
Võ Bằng ngồi lặng thinh, ngước nhìn ra biển. Vẫn là trục quen thuộc mà đầy rẫy hiểm nguy. Anh tính nhẩm: ba ngày cho 20 đảo hoang Nam Du, rồi còn chuỗi ngày vất vả hơn ở Bà Lụa. Nhưng ít ra, Bà Lụa gần An Thới hơn. Gần hơn bóng dáng Như Oanh. Có lẽ giờ này nàng đã có tin nhắn cho chị mình…
Từ Vàm Kim Quy đến Nam Du cần 3 tiếng cho 30 hải lý. Võ Bằng thấy đủ thì giờ cho cơm chiều và tiếp tục cuộc gặp gỡ Ban Tham Mưu.
Sau bữa ăn, Võ Bằng chỉ thị Thiếu Úy Lũy, Thiếu Úy Quang, và Quản Nội Trưởng lần lượt trình diện vào lúc 7 giờ.
***
– Hải Quân Thiếu Úy Đỗ Văn Lũy trình diện Hạm Trưởng.
Cách chào kính mạnh mẽ, khuôn mặt trang nghiêm, thế đứng cứng cỏi. Giọng Huế như lần mò vào tim óc gợi nhớ những mối tình xa xưa. Nào Tuyết, nào Hiền, nào Hồng. Võ Bằng mỉm cười:
– Nghỉ. Mời ngồi.
Anh mở sổ quân bạ:
– Anh ở đường Trần Hưng Đạo, đoạn nào?
– Thưa, ngang chợ Đông Ba.
– Tôi từng đến chợ Đông Ba ngay sau Tết Mậu Thân. Khi ấy, chợ xác xơ lắm!
– Thưa Hạm Trưởng, bây giờ đông đúc như xưa rồi. Tôi vừa về thăm ba mạ trước khi tàu công tác.
“Ba mạ” – hai tiếng gợi nhớ Hồng và đứa con nuôi. Anh thoáng bâng khuâng, rồi hỏi tiếp:
– Anh khóa mấy?
– Khóa 16, thưa Hạm Trưởng.
– Với chức vụ Trưởng Ban Trọng Pháo, anh hoàn thành thế nào?
– Thưa, rèn luyện nhân viên tác xạ chính xác. Bảo trì vũ khí các loại. Kiểm soát chặt chẽ xuất nhập. Tiếp nhận đạn dược, cất giữ, di chuyển an toàn. Bổ sung kịp thời súng hư hỏng và đạn tiêu thụ.
Võ Bằng mỉm cười:
– Riêng cá nhân anh, có tiêu thụ đạn bừa bãi không?
Thiếu Úy Lũy cố giữ mặt nghiêm trang:
– Thưa không.
– Tốt. Giữ như vậy. Đừng để mang tai tiếng Hải Quân.
– Đáp nhận.
– Tôi rất hài lòng và tin tưởng ở anh. Cám ơn anh.
Cũng như khi đến, Lũy trịnh trọng chào rồi quay lui.
Sĩ quan Cơ Điện và Phòng Tai bước vào:
– Hải Quân Thiếu Úy Ngô Quang trình diện Hạm Trưởng.
Võ Bằng chào đáp:
– Mời ngồi.
Quang ngồi, hai tay trên đùi. Các móng tay hơi đen, có lẽ do dầu mỡ.
– Vì sao anh chọn ngành máy móc mà không là chỉ huy?
– Thưa, tôi rất mê máy móc. Thích nghiên cứu cách nó vận hành.
– Chắc anh đồng ý: tàu hư máy thì coi như vừa đui vừa què. Chuyến vừa rồi, các máy chánh máy điện đều vận hành hoàn hảo. Anh rất đáng khen.
– Cám ơn Hạm Trưởng.
– Còn về phương diện phòng tai. Hãy luôn giáo dục phòng ngừa tai nạn. Nhắc nhở nhân viên an toàn là trách nhiệm của mỗi người. Phổ biến các kinh nghiệm sai lầm của người khác để học hỏi cách phòng ngừa. Đặc biệt chú tâm phát hiện hỏa hoạn, phá hoại, tấn công…
– Nhận rõ, thưa Hạm Trưởng.
– Anh có nguyện vọng gì không?
– Thưa không!
– Cám ơn anh.
Cuối cùng, một chàng trung niên cao ráo, rắn rỏi, quần áo thẳng nếp, ngực đeo nhiều huy chương với ba anh dũng bội tinh bước vào:
– Thượng Sĩ Trọng Pháo Lâm Văn Minh trình diện Hạm Trưởng.
– Mời ngồi.
Anh ngập ngừng ngồi lên nửa ghế. Võ Bằng niềm nở giúp anh bớt ái ngại:
– Nhìn huy chương là biết anh gan dạ, gương mẫu. Thời gian ngắn vừa qua đã đủ cho tôi thấy thấy thủy thủ đoàn đối với nhau bằng tình huynh đệ. Đó là công lao lớn của anh. Tôi hoàn toàn tán thành việc cựu Hạm Trưởng chỉ định anh làm Quản Nội Trưởng và tôi mong anh vẫn tiếp tục chức vụ này.
– Rất hân hạnh, thưa Hạm Trưởng.
– Tôi biết anh rất hiểu nhiệm vụ của mình. Tôi chỉ muốn nhắc nhở vài điểm quan trọng.
Chờ Thượng Sĩ Minh chăm chú lắng nghe, Võ Bằng tiếp:
– Chức vụ Quản Nội Trưởng là cầu nối giữa đoàn viên và sĩ quan, dĩ nhiên rất tế nhị, khó khăn. Hãy cố gắng duy trì tinh thần đoàn kết. Đôn đốc nhân viên làm việc với nhiệt tình. Đồng thời nắm vững mọi sinh hoạt và báo cho Hạm Phó hoặc trực tiếp gặp tôi trình bày mọi sự kiện có thể gây ra hiệu quả xấu cho chiến hạm. Nhiệt thành tiếp nhận và đạo đạt mọi nguyện vọng nhân viên.
– Nhận rõ, thưa Hạm Trưởng
– Cám ơn anh.
Khi Võ Bằng lên đài chỉ huy, cả quần đảo đã chìm vào bóng tối. Chiến hạm sắp sửa ngang qua Hòn Mấu tiến đến Hòn Nồm, cực nam của quần đảo Nam Du. Dự tính là sau khi qua Hòn Mấu, sẽ đổi hướng đi vào vùng trong của quần đảo, từ đó len lỏi tuần tra lần lượt 20 đảo kết hợp thành vòng tròn. Thế nhưng thời tiết không còn thuận lợi. Gió giật, rít qua đài chỉ huy. Sóng bắt đầu rung lắc con tàu. Mây đen chớp giật, tung cơn mưa rào xối xả. Hạt to nặng bay lộp bộp vào kính chắn gió…
Võ Bằng lầm bầm kêu than. Ông Trời đúng là giở chứng. Gần qua tháng 11 rồi. Mùa khô bắt đầu từ tháng 10 mà còn mưa cái nỗi gì!
– Đài chỉ huy. Radar bị nhiễu xạ, không thấy đối vật.
Võ Bằng bước đến bàn hải đồ xem xét vị trí sau cùng. Với tình trạng radar có như không, với dòng hải lưu chảy từ tây-nam lên đông-bắc, cách an toàn nhất là giữ chiến hạm dọc phía đông quần đảo. Nếu có bị dòng hải lưu tác động thì chiến hạm càng tách xa. Anh kẻ hải trình mới rồi ban lệnh:
– Lái hướng 020.
Anh mặc áo mưa, trùm kín đầu, bước qua cánh tả, mắt dõi tìm Hòn Mấu. Anh từng tuần tra quanh đảo này. Đảo dài, không mấy cao nhưng cây xanh um toàn đảo. Quanh bờ, đa phần là đá tảng. Vài bờ cát trắng nhưng hoang sơ. Chỉ một nơi có rừng dừa với dăm ba nóc nhà tranh. Nhưng đêm nay, cả dạng đảo cũng không thấy dù vị trí tàu cách không xa hơn hai hải lý. Trước mặt chỉ là đại dương tăm tối, gió dập sóng dồi.
Nước bắn túa vào mặt mùi tanh tưởi, môi măn mẳn. Nước mưa thành giọt trên lưng, lành lạnh. Tim anh như đập nhanh hơn…
Anh nhớ những đêm mang tàu từ Mỹ vượt Thái Bình Dương. Hàng chục đêm mưa gió còn tơi bời hơn thế này và con tàu lầm lũi hải hành phỏng định. Anh tưởng đã quá quen cảnh mưa xối xả trong bóng đêm mênh mông, hãi hùng. Thế mà đêm nay lòng vẫn dậy lên nỗi ưu tư. Liệu trên 60 sinh mạng và con tàu bình an qua đêm nay?
Anh chợt nhớ Hòn Nam Du có đài kiểm báo theo dõi tàu thuyền. Anh chỉ thị sĩ quan đương phiên liên lạc xin vị trí chiến hạm nhưng đài kiểm báo cho biết cũng đang trở ngại gió mưa.
Anh thấy đã đến lúc phải áp dụng một phương pháp hải hành hiếm khi dùng đến để ít nhất giúp phần nào an tâm. Đây cũng chính là dịp cho sĩ quan thực tập, nên nói với sĩ quan đương phiên:
– Trung Úy Tuấn, anh còn nhớ hải hành bằng chiều sâu?
Tuấn ấp úng:
– Thưa, có học nhưng chưa có dịp thực hành.
– Theo anh, hải hành bằng chiều sâu ví như ở đời thường, nó giống trường hợp nào?
Tuấn ngẫm nghĩ rồi đáp:
– Như người mù đi đường, thưa Hạm Trưởng.
– Rất đúng. Người mù nhờ cây gậy dò đường. Với ta, cây gậy chính là máy đo chiều sâu. Bây giờ anh bắt đầu thực hành.
Võ Bằng bước tới bàn hải đồ. Trung Úy Tuấn đứng bên cạnh. Võ Bằng hỏi:
– Trên hải đồ, anh cần chú ý những gì?
– Trước nhất, số đo chiều sâu đáy biển. Kế đến các đường đồng chiều sâu.
– Đúng. Còn cần gì nữa?
– Thưa, bảng thủy triều.
– Và?
– Máy đo chiều sâu.
– Chiều sâu tính theo đơn vị đo lường nào?
– Thưa, fathom. Máy đo gọi Fathometer.
– Khá lắm! Đúng là anh còn nhớ. Thế còn đo chiều cao?
– Tính bằng foot.
– Khi tác xạ hải pháo, tính bằng gì?
– Thưa bằng yard.
– Còn về hải lý và dặm, khác nhau thế nào?
Tuấn hít sâu, trả lời rành rọt:
– Thưa, cùng gọi là mile, nhưng đo hải trình thì gọi hải lý (nautical mile), bằng 1.852 mét. Còn đo trên lộ trình, gọi là dặm (mile), bằng 1.609 mét.
Võ Bằng cười khích lệ, vỗ vai:
– Giỏi! Mỹ rắc rối thế mà vẫn rành sáu câu. Người mình quen xài giản dị theo lối Tây là mét, ki-lô-mét. Nhưng dùng đồ Mỹ viện trợ thì phải rành lối Mỹ.
Anh nói chậm rãi, như cũng để nhắc cả đài chỉ huy:
– Hãy nhớ kỹ: Fathom để đo sâu. Foot cho chiều cao. Yard cho tầm bắn. Nautical mile cho hải trình. Và Knot, mình gọi là gút – hải lý/giờ – cho tốc độ. Nào! Bắt đầu định vị trí chiến hạm bằng fathom đi.
Hạm trưởng trở về ghế. Cả đài chỉ huy lặng đi giây lát, chỉ còn tiếng mưa quất ràn rạt vào kính.
Trung Úy Tuấn nói vào loa đến phòng chiến báo:
– Thám xuất. Cho tôi chiều sâu mỗi hai phút.
Anh cúi xuống ghi chép, lật bảng thủy triều mỗi khi được báo con số, rồi tính toán, đánh dấu trên hải đồ. Mười phút sau, anh trình Võ Bằng hải trình theo chiều sâu. Võ Bằng rất hài lòng:
– Tốt lắm. Anh ghi tất cả vào nhật ký hải hành.
Vị trí mới nhất của chiến hạm cách Hòn Mấu 10 hải lý về phía đông, trên hải trình 020 anh vừa kẻ.
Chợt có tiếng hốt hoảng từ hạ sĩ quan đương phiên:
– Thưa Hạm Trưởng, có đối vật hướng 10 giờ. Rất gần chiến hạm.
Võ Bằng chụp ống dòm. Một chiếc tàu đánh cá lớn hiện ra trong ánh chớp. Anh ra lệnh:
– Còi nhiệm sở tác chiến. Tắt hết đèn hải hành. Các khẩu 40, 50 sẵn sàng!
Tiếng còi dồn dập. Những bóng đen lao vào vị trí. Đài chỉ huy lặng im. Chỉ còn tiếng lên đạn, tiếng máy rền và tiếng sóng ập mạn tàu. Mưa như được khẩu lệnh riêng, lại ập xuống xối xả. Hạt to như đá vụn quất vào mặt rát buốt còn nước thì chảy lạnh sống lưng.
Tàu đánh cá hiện rõ ngay trước mũi. Võ Bằng ban lệnh tránh va chạm:
– Máy tiến 1. Tay lái hết bên mặt.
Chiến hạm xoay qua bên mặt.
– Tay lái số không. Lái thẳng
Hai chiếc chạy cặp kè. Võ Bằng nói lớn:
– Giám lộ. Rọi đèn pha.
Ánh đèn xuyên thủng gió mưa rọi lên một chiếc tàu đối diện. Trên boong, vài ba bóng người đang cố căng tấm bạt một cách mờ ám. Võ Bằng có thừa kinh nghiệm địch lợi dụng đêm tối và trời mưa để chuyển vũ khí. Giọng anh vang lên qua ống loa, khàn đục, lạnh lùng:
– Tàu đánh cá! Yêu cầu ngưng máy ngay lập tức. Chúng tôi tiến hành khám xét.
Lặng im. Chỉ có tiếng máy khục khặc đáp lời.
Võ Bằng lên giọng, đầy đe dọa:
– Lệnh cuối cùng: Tắt máy. Mọi người ở yên vị trí. Bất tuân, chúng tôi nổ súng.
Các nòng súng ghim vào chiếc tàu đang nhồi lên hụp xuống. Tàu đánh cá ngưng máy. Võ Bằng cũng cho máy ngưng. Anh nói vào loa nội bộ:
– Hạm Phó và toán khám xét có mặt ngay bên tả hạm.
Cả hai tàu đều nhấp nhô. Võ Bằng thấy rõ nếu cặp vào, vỏ tàu cả hai đều móp méo, hư hỏng. Nhưng tàu này đang ở vùng cảnh giác. Toán khám xét đang nắm dây an toàn chờ lệnh. Tàu hư thì sửa, quan trọng là súng đạn gây rối miền Nam.
Nhưng Võ Bằng vẫn ngần ngừ. Trời quá tối, lại đang mưa, ánh đèn pha không đủ sáng. Nhảy qua rất nguy hiểm; và trong thế thiếu vững vàng, sẽ khó trở tay khi bị phục kích.
Có tiếng van xin từ tàu đánh cá:
– Xin các quan tránh xa giùm. Đụng hư tàu chúng tôi. Chỉ mới ra khơi. Chưa đánh được con cá nào!
Võ Bằng mở to mắt. Họ xin xỏ thật hay giả vờ? Mà quả đúng, nếu hai tàu va vào nhau, tàu kia mỏng manh hơn chắc chắn thiệt hại nặng hơn. Tàu anh hư thì có Hải Quân Công Xưởng. Còn tàu kia nếu thật đánh cá, họ phải bỏ tiền túi vốn eo hẹp.
Chợt có tiếng Hạ Sĩ Quan đương phiên kêu to:
– Thưa Hạm Trưởng, có một tàu khác phía trước mũi.
Võ Bằng hướng ống dòm tìm kiếm. Một chiếc tàu ẩn hiện trong màn mưa như tàu ma. Khá gần…
Anh dùng dằng, bất định. Rạch Gầm chỉ một mình mà hai tàu xuất hiện. Gọi Duyên Đoàn đảo Nam Du thì thời tiết thế này, ghe yabuta cũng khó ra khơi. Nếu hai tàu địch tập trung hỏa lực tấn công bất thần thì Rạch Gầm khó chống trả. Còn nếu anh quyết định tiên hạ thủ vi cường mà nhằm tàu của dân lành thì tòa quân sự sẵn chờ! Không khám xét được dịp này thì dịp khác. Cách hay nhất là lần quần theo dõi, chờ sáng rồi tính. Anh nói vào loa:
– Ngày mai mưa thuận gió hòa, chúc đánh được nhiều cá.
– Đội ơn các quan.
Anh thở ra một hơi dài như trút bỏ mọi thắc mắc lo âu. Rồi nói với sĩ quan đương phiên:
– Cho giải tán nhiệm sở tác chiến. Giải tán toán khám xét.
Tiếng còi dài vang lên. Ai cũng nhẹ người. Võ Bằng vừa cho máy tiến thì lại nghe tiếng kêu hốt hoảng:
– Thưa, có tàu ngay trước mũi!
Võ Bằng nghiêng người nhìn rồi hối hả ra lệnh:
– Phòng máy. Hai máy lùi full.
Tiếng động cơ kêu rền. Con tàu run rẩy dữ dội. Võ Bằng cũng lạnh người. Nó tính gì mà đâm thẳng vào chiến hạm? Anh cho ngưng máy và ra lệnh rọi đèn. Trên boong, dưới cơn mưa, ba người nằm la liệt. Người thứ tư ngồi vẫy hai tay, nói yếu ớt:
– Cứu! Cứu! Cứu chúng tôi. Tàu chết máy 10 ngày. Đói lắm. Cứu với.
Võ Bằng khựng lại. Có thật bị trôi giạt hay gài bẫy? Mà sóng gió thế này, làm sao cứu? Anh ra lệnh rọi đèn khắp tàu. Một chồng lưới giăng cá chất ở mũi. Ba thân người rời rã dưới mưa. Người đang ngồi chắp tay van lạy. Tim anh se thắt. Bỏ mặc thì không đành. Nhưng giúp bằng cách nào? Tàu anh cũng đang dọ dẫm đường đi…
Vũ Thất
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét