Tạp Ghi và Phiếm Luận :
Chữ THU
Một năm có bốn mùa : Xuân Hạ Thu Đông; THU là mùa thứ ba trong năm. Theo "Chữ Nho... Dễ Học" thì THU 秋 thuộc dạng chữ Hội Ý sau Tượng Hình, có diễn tiến chữ viết như sau:
Ta thấy :
- Bộ HÒA 禾 là Cây lúa, phần chữ Tượng hình có một bông lúa chín gục đầu về bên trái.
- Bộ HỎA 火 là Lửa, phần Tượng hình là hình tượng của một đống lửa cháy lên ba ngọn.
- Chữ THU 秋 là Mùa Thu, đươc ghép bởi chữ HÒA là Cây Lúa và chữ Hỏa là Lửa, với Hội ý là: Cây lúa đã chín đỏ rực như lửa khắp đồng ruộng. Mùa lúa chín tức là mùa thu hoạch và cũng là mùa THU trong năm, được gọi là THU THÂU 秋 收 là "Thâu hoạch vào mùa Thu".
Chữ THU 秌 còn có một hình thức đặc biệt nữa là bộ HỎA 火 có thể đặt trước bộ HÒA 禾 để chỉ sự đỏ rực, vàng hực của cây lúa trong mùa Thu và đồng thời cũng là mùa của "Lá vàng trước gió sẻ đưa vèo !" như cụ Nguyễn Khuyến đã tả trong bài THU ĐIẾU 秋 釣 là "Câu cá trong mùa Thu".
Kể về bốn phương Đông Nam Tây Bắc, thì mùa Thu là hướng Tây, còn kể về Âm dương Ngũ hành thì Tây phương Canh Tân thuộc Kim, nên gió mùa thu là Kim Phong 金 風, là "Gió Vàng" hiu hắt, se sắt lạnh lùng, như Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã mở đầu Cung Oán Ngâm Khúc bằng hai câu :
Trải vách quế GIÓ VÀNG hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng !
Gió mùa thu là Gió Vàng, là gió của hướng Tây, nên trong ca dao dân gian vùng Nam bộ sông nước cũng có câu:
Anh về để áo lại đây,
Để khuya em đắp GIÓ TÂY lạnh lùng.
..........
Có lạnh lùng lấy mùng mà đắp,
Trả áo anh về đi học kẻo trưa !
Trong văn học cổ thì mùa Thu được nhắc nhở bài bản tượng hình tiêu biểu với một chiếc lá Ngô đồng qua hai câu:
Ngô đồng nhất diệp lạc, 梧 桐 一 葉 落,
Thiên hạ cộng tri thu ! 天 下 共 知 秋!
Có nghĩa :
Ngô đồng một chiếc lá rơi,
Khắp cùng thiên hạ biết trời vào thu !
Còn trong văn thơ thời Tiền Chiến thì thi sĩ Ngyễn Bính đã cảm nhận mùa Thu bằng hai chiếc lá Bàng, mà ngày xưa thầy giáo lớp Sơ cấp Tiểu Học đã bắt học thuộc lòng như sau:
Thu đi, trên những cành Bàng,
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi.
Hôm qua đã rụng một rồi,
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn.
Hôm nay, bởi thấy tôi buồn,
Lìa cành theo gió, lá luồn qua song.
Hai tay ôm lá vào lòng,
Than ôi! chiếc lá cuối cùng là đây!
Quạnh hiu như tấm thân này,
Âm thầm sống với những ngày gió mưa...
Mùa Thu năm Bính Tí (1937)
Riêng thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu thì cảm nhận mùa Thu qua tất cả các mặt đặc trưng như THU PHONG (Gió thu), THU SƯƠNG (Sương thu), THU NGUYỆT (Trăng thu), THU DIỆP (Lá thu), THU GIANG (Sông thu)... trong bài "Cảm Thu, Tiễn Thu" qua các câu mở đầu của bài thơ như sau...
Từ vào thu đến nay:
Gió thu hiu hắt, (Thu Phong 秋 風)
Sương thu lạnh, (Thu Sương 秋 霜)
Trăng thu bạch, (Thu Nguyệt 秋 月)
Khói thu xây thành. (Thu Yên 秋 煙)
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh, (Thu Diệp 秋 葉)
Sông thu đưa lá bao ngành biệt ly...(Thu Giang 秋 江)
Còn trong Truyện Kiều thì cụ Nguyễn Du chỉ chấm phá những nét đặc trưng tiêu biểu của mùa Thu mà thôi, như :
Long lanh đáy nước in trời,
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng !
hoặc như :
... Nàng thì dặm khách xa xăm,
Bạc phao cầu giá đen gầm ngàn mây.
Vi lô san sát hơi may,
Một trời Thu để riêng ai một người !
Mùa Thu là mùa của thi nhân, mùa của những thi sĩ với tâm hồn lãng mạn, với tình cảm thiết tha sướt mướt, với những khối tình sầu của những người yêu tưởng nhớ đến nhau; Ta hãy nghe Huyền Kiêu diễn tả thật nên thơ với các câu:
Thu vàng có chàng tới hỏi:
- Em thơ, chị đẹp em đâu?
- Chị tôi khăn trắng ngang đầu
Đi hát tình sầu trong núi !
Còn "Giọt Lệ Thu" của nữ sĩ Tương Phố thì buồn thương ướt át với...
Sầu thu nặng lệ thu đầy,
Vi lô san sát hơi may lạnh lùng.
Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
Ai đem Thu cảnh bạn cùng THU TÂM.
THU TÂM 秋 心 là Tâm tình, tâm sự trong mùa Thu heo may hiu hắt khi lòng đang nặng trĩu sầu tư... và đây cũng là một cách chơi chữ của nữ sĩ Tương Phố tài hoa: Lấy chữ TÂM 心 đặt dưới chữ THU 秋 ta sẽ có chữ SẦU 愁 theo phép Hội Ý; Tâm tình trong mùa Thu thì thường là những mối tình sầu. Chẳng những trong thi ca mà cả trong âm nhạc nữa, mời bấm vào link dưới đây để nghe bản nhạc "THU SẦU" của cố nhạc sĩ tài hoa Lam Phương:
Ngoài nghĩa chỉ mùa Thu ra, THU còn có nghĩa là Một Năm, vì mỗi năm chỉ có một mùa Thu thôi; nên TAM THU 三 秋 ngoài nghĩa là 3 tháng của mùa thu ra, còn có nghĩa là ba năm nữa; Như trong bài Thái Cát, chương Vương Phong trong Kinh Thi 《詩 经· 王 風· 采 葛》:
彼 采 葛 兮, Bỉ thái cát hề,
一 日 不 見, Nhất nhật bất kiến,
如 三 月 兮! Như tam nguyệt hề !
彼 采 蕭 兮, Bỉ thái tiêu hề,
一 日 不 見, Nhất nhật bất kiến,
如 三 秋 兮! Như tam thu hề !
彼 采 艾 兮, Bỉ thái ngải hề,
一 日 不 見, Nhất nhật bất kiến,
如 三 歲 兮! Như tam tuế hề !
Có nghĩa :
Người kia đi hái bố đay,
Vắng nhau dù chỉ một ngày mà thôi.
Tưa như ba tháng đà trôi !
Người kia đi hái cỏ tiêu,
Không gặp từ sáng đến chiều mà thôi.
Tưởng như ba thu qua rồi !
Người kia hái ngải nơi đâu,
Một ngày không gặp nghe sầu không thôi.
Đằng đẵng như ba năm trời !
Từ bài Kinh Thi trên đã hình thành một thành ngữ "Nhất Nhật Tam Thu 一 日 三 秋" có nghĩa: Một ngày dài tựa ba mùa thu (ba năm). Trong Truyện Kiều, tả lúc Kim Trọng tưởng nhớ Thúy Kiều cụ Nguyễn Du đã viết:
Sầu đong càng khắc càng đầy,
BA THU dọn lại MỘT NGÀY dài ghê!
Trong ca dao dân gian Nam bộ cũng có câu:
Xin đừng rẻ Bắc chia Nam.
Nhất nhật bất kiến như Tam Thu hề.
Huống Tam Thu bất kiến hề,
Người Nam kẻ Bắc nhớ về một phương !
TAM THU 三 秋 là ba năm, nên THIÊN THU 千 秋 là Ngàn năm, chỉ thời gian rất dài rất lâu, là mãi mãi về sau... như trong vế thơ mà nhà văn Khái Hưng trong Tự Lực văn Đoàn đã thoát dịch bài thơ của kịch tác gia người Pháp Félix Arvers (1806 - 1850) trong truyện ngắn "Tình Tuyệt Vọng" của Ông là:
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành THIÊN THU.
Tình tuyệt vọng, nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay !...
THIÊN THU là Ngàn năm, thường dùng để chỉ thời gian vô tận của mãi mãi về sau mà không bao giờ với tới được... nên cũng dùng để tiễn đưa, điếu tang để tỏ lòng tiếc thương với người qúa cố; Ta hay nghe câu THIÊN THU VĨNH BIỆT 千 秋 永 別, nói Nôm na là NGÀN THU VĨNH BIỆT hay VĨNH BIỆT NGÀN THU là sẽ mãi mãi không bao giờ còn gặp lại nhau được nữa!
THIÊN THU là mãi mãi rồi, là cái móc thời gian ngàn năm mà con người không sao vươn tới được, nhưng dã tâm trong lòng con người lại rất lớn, nhất là những người đang có quyền lực trong tay, như trong truyện võ hiệp "Tiếu Ngạo Giang Hồ" của nhà văn Kim Dung, Nhậm Ngã Hành sau khi về nắm lại chức giáo chủ của Nhật Nguyệt Thần Giáo đã cho giáo chúng tung hô mình với câu "Văn thành võ đức, THIÊN THU VẠN TẢI, nhất thống giang hồ 文 成 武 德,千 秋 萬 載,一 統 江 湖". Ý chỉ mới là giáo chủ của một bang giáo mà thôi, chả trách các hoàng đế ngày xưa đều muốn mọi người phải tung hô "VẠN TUẾ 萬歲". Ngàn tuổi còn không đạt được huống hồ muôn tuổi ! Thường thì từ "THIÊN THU" chỉ để ca ngợi công đức của các bậc thần thánh mà thôi, như những miếu thờ Quan Công của người Hoa ở khắp nơi trên thế giới, ta thường thấy có đôi câu đối sau đây:
千 秋 義 勇 無 雙 士, THIÊN THU nghĩa dũng vô song sĩ,
萬 古 精 忠 第 一 人. Vạn cổ tinh trung đệ nhất nhân.
Có nghĩa :
- Từ ngàn xưa đến nay, không có được người thứ hai trung nghĩa và dũng cảm như thế.
- Tính từ muôn đời trước, đây là người số một hết dạ trung thành với chúa mà thôi.
NGÀN THU nghĩa dũng không hai tướng,
Vạn cổ tinh trung chỉ một người !
Vì THU 秋 chỉ thời gian gần cuối năm, nên THU NƯƠNG 秋娘 là từ dùng để chỉ những phụ nữ đứng tuổi mà nhan sắc còn mặn gợi cảm, ta có thành ngữ "Bán Lão Thu Nương 半 老 秋 娘" dùng để tán thưởng các bà các cô tuy già mà còn đẹp. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ những cô kỹ nữ, ca kỹ tài hoa ở đời Đường. Thường thì các cô nàng đã rất đẹp rồi lại trang điểm và làm dáng ra vẻ sầu thương ủy mị, lạnh lùng như nước mùa thu se sắt nhưng dễ đánh động lòng người, nên các cô thường được gọi là các "THU NƯƠNG 秋 娘", là các "Nàng Thu" đẹp não nùng làm say mê các vương tôn công tử thích ăn chơi lúc bấy giờ. Nổi tiếng nhất có Đỗ Thu Nương 杜 秋 娘, Tạ Thu Nương 謝 秋 娘 (Xem lại bài NƯƠNG là NÀNG)... Trong bài thơ trường thiên "TÌ BÀ HÀNH" của Bạch Cư Dị, khi nàng ca kỹ đàn Tì Bà nổi tiếng năm xưa ở đất Tràng An kể lại thời vàng son của mình lúc còn trẻ đã nói:
曲 罷 曾 教 善 才 服, Khúc bãi tằng giao thiện tài phục,
妝 成 每 被 秋 娘 妒。 Trang thành mỗi bị THU NƯƠNG đố.
Có nghĩa :
- Đàn xong một khúc, thường được các người giỏi về đàn khâm phục,
- Mỗi lần trang điểm xong, thường bị các THU NƯƠNG đố kỵ, ganh tị.
Tì bà thán phục thiện tài,
Mỗi lần trang điểm ganh hoài THU NƯƠNG !
Nên...
THU NƯƠNG 秋 娘 còn là các cô nàng xinh đẹp như mùa Thu; THU BA 秋 波, THU THỦY 秋 水 là ánh mắt trong và đẹp như nước mùa thu gợn sóng của các giai nhân; THU NHAN 秋 颜, THU DUNG 秋 容 là Dung nhan đẹp mà buồn như mùa Thu, như nàng cung phi của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều đã tự hào:
... Nhuỵ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã nhạt mùi THU DUNG.
Áng đào kiểm đâm bông não chúng,
Khoé THU BA dợn sóng khuynh thành...
THU đi với XUÂN, cho ta từ XUÂN THU 春 秋, cũng là từ dùng để chỉ một khoảng thời gian dài, như: Đã trải qua biết mấy độ XUÂN THU rồi !... Có nghĩa là: Đã trải qua một thời gian với rất nhiều năm tháng qua đi rồi. Ta lại có thành ngữ "XUÂN KHỨ THU LAI 春 去 秋 来" là : Xuân đi Thu đến, chỉ thời gian tuần tự qua đi một cách âm thầm lặng lẽ. Thành ngữ nầy lại làm cho ta nhớ đến một vế thơ trong bài "Mai Rụng" của J. Leiba (Lê Văn Bái), một thi sĩ thời Tiền Chiến:
Xuân tàn, hạ cỗi, cảnh Thu sầu,
Mờ mịt hơi đông ám ngọn lau.
Xuân tới cành đào hoa lại nở,
Mong chàng mỏi mắt, thấy chàng đâu?
Ngoài ra...
XUÂN THU 春 秋 còn là một trong NGŨ KINH 五 經 do khổng Tử san định là: Kinh DỊCH 易, Kinh THI 詩, Kinh THƯ 書, Kinh LỄ NHẠC 禮 樂, Kinh XUÂN THU 春 秋. KINH XUÂN THU được xem như là quyển biên niên sử đầu tiên của lịch sử Trung Hoa. Thời Kỳ Xuân Thu 春 秋 時 期 vào khoảng (770-476/403 Trước Công Nguyên)là thời kỳ đầu của Đông Chu (Châu). Khổng Tử đã căn cứ vào Lỗ sử, từ Lỗ Ẩn Công nguyên niên (722 TCN) cho đến Lỗ Ai Công năm thứ 14 (481 TCN) qua 12 đời vua Lỗ để san định Kinh Xuân Thu. Lúc bấy giờ Thiên tử nhà Chu đã bắt đầu suy yếu, không còn hiệu lệnh được Chư hầu. Các châu huyện lớn và các thị tộc lớn đều đứng lên tuyên bố tự trị như một nước Chư hầu, tất cả có trên 140 nước chư hầu lớn nhỏ cùng tranh bá đồ vương. Các Chư hầu lớn mạnh dần lên rồi xưng hùng xưng bá, hình thành Xuân Thu Ngũ Bá 春 秋 五 霸 là Tề Hoàn Công, Tống Tương Công, Tấn Văn Công, Tần Mục Công, và Sở Trang Vương kế tiếp nhau mà Xưng Bá Thiên Hạ. Suốt khoảng 242 năm của thời kỳ Xuân Thu có 36 vua Chư hầu bị sát hại, 52 nước Chư hầu nhỏ bị diệt vong, với hơn 480 trận chiến lớn nhỏ và trên 450 lần hiệp minh cùng triều kiến Thiên tử nhà Chu. Sau Thời kỳ XUÂN THU là Thời kỳ CHIẾN QUỐC 戰 國 時 期 khoảng(475—221 TCN)Gộp chung hai thời kỳ nầy lại gọi là Thời kỳ XUÂN THU CHIẾN QUỐC 春 秋 戰 國 時 期 khoảng trên 500 năm Trước Công Nguyên. "Xuân Thu Ngũ Bá 春 秋 五 霸" cũng là tiền đề gợi ý cho nhà văn Kim Dung viết nên truyện võ hiệp nổi tiếng "Võ Lâm Ngũ Bá 武 林 五 霸" sau nầy.
XUÂN THU CHIẾN QUỐC
Khi san định KINH XUÂN THU, Khổng Tử đã dùng bút pháp thật nghiêm cẩn, khen chê đúng mực thẳng thắn, không vị nể, nên lại hình thành thành ngữ "XUÂN THU BÚT PHÁP 春 秋 筆 法"; dùng rộng ra còn có nghĩa là chỉ cách viết phê phán việc gì đó một cách bộc trực, thẳng thắn không thiên vị. Trong văn học cổ, ta còn thường gặp các thành ngữ "Xuân... Thu..." như sau:
- XUÂN LAN THU CÚC 春 蘭 秋 菊 : là Hoa lan của mùa Xuân và hoa cúc của mùa Thu có xuất xứ từ bài Lễ Hồn trong Cửu Ca của Khuất Nguyên thời Chiến Quốc 戰 國· 屈 原《九 歌·禮 魂, vốn chỉ mỗi mùa hoa đều có một loại hoa đặc trưng riêng của mùa đó, và với hàm ý là: Hoa lan thì đẹp trong mùa Xuân và hoa cúc thì đẹp trong mùa Thu. Mỗi mùa mỗi hoa đều có vẻ đẹp độc đáo riêng của mùa hoa đó, mà không thể so sánh là "Mèo nào hơn mỉu nào" được! Như cụ Nguyễn Du đã cho chàng Kim Trọng đánh giá một cách "Nịnh đầm" hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân là:
Bóng hồng nhác thấy nẽo xa,
XUÂN LAN THU CÚC mặn mà cả hai !
... Chỉ mới "nhác thấy nẽo xa..." thôi, mà đã biết là "XUÂN LAN THU CÚC mặn mà cả hai" rồi! Thiệt là "Xạo hết chỗ nói". Nhưng... biết "Xạo" với phái đẹp, thì cũng "Dễ thương" thôi!
- XUÂN HOA THU NGUYỆT 春 花 秋 月 : là Hoa của mùa Xuân và trăng của mùa Thu. Hai cái đẹp tiêu biểu nhất của hai mùa, nên cũng dùng để ám chỉ đó là cái thời gian vàng son, tươi đẹp, vui vẻ, hạnh phúc nhất của con người. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ bài từ "Ngu Mỹ Nhân 虞 美 人" của Nam Đường Lý Hậu Chúa Lý Dục 李 煜. Về mặt chính trị Lý Dục là một hôn quân không biết chăm lo cho việc triều chính, để đến đổi phải mất nước; nhưng về mặt văn học, thì ông lại là một văn học gia, một thi nhân và được xưng tụng là "Hoàng đế của Từ Đàn", nhất là khi ông bị giam lỏng như một tù nhân của nhà Tống, thì lời từ của ông càng thắm thía da diết buồn thương hơn của một đế vương vong quốc, như bài từ "Ngu Mỹ Nhân 虞 美 人" nổi tiếng sau đây:
春 花 秋 月 何 時 了? Xuân Hoa Tthu Nguyệt hà thời liễu?
往 事 知 多 少! Vãng sự tri đa thiểu !
小 樓 昨 夜 又 東 風, Tiểu lâu tạc dạ hựu đông phong,
故 國 不 堪 回 首 月 明 中。 Cố quốc bất kham hồi thủ nguyệt minh trung.
雕 欄 玉 砌 應 猶 在, Điêu lan ngọc thế ưng do tại,
只 是 朱 顏 改。 Chỉ thị chu nhan cải.
问 君 能 有 幾 多 愁? Vấn quân năng hữu kỷ đa sầu ?
恰 似 一 江 春 水 向 東 流! Kháp tự nhất giang xuân thuỷ hướng đông lưu !
Có nghĩa :
- Cảnh đẹp như hoa Xuân trăng Thu bao giờ mới hết đây?
- Chuyện (tốt đẹp) cũ ôi biết là bao nhiêu!
- Đêm qua trên lầu nhỏ nầy lại hây hẩy gió Xuân (gió hướng đông),
- Nhớ về cố quốc mà chẳng dám quay đầu (vì thẹn) với ánh trăng trong.
- Cung son điện ngọc chắc hãy vẫn còn đó...
- Chỉ là dung nhan tươi trẻ đã đổi thay...
- Dám hỏi người còn có được bao nhiêu là nỗi sầu (vong quốc đây)?
- Tất cả cũng giống như là một dòng nước Xuân chảy miết và mất hút về hướng Đông mà thôi ! (Không bao giờ còn tìm thấy lại được nữa !).
Lục bát :
XUÂN HOA THU NGUYỆT mãi còn,
Bấy nhiêu chuyện cũ mỏi mòn lòng ta.
Gió Xuân lầu nhỏ đêm qua,
Thẹn cùng cố quốc trăng xa quay đầu.
Cung son điện ngọc còn đâu ?
Tuổi xanh má thắm dãi dầu sương pha.
Hỏi người sầu muộn kỷ đa ?
Tựa như dòng nước la đà về Đông !...
Lời từ bày tỏ nỗi lòng ưu tư sầu muộn, nuối tiếc cho những ngày tháng tươi đẹp như "Xuân Hoa Thu Nguyệt" đã đi qua và sẽ mãi mãi không bao giờ còn tìm lại được nữa, mặc dù cung son điện ngọc ngày xưa vẫn còn đó. Chính lòng hối hận tiếc muối và đau buồn nầy của Lý Hậu Chúa đã khiến cho Tống Thái Tông Triệu Quang Nghĩa ban thuốc độc cho ông chết đi để chừa hậu hoạn. Bấm vào link dưới đây để nghe ca sĩ Đặng Lệ Quân, danh ca Đài Loan, hát bài "Kỷ Đa Sầu 幾 多 愁?" phổ nhạc bài từ trên:
Mùa THU là mùa của Thi nhân, của trời xanh mây trắng, của gió mát trăng thanh, của lá vàng bay trước gió... Ta hãy nghe cụ Tam Nguyên Yên Đổ vịnh trời Thu như sau:
Trời THU xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu...
... và...
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Kịp đến bài THU ĐIẾU là "Mùa Thu Câu Cá" thì toàn cảnh mùa Thu hiện ra một cách sống động, nhưng nhẹ nhàng với cái heo may hiu hắt lạnh lẽo của trời hTu vắng lặng qua các vần "trong veo, tẻo teo, đưa vèo, vắng teo..." một cách tài tình và tuyệt vời:
Ao Thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Đến thời kỳ THƠ MỚI của các thi nhân Tiền Chiến thì không ai là không biết đến bài thơ "Tiếng Thu" của thi sĩ Lưu Trọng Lư khi nhắc đến mùa Thu:
Em không nghe mùa Thu...
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực...
Hình ảnh kẻ chinh phu,
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu...
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác...
Đạp trên lá vàng khô?...
Chỉ vỏn vẹn có 9 câu thơ mà tạo nên tên tuổi của Lưu Trọng Lư một cách bất hủ với hình ảnh của "Con nai vàng ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô !..." và đó cũng là hình ảnh của Lưu Trọng Lư đã để lại một cách đậm nét trên thi đàn THƠ MỚI lúc bấy giờ và mãi mãi về sau nữa !...
Cũng như chỉ có hai câu văn trong bài ĐẰNG VƯƠNG CÁC TỰ 滕 王 閣 序 ở đời Đường khi tả cảnh Mùa Thu trên sông nước, cũng đã làm nên tên tuổi bất hủ của người đứng đầu Sơ Đường Tứ Kiệt 初 唐 四 傑 Vương Bột 王 勃 là :
落 霞 與 孤 騖 齊 飛, Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
秋 水 共 長 天 一 色。 THU THỦY cộng trường thiên nhất sắc!
Có nghĩa :
Ráng chiều cò trắng cùng bay,
Long lanh THU THỦY nước mây một màu !
Hình ảnh một cánh cò đơn lẻ bay trên sông nước mênh mông trong ánh nắng chiều tà đã gợi nên một ý thơ lai láng, cũng như một cánh hạc trắng bay vút lên không và in hình trên khoảng trời Thu xanh lơ bát ngát cũng đưa hồn thơ của thi sĩ lên tận chốn mây xanh. Mời đọc bài THU TỪ 秋 詞 của "Chàng Lưu" Lưu Vũ Tích sau đây:
自 古 逢 秋 悲 寂 寥, Tự cổ phùng thu bi tịch liêu,
我 言 秋 日 勝 春 朝。 Ngã ngôn thu nhật thắng xuân triêu.
晴 空 一 鶴 排 雲 上, Tình không nhất hạc bài vân thượng,
便 引 詩 情 到 碧 霄。 Tiện dẫn thi tình đáo bích tiêu !
Có nghĩa :
Ngàn xưa THU đến gợi buồn tanh,
Ta bảo THU hơn xuân thắm xanh.
Cánh hạc vút trời mây bát ngát...
Hồn thơ cũng vút tận mây xanh !
Năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông ở xứ Quì Châu, lúc đó Thi Thánh Đỗ Phủ đã 56 tuổi đang mang bệnh phổi lại thân ở nơi tha hương đất khách. Cảm vì thân phận nổi trôi, công danh sự nghiệp trắc trở, tuổi già lại sồng sộc đến nơi, nên trong ngày mùng 9 tháng 9 tiết Trùng Cửu đăng cao, một mình lên trên thành Bạch Đế ở Quì Châu, nhìn cảnh Thu hiu hắt tiêu điều, núi sông lạnh lùng hùng vĩ, cuồn cuộn nước sông trong cảnh lá đổ muôn chiều, trăm ngàn cảm xúc dâng trào nên ông viết nên bài thơ "Đăng Cao" với cảnh Thu bất hủ qua bốn câu thực và luận như sau đây:
... 無 邊 落 木 蕭 蕭 下, Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,
不 盡 長 江 滾 滾 來。 Bất tận trường giang cổn cổn lai.
萬 里 悲 秋 常 作 客, Vạn lý bi thu thường tác khách,
百 年 多 病 獨 登 台。 Bách niên đa bệnh độc đăng đài...
Có nghĩa :
... Lá vàng lìa cội vàng rơi rụng,
Nước cuộn sông dài cuộn chảy tuôn.
Muôn dặm sầu thu thân đất khách,
Trăm năm thân thế bệnh còn vương...
Thật não lòng thay cho "Vạn lý bi thu thường tác khách"(Muôn dặm sầu thu thân đất khách)! Nhìn nước sông cuồn cuộn chảy trong cảnh lá đổ rạt rào, nỗi sầu Thu trên đất khách càng thấm thía hơn khi có làn gió Thu hắt hiu lạnh lùng thổi đến với đàn nhạn bay về nam in bóng trên nền trời xanh thẳm, như bài "Thu Phong Dẫn 秋 風 引" của Lưu Vũ Tích:
何 處 秋 風 至? Hà xứ thu phong chí ?
蕭 蕭 送 雁 群。 Tiêu tiêu tống nhạn quần.
朝 來 入 庭 樹, Triêu lai nhập đình thọ,
孤 客 最 先 聞。 Cô khách tối tiên văn.
Có nghĩa :
Gió Thu từ đâu thổi đến ?
Hắt hiu đưa tiễn nhạn bầy,
Sáng nay luồn vào cây lá,
Lữ khách hay trước hơn ai !
Lục bát :
Từ đâu thổi đến gió Thu ?
Hắt hiu đưa nhạn mịt mù bay cao.
Sáng nay cây lá lao xao,
Cô đơn lòng khách nao nao trước người !
Cảnh lạnh lùng hiu hắt heo may của mùa Thu càng gợi sầu gợi cảm hơn với cảnh trí tiêu điều của hoa lá cỏ cây, của con đường mòn qua chiếc cầu nho nhỏ dưới ánh nắng chiều Thu nhàn nhạt càng làm cho người khách tha phương ở tận chân trời cảm thấy đứt ruột hơn bao giờ hết qua bài từ "Thu Tứ 秋 思" của Mã Trí Viễn đời Nguyên:
枯 藤 老 樹 昏 鴉, Khô đằng, lão thụ, hôn nha,
小 橋 流 水 人 家, Tiểu kiều, lưu thủy, nhân gia,
古 道 西 風 瘦 馬。 Cổ đạo, Tây phong, xấu mã.
夕 陽 西 下, Tịch dương tây hạ,
斷 腸 人 在 天 涯 ! Đoạn trường nhân tại thiên nhai !
Có nghĩa :
Mây khô, cây già, quạ ám,
Cầu nhỏ, nước chảy, nhà ai,
Đường xưa, gió tây, ngựa ốm,
Nắng chiều dần tắt,
Bên trời đứt ruột ai hay !
Trong cảnh... Mấy cọng mây khô quấn quanh một thân cây già trụi lá, có con qụa lạnh như đang ngủ gật đậu trên cành khô; Bên chiếc cầu nho nhỏ có dòng nước chảy qua là mấy nóc nhà ai trên con đường mòn xưa cũ; Gió tây hiu hắt lạnh lùng khiến cho con ngựa ốm hí vang... Nắng chiều dần tắt, một người lữ khách tha hương đang buồn muốn đứt ruột bên góc trời xa thẳm !
Ba câu đầu là 9 cái Danh từ cùng họp lại để tạo nên một cảnh mùa Thu thê lương lạnh lùng hiu hắt se sắt trong gió Tây lạnh ngắt như đồng; Rồi mới hạ 2 câu sau: Trong cảnh nắng chiều dần tắt, có một người đang sầu thương đứt ruột bên trời !
Đọc bài từ trên, làm cho ta lại nhớ đến một bài đoản văn "CẢM THU" của nhà văn nhà thơ Đinh Hùng hồi thời Tiền Chiến trong phong trào Thơ Mới. Văn mà là thơ, vì ý thơ tràn ngập và bàng bạc trong từng câu văn gợi cảm; mời đọc các trích đoạn sau đây:
"Thu năm nay, tôi lại đi trên con đường vắng này nghe từng chiếc lá rơi trên bờ cỏ... Những cây liễu xanh đứng buồn như những nàng Cung nữ thời xưa, và thấp thoáng trong vườn nhà ai, hoa phù dung buổi sáng nở trắng như một tâm hồn con trẻ ?... Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa và tâm hồn tôi vẫn là tâm hồn tôi năm trước... Tôi vẫn ngờ như không sự đổi thay, vì lại thấy mình đi trên con đường vắng này, Thu năm nay, giữa lúc cây vàng đang rơi lá. Đường này hiu hắt, tôi đem lòng về để gặp mùa Thu thương nhớ cũ..."
Xin được kết thúc bài viết bằng lời trong nhạc phẩm "Nhìn Những Mùa Thu Đi" của Trịnh Công Sơn...
Nhìn những mùa Thu đi...
em nghe sầu lên trong nắng...
và lá rụng ngoài song...
nghe tên mình vào quên lãng...
nghe tháng ngày chết trong Thu vàng...
Mời bấm vào link dưới đây để nghe nhạc :
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét