận thức hay tâm lý.
Ví dụ :
Thân em như một đóa hồng
Lấy phải thằng chồng như cứt bò khô.
Hay
Những người béo trục béo tròn
Ăn vụng như chớp đánh con cả ngày
Hoặc:
Đêm qua mới gọi là đêm
Ruột xót như muối, dạ mềm như dưa.
Mắm Long Xuyên - 2
Tản Đà ở chơi Long Xuyên mấy ngày thì về Hà Nội, kết thúc chuyến Nam du.
Về đến nhà, lòng nhà thơ bừng lên nỗi nhớ miền Nam. Nhớ da diết. Từng khuôn mặt thân quen của bạn bè trong đấy lần lượt trở về trong tâm trí. Nhưng người nhà thơ nhớ nhất tên gọi ngồ ngộ món đu đủ mỏ vịt để ăn với mắm. Nỗi nhớ nữa là cô Tư, nhớ giọng nói Nam kỳ... Nhớ nhiều lắm. Nhiều lúc nhà thơ muốn vào ngay Long Xuyên để được thấy cô Tư. Không ai cấm nhớ. Nhưng nhớ thì làm được gì. Giá chưa gặp còn hơn.
Biết vậy, nhưng nhà thơ vẫn cứ nhớ:
Bốn phương mây nước, người đôi ngã
Hai chữ tương tư, một gánh sầu.
Cứ thế, ôm mối tương tư, nhà thơ trở nên lẫn thẩn suốt cả tháng liền, người cứ rạc cả đi. Ai có hỏi dạo này sao có vẻ đăm chiêu, ít nói, Tản Đà tiên sinh chỉ cười gượng gạo:
- Nhớ… mắm Long Xuyên.
(nguồn: Trần Thế Kỷ)
Tự điển thành ngữ
Câu “bám anh em xa, mua láng giềng gần” là cách nghĩ và ứng xử mối quan hệ nhân văn trong nhà ngoài ngõ bị biến thành: “bán anh em xa? Mua láng giềng gần”. “bám” biến thành “bán”, chỉ vì nghĩ chữ “bán” đối với chữ “mua”.
Đọc truyện & Xem phim “Bác sĩ Zhivago”
“Bác sĩ Zhivago”, bản dịch tiếng Việt của Nhà xuất bản Văn học
Truyện về bác sĩ Zhivago rất khó đọc, khó nhớ tên nhưng cuốn phim “Doctor Zhivago” đã thu hút người xem kể từ khi đạo diễn người Anh, David Lean, dựng thành phim năm 1965. Có rất nhiều lý do để giải thích hiện tượng “ăn khách” của cuốn phim này. Phim chỉ lấy phân cảnh chính là cuộc tình “vụng trộm” của Yuri và Lara. Kẻ có vợ, người có chồng đã yêu nhau trong một hoàn cảnh “cay đắng”. Trong thâm tâm người xem, phải chăng đó là thứ “trái cấm ngọt ngào nhất” (?).
Khi chiếu tại Việt Nam trước 1975, phim “Doctor Zhivago” mang một cái tên thật thơ mộng, “Vĩnh biệt tình em”, đã thu hút không ít người xem đến rạp. Đó cũng là một cái tựa của bản dịch cuốn sách tại Sài Gòn năm 1974.
Hai diễn viên Omar Sharif và Julie Christie
trong phim “Doctor Zhivago”
(Nguyễn Ngọc Chính)
"Ông Văn Nghệ" Võ Thắng Tiết
Thầy Thanh Tuệ sống rất đơn giản. Thú vui của thầy là sách và giao du với giới văn nghệ sĩ. Nói tới thầy Thanh Tuệ, thầy Từ Mẫn cho biết: “Thầy là một tu sĩ nhưng cũng còn là một nghệ sĩ nữa”. Thầy thân thiết với Bùi Giáng, Phạm Công Thiện và đam mê sách của nhà sách Xuân Thu. Nhà sách Xuân Thu trước đó mang tên Albert Portail, chuyên nhập cảng sách báo ngoại quốc. Thầy Thanh Tuệ mê sách tới độ mỗi khi nhìn thấy một cuốn sách ngoại quốc trình bày đẹp hay lạ mắt, in trên giấy tốt, là nhắm mắt mua dù giá cả ra sao. Thầy mang sách về săm soi một cách thích thú.
Sách của nhà Lá Bối bán rất chạy nhưng sau một năm tổng kết tình hình tài chánh, đã không có lời mà còn thua lỗ nợ nần. Thầy Nhất Hạnh quyết định giao nhà Lá Bối cho thầy Từ Mẫn. Thầy Thanh Tuệ sau đó đã lập một nhà xuất bản khác đặt tên là An Tiêm. Hai nhà xuất bản “chùa” này được coi là đứng đắn, xuất bản được nhiều đầu sách giá trị gồm các tác phẩm của Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn văn Xuân, Võ Hồng, Phùng Khánh, Hồ Hữu Tường, Dương Nghiễm Mậu và nhiều người khác.
(Khuyết danh)
Trên tuyến tàu xưa Gò Vấp-Sài Gòn
Trên đường Thống Nhất về phía dinh Độc Lập có nhà thờ Đức Bà được bắt đầu xây dựng năm 1877 và được khánh thành 1880, nhưng mãi đến năm 1895 mới xây thêm hai tháp chuông. Phía trước nhà thờ Đức Bà người Pháp cho xây tượng đồng Giám Mục Pigneau de Béhaine (Adran) và hoàng tử Cảnh.
Con đường “trả lại em yêu” Duy Tân cây dài bóng mát của một thời sinh viên thơ mộng, mơ mộng. Nơi đây có hồ Con Rùa, có Viện Đại Học Saìgon, đại học Luật khoa nơi Tô Lai Chánh đã từng làm chủ tịch sinh viên Liên khoa trong biến cố đau buồn của lịch sử Việt Nam 1963
Hồ Con Rùa 1968
Hồ Con Rùa thời Pháp thuộc đầu thế kỷ 20
Sau khi ghé thăm con đường lịch sử Norodom-Thống Nhất, chúng ta trở lại trạm xe điện trên đường Mạc Đĩnh Chi để ra chợ Bến Thành.
Ga Sài Gòn 1881
Xe điện chạy dọc theo Cường Để, dọc theo bến Bạch Đằng quẹo phải vào đường Hàm Nghi (De La Somme), chạy ngang trước chợ Bến Thành rồi về ga Saìgòn Thú vui tùy túi tiền, kẻ vào nhà hàng Thanh Thế, Kim Sơn, Thanh Bạch, kẻ vào Continental, Caravelle, kẻ ngắm nhìn mẫu hàng mới trong Passage Eden.
Nhà Hàng Continental 1931
Giới sành điệu, ký giả, người lịch lãm thì vào Givral ở góc đường Lê Lơi Tự Do hoặc Brodard trên đường Tự Do hay La Pagode góc đường Tự Do Lê Thánh Tôn
Brodard 1960
Quán Brodard trước ở góc đường Tự Do và Nguyễn Văn không còn giữ được danh tiếng ngày xưa (bánh không ngon như xưa.
(Y Nguyên - Mai Trần)
Can qua
Can là cái mộc, qua là cái giáo.
Can qua là hai món binh khí, nghĩa bóng là chiến tranh.
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Ngôi sao Hàn Thuyên
1974. Đã hai mươi năm, từ một lần gặp lại. Chủ nhật, mùng 6. Thêm một lần gặp chót với người Hàn Thuyên cũ. Đưa tiễn anh một quãng đường, rồi Phan Lạc Phúc, Vũ Khắc Khoan, Thanh Tâm Tuyền và tôi kéo đến phim trường Alpha, xem trong một xuất chiếu riêng, cuốn phim Hè Muộn của đạo diễn trẻ tuổi Đặng Trần Thức. Hè Muộn là cuốn phim vừa đoạt 5 tượng vàng trong 7 tượng vàng chính giải văn học nghệ thuật toàn quốc. Phim thuộc loại khó, danh từ điện ảnh gọi là "phim của đạo diễn". Cốt truyện dật dờ đòi hỏi suy đoán. Những hình ảnh biểu tượng đầy đặc. Chúng tôi theo dõi, cẩn thận, chăm chú. Xong, kéo về nhà Doãn Quốc Sỹ ăn cơm trưa.
Trời tuyệt đẹp. Tháng sáu, mà buổi sáng Sài gòn tơ liễu như một buổi sáng mùa thu miền Bắc. ban nãy, gió thổi lộng trên những ngọn cây cao vút ven con đường tới An Dưỡng Địa. Ban nãy, những giải nắng ấm áp, đã lăn theo những vòng bánh chậm chạp của cỗ xe tứ mã mà cánh tả xe là di ngôn người Hàn Thuyên xưa kêu gọi hoà đồng và cứu chuộc lấy mình của nhà văn và trí thức toàn cầu. Quá trưa, trời vẫn đẹp. Bữa ăn kéo dài trong trò chuyện bình tĩnh. Tuần cà phê kéo dài thêm nữa bữa ăn. Anh Quỳnh đi giữa một Chủ Nhật rộng rãi, khí hậu và dáng vẻ mùa Thu đậm đà hơn với trận mưa tơ lất phất khoảng 4 giờ chiều, trong nỗi lòng chúng tôi cũng ấm áp như cái nắng mùa Thu bay bay trong nó nhiều bâng khuâng nhẹ nhàng, tâm trạng mà tôi yêu mến lắm và muốn mọi người cùng có như mình về anh Quỳnh, lúc đi theo linh cữu anh, và mãi mãi.
(Mai Thảo)
Gỏi đu đủ bò khô
Phạm Công Luận, người tương đối trẻ, sống thời nay nhưng miệt mài đi tìm những dấu vết xưa của Sài Gòn đã có duyên gặp được anh Nguyễn văn Tuynh, con trai của ông già áo đen. Anh Tuynh, người phụ cha bán đu đủ bò khô suốt 9 năm trước khi đi quân dịch, nhớ lại: Sài Gòn thời ấy không có nhiều hàng quán cầu kỳ như bây giờ. Không chỉ giới bình dân, giới có học không câu nệ phải ăn hàng quán sang trọng mắc tiền. Do đó các xe bán hàng ăn trên lề đường rất đông khách, có đủ cả sinh viên, thầy cô giáo, tiểu thương, công tư chức và quân nhân. Anh Tuynh tiết lộ cách làm khô bò của ông già áo đen: “Nhà tôi làm khô bằng lá lách bò, thịt thì bằng thịt ở má bò vì má bò có gân nên vừa mềm vừa dai, khi chín tới ăn rất thơm ngon. Lá lách bò dài như miếng gan heo, luộc chín, khứa từng khứa để khi xào nấu thì gia vị thấm vào bên trong mới ngon. Xong đem xào với sả, ngũ vị hương, muối, đường, gừng (để khử mùi nồng của lá lách bò) rồi đổ nước vào cho ngập mặt, đun hơn một giờ cho sệt lại. Sau đó vớt ra cho vào chảo chiên. Qua ba công đoạn luộc, xào rồi lại chiên nên mới có miếng sém cạnh, vừa bùi vừa giòn, ngon vô cùng”.
(Song Thao)
Hủ qua
Ca dao có câu:
Hủ qua xanh, hủ qua trắng
Hủ qua mắc nắng hủ qua đèo
Thương em, thì anh làm giấy giao kèo
Lăn tay điểm chỉ mới thiệt con mèo của em
Hủ qua đây là mướp đắng. Miền Nam gọi là khổ qua.
(khổ qua là từ Hán)
10 câu nói của Tào Tháo
“Thắng bại là chuyện thường tình của binh gia”
(Sưu tầm và biên soạn: Huy Phương)
Chữ nghĩa làng văn
Người ta kể nhạc sĩ Văn Cao uống nhiều rượu và thẩm định rất chính xác. Ông thích và thường uống rượu ta, rượu “cuốc lủi”. Khi có rượu ngoại, ông để dành tiếp khách. Ông uống rượu theo kiểu nhâm nhi, từ từ, từ khi ngủ dậy đến tận quá trưa. Sau ngủ trưa, ông lại uống tiếp. Một ngày ông dùng đến… 1 lít rượu “cuốc lủi”.
Hầu như phố nào có rượu bán, ông đều mua uống. Bởi thế, ông biết vị rượu ở từng ấy. Một lần, vừa nhấp chén rượu, ông nói ngay: “Cái này ở chỗ cửa rạp Xiếc (phố Trần Nhân Tông), hơi “mỏng”, uống tạm được”. Lần khác, khi vừa nhấp một chút, ông nói luôn: “Cái này men Hà Đông, “gợn” nhưng mà lành”.
Trần Văn Thủy – Trịnh Công Sơn
Thầy tôi im lặng như thế tôi rất sợ, tôi lên tiếng rất khẽ:
– Thầy bảo gì chúng con ạ?
Một lát sau ông mới thủng thẳng nói một câu rất ngắn: – Hỏng – hẳn – rồi – các – con ạ!
Tôi không hiểu. Lúc đó tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi hỏi lại:
– Thầy bảo gì cơ ạ?
– Thầy và bác Phó Mâu đã giúp Việt Minh quá nhiều, bây giờ bác chết oan, Thầy không còn tin vào cái gì nữa!
Trong cuộc đời, tôi rất nhớ những điều Thầy tôi đã nói với tôi. Đây không phải là lúc kể ra tất cả, nhưng cái câu đau đớn, bất đắc chí: ” Hỏng-hẳn-rồi-các-con ạ”! Thì chắc chắn xuống mồ tôi cũng không thể nào quên được”.
(Phạm Phú Minh)
Phạm Phú Minh là tên thật, Phạm Xuân Đài là bút hiệu. Ông sinh năm 1940, người làng Đông Bàn, quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Học Đại Học Văn Khoa Sài Gòn và Sư Phạm ban Triết học tại Viện Đại Học Đà Lạt. Tốt nghiệp Sư Phạm năm 1964.
Từ 1993 đến 2007 làm việc với tạp chí Thế Kỷ 21 trong các nhiệm vụ thư ký tòa soạn, chủ nhiệm và chủ bút. Hiện nay la chủ bút tạp chí online Diễn Đàn Thế Kỷ (diendantheky.net).
Đã tổ chức, hoặc phối hợp tổ chức các buổi: Văn học Việt Nam tại hải ngoại 2007. Triển lãm và Hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn, 2013
***
Phụ đính I
Bún từ Bắc vô Nam
Xưa, ngoại thành Thăng Long có ngôi làng mà tên gọi đã gắn liền với một món bún ngon: bún mọc. Đó là làng Mọc, còn gọi Kẻ Mọc, trước thuộc tổng Nhân Mục. Vốn là quê hương của nhà thơ Đặng Trần Côn, tác giả kiệt tác văn chương bằng chữ Hán Chinh Phụ Ngâm, mảnh đất kia còn sản sinh ra món bún khá thanh với nước dùng ninh xương lợn, thả thêm thịt ba chỉ, giò viên, nấm hương.
Trong tuyển tập Văn hoá ẩm thực Hà Nội (7), giáo sư Vũ Ngọc Khánh khẳng định: "Quê gốc bún thang là từ Hà Nội và cũng thịnh hành ở Hà Nội". Chế biến bún thang khá cầu kỳ bằng nhiều nguyên liệu. Lươn và thịt gà xé nhỏ, ướp gia vị rồi xào nghệ cho vàng ươm. Trứng tráng cùng giò lụa đã thái chỉ sẵn. Nước dùng thì hầm kỹ xương lợn, xương gà, cua đồng, tôm he, nấm, củ cải. Bún phải chọn loại mảnh sợi, chần sơ nước sôi rồi mới bỏ vào bát. Đoạn đặt lươn, gà, trứng, giò lụa lên trên, cùng nhúm ruốc thịt / thịt chà bông và đôi lát trứng muối. Rắc thêm rau mùi, răm, húng, hành, ngò, xong mới chan nước dùng nóng sốt. Chưa hết. Đầu bếp còn điểm vào tí mắm tôm, cà cuống cho bát bún ngát hương đượm vị đã, lúc ấy mới dọn mời thực khách.
Tại Nam Định, có một quán nằm sâu trong ngõ hẻm ngoằn ngoèo nơi phố Hai Bà Trưng - xưa là phố Vải Màn - để thưởng thức bún cá rô đậm đà hương vị đồng quê. Gặp mùa cá rô nặng bụng trứng thì món bún này càng thêm béo thơm ngọt.
Một món bún cực kỳ đơn giản song dân Hà Nội khoái lắm: bún đậu. Đậu phụ / đậu khuôn / tàu hủ được rán dòn nóng bỏng, chấm mắm tôm, kẹp rau kinh giới, ăn với bún đã cắt thành từng vuông nhỏ.
Các gánh bún đậu bên lề đường Thái Hà và Lý Quốc Sư, trưa nào cũng đông nghịt. Đắt khách nhất ắt là quán bún đậu trong ngõ Phất Lộc, con hẻm nằm song song với phố Nguyễn Hữu Huân, nơi mà học giả Nguyễn Hiến Lê (1912 - 1984) từng chào đời. Bún đậu độc nhất vô nhị của Hà Nội. Tuy chế biến quá đơn giản, nhưng trừ Hà Nội ra, chẳng đâu có bún đậu cả. Còn khối món bún khác, như bún riêu, bún bung, bún dấm cá, canh bún.
(Phanxipăng)
Phanxipăng có họ tên Trần Ngọc Tĩnh
Chào đời năm Canh Tý 1960 ở thành phố Huế
Cựu sinh viên khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Hiện cư trú ở Sài Gòn
Tác phẩm: Vàng máu (Tiểu thuyết) - Cốt cách mùa xuân (Tập phóng sự) - Sài Gòn nay (Tập phóng sự) - Huế chừ (Tập phóng sự)
***
Phụ đính II
Chữ nghĩa làng văn
Nguyễn Văn Vĩnh - 1
Nguyễn Văn Vĩnh sinh ngày 15-6-1882, trong một gia đình nghèo tại Thôn Phượng Vũ, xã Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Gia đình ra Hà Nội, để thoát khỏi cảnh sống cơ cực tám tuổi, Nguyễn Văn Vĩnh đi chăn bò thuê ngoài bãi Long Biên, ven sông Hồng. Ông bước vào đời từ một cậu bé 8 tuổi, kéo quạt ở trường hậu bổ đình Yên Phụ. Năm 1898, ở tuổi 16, ông tốt nghiệp trường thông ngôn Hà Nội.
Năm 1913, ông làm chủ bút tờ Đông Dương Tạp Chí, kiêm chủ bút tờ Trung Bắc Tân Văn. Cả ba tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn, Đông Dương Tạp Chí, và Trung Bắc Tân Văn đều do ông Schneider, người Pháp sáng lập. Tờ Đông Dương Tạp chí dưới quyền quản lý chủ bút của Nguyễn Văn Vĩnh. Ban biên tập gồm có: Thượng Chi Phạm Quỳnh, Phan Kế Bính, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Bá Trác, Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Lệ Thần Trần Trọng Kim, v…v....
Chữ nghĩa làng văn
Nguyễn Văn Vĩnh - 2
Vào năm 1934-1935, lúc kinh tế suy thoái, và tài chính ấn quán bị thua lỗ, ông chuyển hướng, và hợp tác với một người bạn Pháp Clémenti sang Lào để khai thác mỏ tìm vàng. Phóng sự "Một tháng với những kẻ tìm vàng" là tác phẩm cuối đời của ông.
Một thân một mình, giữa nơi rừng thiêng nước độc, sơm thâm cùng cốc của Vương quốc Vạn Tượng, người ta tìm thấy xác ông trên một con thuyền độc mộc trên sông “Sê-Băng-Hiên” sau một đêm mưa gió, một tay vẫn giữ chặt cây bút, còn tay kia là quyển sổ vẫn đang viết tiếp ký sự:
Một tháng với những người đi tìm vàng.
Đám tang của ông được tổ chức tại Hà Nội với những người đưa tiễn "dài hàng cây số".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét