Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

Đời Thũy Thủ III (Vũ Thất) -- Chương 11 ĐƯỜNG VỀ HÒN TRE

 

                                            
                                         
Đời Thủy Thủ III

Chương 11: ĐƯỜNG VỀ HÒN TRE

Cơn mưa đã bớt hạt nhưng lá cờ còn phần phật gió. Võ Bằng đăm chiêu nhìn chiếc ngư thuyền dập dềnh như một bóng ma giữa biển đêm. Trên sân trước, mấy thân người lờ mờ khi ánh chớp lóe lên. Anh nhìn quanh tìm chiếc không khám xét được. Nó đã mất dạng.

Anh hít một hơi dài. Điều hẳn nhiên: bằng mọi giá phải cứu họ. Nhưng cách nào? Nhờ cố vấn gửi trực thăng thì chiến hạm không sân đáp. Trời đang mưa, hẳn nhiên họ không cần nước. Chỉ cần thức ăn. Giải pháp tạm thời là tiếp tế thức ăn và dòng tàu họ vào bờ.

Anh hỏi Hạm Phó:
– Anh Tiến, tàu mình còn bánh mì không?
– Thưa Hạm Trưởng, tôi tin là còn.
– Vậy chuẩn bị bốn ổ, mỗi ổ rắc vài muỗng đường, bọc kín bằng bao nylon. Đồng thời bảo nhà bếp nấu nồi cháo thịt.
– Nhận rõ.
– Tàu mình có súng bắn dây?
– Thưa có.
– Sẵn sàng súng rồi soạn công điện: “Một tàu đánh cá hư máy, trôi giạt mười ngày. Ba ngư dân bất tỉnh, một kiệt sức, cần cứu cấp. Xin chỉ thị.”
– Rõ.

Hạm Phó rời đài chỉ huy. Võ Bằng nhìn đồng hồ, 23:05. Còn ít nhất sáu tiếng nữa trời mới sáng. Anh nói lớn với giám lộ giữ đèn pha đặt cao bên ngoài đài chỉ huy:
– Đạt, em đi thay quần áo, mặc áo mưa rồi trở lên đây.
– Cám ơn Hạm Trưởng.

Võ Bằng đứng khoanh tay, nghe tiếng sóng vỗ mạn tàu mà nhớ tiếng sóng vỗ bờ An Thới. Như Oanh về Sài Gòn gặp lại Vinh, chắc đã quên anh, quên duyên hải. Nhưng sao giờ chót nàng xưng “em”?
Anh vô tuyến trao Võ Bằng công điện Vùng 4: “Quý chiến hạm cứu cấp và đưa tàu đánh cá về Hòn Tre bàn giao cho Duyên Đoàn. Xong, trực chỉ Bà Lụa. Báo cáo nhận hành.”

Tiếng còi nhiệm sở vận chuyển nổi lên. Các nhân viên túa lên boong. Giám lộ viên bật đèn pha, luồng sáng đâm thủng màn mưa, soi rõ chiếc ngư thuyền vẫn với bốn người bất động. Võ Bằng nói với hạ sĩ quan đương phiên:
– Anh Vạn thủ khẩu đại liên, phản pháo tức khắc khi bị bắn.
– Nhận rõ.

Võ Bằng cho lệnh vận chuyển chiến hạm tiến gần tàu đánh cá. Anh cầm loa:
– Tàu đánh cá. Chúng tôi tiếp tế thức ăn. Sẵn sàng tiếp nhận.

Một người lồm cồm ngồi dậy. Võ Bằng ra lệnh:
– Hạm Phó cho bắn dây.
Sau tiếng nổ nhỏ, đầu dây và bọc bánh mì vụt qua ngư thuyền. Võ Bằng nói vào loa:
– Tàu đánh cá. Sau khi nhận thức ăn, hãy kéo dây nylon buộc chặt vào trụ. Chúng tôi sẽ dòng tàu các anh về Rạch Giá.
– Đội ơn các ông.
– Cố gắng ăn để lấy sức. Sáng mai tới Hòn Tre sẽ có thêm.

Khi được báo dây đã buộc chắc chắn và ngư thuyền lềnh bềnh sau lái chiến hạm, Võ Bằng cho tiến về hướng Đông. Anh thảo công điện: “Trân trọng báo cáo. Bắt đầu kéo ngư thuyền về Hòn Tre.”
Anh trở lại ghế ngồi. Từng cơn gió tạt qua, mang theo sương khuya và mùi biển. Anh nhắm mắt, hít thở thật sâu. Cơn mỏi mệt dịu đi phần nào. Anh nhìn quanh. Cố vấn Mỹ vẫn âm thầm đứng bên anh, mà vì bận rộn anh quên phứt. Cố vấn nói tiếng Việt pha Mỹ:
– Sir, tôi có tin thêm về fishing boat ngoài Hòn Thổ Châu.

Võ Bằng nghiêng đầu:
– Tôi đang nghe.
Cố vấn xổ một tràng tiếng Mỹ:
– Không tuần cho biết suốt tuần qua nó lẩn quẩn ngoài khơi lãnh hải quốc tế. Nghi ngờ nó chờ dịp thuận tiện để xâm nhập vùng Cà Mau, như chiếc vừa bị tiêu diệt ở Vàm Kim Quy. Đệ Thất Hạm Đội đã thông báo Vùng 4 Duyên Hải. Được biết chiếc Tuần Dương Hạm HQ 004 đang trên đường đến Thổ Châu. Hạm Trưởng có nhận lệnh gì không?
Võ Bằng đáp chầm chậm tiếng Việt:
– Không. Theo tôi đoán, Bộ Tư Lệnh không muốn tôi bỏ trống vùng trách nhiệm. Họ tin một mình HQ 004 cũng đủ sức đối phó.

Cố vấn Mỹ gật đầu, không nói gì thêm. Võ Bằng dựa lưng vào ghế, nhắm mắt định thần. Anh cần một giấc ngủ ngắn nhưng giấc ngủ không đến. Ba ngư dân nằm sóng soải chập chờn trong tâm não. Anh hy vọng họ còn đủ sức về đến bờ, vào bệnh viện. Anh cũng hy vọng biển sớm lặng êm để có thể chuyển họ sang chiến hạm, đưa vào lòng tàu cho y tá săn sóc.

Ước vọng của anh dường như thấu đến Ngọc Hoàng, trời đột ngột ngưng mưa. Sóng gió dịu dần. Không gian sáng đủ trông thấy nửa vầng trăng. Nhưng mãi hai tiếng sau gió mới lặn và biển mới êm hẳn.
Nhiệm sở vớt người ban hành. Võ Bằng ra lệnh tháo dây kéo và các lệnh cần thiết đưa chiến hạm cặp vào ngư thuyền. Giám lộ viên rọi đèn pha. Cả bốn ngư dân đều nằm trên sàn. Võ Bằng không hiểu vì sao họ phải nằm dưới mưa mà không ở trong lòng tàu. Tàu chìm, ở đâu, đằng nào cũng chết. Anh đoán chừng họ ở ngoài để kêu cứu đến kiệt sức. Không biết bên trong có còn ai khác?

Toán vớt người thả các trái độn dọc theo hữu hạm để giảm sức va chạm. Bốn nhân viên mang băng ca nhảy qua ngư thuyền chuyển ba ngư dân về chiến hạm. Xong xuôi, chiến hạm tách ra và tiếp tục kéo ngư thuyền. Võ Bằng ghi tóm tắt sự việc vào Nhật ký Hải Hành rồi giao quyền chỉ huy cho sĩ quan đương phiên.

Anh rời đài chỉ huy cùng cố vấn xuống thăm hỏi ngư dân. Họ còn quá yếu để trả lời các câu hỏi. Một người cố nắm tay Võ Bằng, thì thào không thành lời. Anh thông báo là họ đang được đưa về đất liền. Cháo thịt sẽ cung cấp nếu họ có thể ăn. Ánh mắt họ lấp lánh như tỏ niềm biết ơn.
Anh về buồng riêng, tắm rửa, thay bộ quân phục rồi… ngả lên giường. Từ khi đảm nhận chức vụ Hạm Trưởng, Võ Bằng không dám thay đồ ngủ. Khi bị đánh thức, có nghĩa là anh không đủ thì giờ mặc lại quân phục. Bắn chậm thì chết mà! Quá mỏi mệt, anh thiếp đi cùng hình bóng Huỳnh Như Oanh…

***

Cửa đổ bộ Hải Vận Hạm mở ra. Trung Đội địa phương quân túa lên đảo Hòn Lớn – Nam Du mở cuộc lục soát du kích Việt Cộng. Anh và nàng tiếp bước. Rừng dừa xanh ngút ẩn hiện vài chục mái tranh. Nối với rừng dừa là rừng xanh phủ kín như ở An Thới. Hai đứa trẻ chơi cát đứng lên, khoanh tay cúi chào. Như Oanh xoa đầu, khen ngợi.

Hai người dừng trước gian nhà tỏa mùi nước mắm thơm lừng. Cụ già râu dài bạc phơ niềm nở mời vào. Nhà ba gian rộng rãi. Bàn thờ Phật trang nghiêm ở gian giữa. Họ được thết đãi nước dừa. Cũng lạ, dừa ven biển mà ngọt lịm.

Như Oanh nói:
– Thưa cụ, cụ ở đây chắc lâu lắm rồi?
– Từ cha sanh mẹ đẻ tới giờ.
– Thưa cụ, cháu thắc mắc về tên đảo Nam Du, do đâu mà có?
– Ông nội tôi kể, xưa Nguyễn Ánh bôn tẩu, từng ghé đây và khen: “Nam du sơn thủy tuyệt mỹ”. Từ đó đảo mang tên Nam Du. Có một truyền thuyết kể một nàng tiên từ trên thiên đình du hành trần gian rồi đem lòng yêu một chàng chài lưới đảo này. Họ hạnh phúc sống bên nhau…
Không hẹn, Võ Bằng và Như Oanh nhìn nhau, mỉm cười. Anh nói:
– Hay là chúng ta ở lại đây luôn. Không về tàu nữa?
Nàng nguýt anh rồi quay lại cụ già:
– Thưa cụ, có phải sau một thời gian, nàng tiên đưa chàng trai về thiên đình trình diện Ngọc Hoàng?
– Được vậy còn nói gì! Một ngày nọ một con rồng biển nổi lên quấy phá dân đảo. Nàng tiên hóa thành rồng đánh lại. Hai con rồng đánh nhau mấy ngày đêm, cuối cùng nàng tiên thua, hóa thành đá. Đến nay vẫn còn tảng đá mặt người nhìn ra biển.
Như Oanh thích thú uống cạn nửa ly nước dừa rồi hỏi thêm:
– Thưa cụ, ngoài Hòn Lớn, các đảo khác đều có tên kèm theo truyền thuyết hay huyền thoại như Hòn Lớn?
Cụ già vuốt râu cười vang:
– Lâu lắm mới gặp một người tò mò giống tôi thuở nhỏ. Đúng! Các đảo đều có tên. Dân gian có bài vè về tên các quần đảo Nam Du.
Rồi cụ cất giọng ngâm nga:

Hòn Mấu đâm thấu Đô Nai
Đô Nai quay sang Bờ Đập
Bờ Đập tấp lại Hòn Lò
Hòn Lò mò đến Hòn Ngang
Hòn Ngang tạt sang Hòn Đụng
Hòn Đụng cụng vào Hòn Dầu

Cụ dừng lại hớp trà. Như Oanh khen giọng cụ ấm. Cụ thích chí ngâm tiếp:

Hòn Dầu nằm chầu Bỏ Áo
Bỏ Áo tháo ngược Hòn Ông
Hòn Ông dông đến Hòn Dâm
Hòn Dâm đâm thẳng Hòn Tre
Hòn Tre te đến Hòn Mốc
Hòn Mốc xốc lại Hòn Nhàn
Hòn Nhàn tràn thẳng hòn Hàn
Hòn Hàn quàng cổ Hòn Nồm
Hòn Nồm chồm lên Hòn Khô
Hòn Khô nhào vô bãi Chệt
Bãi Chệt lết lên Hòn Lớn..
.

Cụ dừng lại vấn thuốc hút, uống ngụm trà. Như Oanh mắt long lanh:
– Xin cụ vui lòng ghi lại cho cháu bài vè này.
Cụ già nói “được” rồi từ tốn tiếp:
– Còn về giai thoại các đảo, nhiều quá nên tôi nhớ không hết. Cho nên biết gì nói nấy. Ngày xưa có một ông già nghèo dắt bốn đứa con ra Hòn Mấu lập nghiệp. Lớn lên các con lần lượt ra riêng ở trên bốn đảo vây quanh Hòn Mấu, như là con cháu quây quần. Vì vậy nhóm đảo có tên Đảo Con Cháu.

Võ Bằng lên tiếng:
– Tên nghe thật ý nghĩa.
– Truyện kể có một bà ôm con xuống ghe ra đảo trốn bọn cướp. Bọn cướp đuổi theo. Ghe bà đến Hòn Ngang thì va vào đá bị chìm. Ngư dân vớt được hai mẹ con nhưng đứa bé sống, bà thì chết. Dân chài lập miếu thờ cầu an, nhang khói không dứt.
Cụ rót trà vào tách, hớp vài hớp rồi tiếp:
– Hòn Lớn còn một tên khác là Hòn Củ Tròn đặt tên theo hình dạng. Đảo có huyền thoại Cổng Trời, nơi giao tiếp giữa người và tiên. Vào những đêm trăng sáng, ngư dân thấy những bóng dáng bước ra từ một vách đá nứt đôi đi thăm dân đảo. Tôi chỉ nhớ bao nhiêu đó. Tuy nhiên nếu cô cậu muốn nghe chuyện ma…

Như Oanh nhanh nhẩu:
– Cháu rất thích.
Võ Bằng gật đầu:
– Mời cụ kể
– Hòn Mấu là đảo hoang, không người ở, dân đánh cá vẫn đồn đại rằng đêm đêm vẫn thấy ánh đèn lập lòe. Họ tin rằng đó là hồn những thuyền viên bị đắm tàu về thắp đèn dẫn đường cho tàu thuyền. Ngư dân còn kể chuyện, có những chiếc “ghe âm phủ” sơn đen không số thường xuất hiện khi có sương mù chở linh hồn ngư dân mất tích…

Như Oanh kêu lên:
– Xin ngưng. Nghe ghê quá.
Cụ già lại vuốt râu:
– Sợ chuyện ma thì kể chuyện thần biển. Truyện Kiều có câu: “Mụ nghe nàng nói hay tình. Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên”. “Tam Bành” của dân gian là Hỷ Bành: vui quá mức, Nộ Bành: giận mất lý trí, Ai Bành: u sầu mê muội. “Tam Bành” của ngư dân Nam Du là ba vị thần biển. Bành Cấm: nguyền rủa những ai đánh bắt cá vào mùa sinh sản; Bành Hại: trừng trị kẻ giết cá voi, rùa biển, phá rạn san hô; Bành Tận: ám hại người đánh bắt cá bằng mìn, thuốc độc. Nhờ ai nấy đều tin tưởng nên hải sản vùng này dồi dào.

Võ Bằng chắp tay:
– Cụ chắc đã trên 70 mà còn nhớ được vậy là đáng nể lắm. Sau này, cháu chỉ mong được như cụ.

Hai người từ giã nhưng ông cụ mời sang khu làm nước mắm. Gian nhà khá rộng, chứa bốn thùng gỗ thật lớn có dây thừng ràng chung quanh để ủ cá. Ngoài sân, cá cơm phơi khô trên các nong tre. Cụ kể tiến trình thực hiện gồm nhiều giai đoạn xem ra tốn quá nhiều công sức. Cụ còn vui vẻ tặng mỗi người một chai nước mắm nhỉ mang nhãn hãng sản xuất Nam Du của gia đình cụ.

Hai người cám ơn, hẹn trở lại lấy luôn bài vè. Họ bước dọc theo bãi. Cát ở đây không trắng bằng cát An Thới nhưng có nhiều mảnh vỏ ốc lóng lánh hơn. Vô số viên sỏi lạ và đẹp. Như Oanh chọn hai vỏ sò và hai viên sỏi đẹp nhất. Nàng thì thầm: “Em sẽ lộng kính để đầu giường.” Võ Bằng định thưởng nàng nụ hôn lên má thì tiếng chuông reo vang.

Mãi đến đợt reo thứ ba, Võ Bằng mới nhận ra là từ điện thoại nội bộ. Anh bật dậy, chụp máy, tỉnh hẳn giấc mơ:
– Tôi nghe đây.
– Trình Hạm Trưởng, phòng radar báo cáo chiếc tàu đánh cá đang xa dần chiến hạm.
– Tôi lên ngay….

Anh lao vào phòng tắm, mở nước xoa lên mặt cho tỉnh hẳn. Trên cầu thang dẫn lên đài chỉ huy, óc anh vụt sáng một ý nghĩ: không chừng đây là đòn nghi binh. Hai tàu đánh cá cùng xuất hiện. Một tàu giả vờ trôi giạt xin cứu giúp, trong khi tàu kia chạy thoát mang vũ khí vào bờ. Bây giờ lại “tuột dây” để chiến hạm bận rộn, không thể đuổi theo…
Võ Bằng nghe trái tim đập thình thịch, vừa tức giận, vừa lo âu…

Vũ Thất

(Còn tiếp)



Không có nhận xét nào: