Thứ Ba, 28 tháng 9, 2021

Tạp Ghi và Phiếm Luận : 9 TẦNG TRỜI và 18 TẦNG ĐỊA NGỤC (Đỗ Chiêu Đức)

Tạp Ghi và Phiếm Luận :  

 
    9 TẦNG TRỜI và 18 TẦNG ĐỊA NGỤC

          
       
        Nhân viết bài phiếm luận "THIÊN là TRỜI", tôi có nhắc 
tới Thăng Thiên 升 天 là Lên trời, Phi Thiên 飛 天 là Bay lên 
trời, còn Quy Thiên 歸 天 là Về trời, là chết. Nhưng không 
phải ai chết cũng được về trời, lên trời vì trời chỉ có 9 tầng 
mà thôi, ta hay nghe nói Cửu Trùng Thiên 九重天, còn địa 
ngục thì có tới 18 tầng, gấp đôi số tầng của trời. Điều nầy cho 
thấy là ở trên đời người xấu nhiều gấp đôi người tốt, nên Địa 
Ngục phải xây tới 18 tầng mới đủ chỗ để chứa!   

      Về từ Cửu Trùng Thiên 九 重 天, ngoài nghĩa là 9 tầng 
trời ra, Cửu Trùng Thiên còn được dùng để chỉ ông vua thời 
phong kiến ngày xưa, như hai câu thơ mở đầu trong bài thơ 
"Tả Thuyên Chí Lam Quan Thị Điệt Tôn Tương 左 遷 至 藍 
關 示 侄 孫 湘" của Hàn Dũ đời Đường:

           Nhất phong triêu tấu CỬU TRÙNG THIÊN,  
            一 封 朝 奏 九 重 天,
            Tịch biếm Triều Dương lộ bát thiên.             
           夕 貶 潮 陽 路 八 千.
  
Có nghĩa :
                Buổi sáng trình lên nhà vua một phong tấu sớ,
                Buổi chiều bị đày đi Triều Dương xa tám ngàn dặm                          đường.                        

      Cửu Trùng Thiên 九 重 天 là Vua, còn được gọi là Đấng 
Cửu Trùng, hay Cửu Trùng mà trong tiếng Nôm ta gọi là 
Chín Tầng, như những câu thơ trong đoạn mở đầu của 
Chinh Phụ Ngâm Khúc do Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn Nôm:

    Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
    Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
    CHÍN TẦNG gươm báu trao tay,
    Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh.
      

        Ông bạn bác sĩ đồng tông cùng họ Đỗ trong nhóm "Cựu học 
sinh Phan Thanh Giản và Đoàn Thị Điểm TP Cần Thơ xưa" hỏi 
tôi: "Anh nói 9 Tầng Trời, vậy chớ anh có biết tại sao Trời lại có 
9 Tầng và là những tầng nào hay không?" Câu hỏi khá hóc búa 
và cũng khá lý thú, làm cho tôi phải tốn hết mấy ngày liền lên 
Yahoo và Google để lục lọi, tìm tài liệu để học hỏi và dịch thuật... 
   
      * Giải thích theo bình dân:  thì TRỜI chỉ có 9 tầng vì người 
TỐT được lên trời thì ít; còn ĐỊA NGỤC có 18 tầng vì người 
XẤU ở trên đời nhiều gấp đôi người TỐT, nên phải xây đến 18 
tầng Địa Ngục mới đủ chỗ để  chứa !

      * Giải thích theo khoa học Địa Lý xưa, thì trời đất vốn dĩ liền 
nhau, nên 9 phương trời là 4 phương 8 hướng của không gian là: 
Đông , Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Tây Bắc, Đông Nam, Tây Nam, 
và Trung Ương. Vị chi là 9 Phương Trời. Trong bài hát tân nhạc 
"Nếu Một Mai -  Anh biệt Kinh Kỳ" của Minh Kỳ và Hoài Linh  
trước 1975 có câu:

              TÁM HƯỚNG BỐN PHƯƠNG trời mây,
              Thôi nhé anh đi từ đây ...                                 
                                   

 


      * Giải thích theo Dịch Lý trong Kinh Dịch của Trung Hoa cổ 
xưa, thì số 9 là số lẻ cao nhất trong 1, 3, 5, 7, 9  nên số 9 tượng 
trưng cho cái gì đó nhiều nhất, cao nhất... nên mới gọi trời là 
CỬU TRÙNG THIÊN, có nghĩa là CHÍN TẦNG TRỜI. Số 9 có 
nghĩa là  rất nhiều, là maximum, nên CHÍN TẦNG TRỜI có 
nghĩa là trời có rất nhiều tầng, rất cao rất cao... Nhưng vì số  9  
là một con số cụ thể, nên Chín Tầng Trời hay CỬU TRÙNG 
THIÊN được giải thích cụ thể là :  Nhất vi TRUNG THIÊN 一 為 
中 天,Nhị vi TIỆN THIÊN 二 為 羨 天,Tam vi TÙNG THIÊN 
三 為 從 天,Tứ vi CANH THIÊN 四 為 更 天,Ngũ vi TÚY 
THIÊN 五 為 睟 天, Lục vi QUÁCH THIÊN 六 為 廓 天, Thất 
vi GIẢM THIÊN 七 為 減 天,Bát vi TRẦM THIÊN 八 為 沈 天, 
Cửu vi THÀNH THIÊN 九 為  成天。Tầng thứ 9 là tầng cao nhất 
của trời, theo như truyền thuyết thì trên đó có Ngọc Điện Lăng 
Tiêu 玉 殿 凌 霄 và Ngọc Hoàng Đại Đế 玉 皇 大 帝 ngự ở trong 
đó. 
 
     * Giải thích theo 東 漢 經 學 家 王 逸 Kinh Học Gia đời Đông 
Hán là Vương Dật, thì CỬU TRÙNG THIÊN là:  Đông Phương 
viết HẠO THIÊN 東 方 曰 皞 天、Đông Nam phương DƯƠNG 
THIÊN 東 南 方 陽 天、Nam Phương XÍCH THIÊN  南 方 赤 
天、Tây Nam phương CHU THIÊN 西 南 方 朱 天、Tây phương 
THÀNH THIÊN 西 方 成 天、Tây bắc phương U THIÊN 西 北 方 
幽 天、Bắc phương HUYỀN THIÊN 北 方 玄 天、Đông Bắc 
phương BIẾN THIÊN 東 北 方 變  天、Trung ương là QUÂN 
THIÊN 中 央 鈞 天. Theo truyền thuyết thì bà Cửu Thiên Huyền 
Nữ  九 天 玄 女 là vị  Thánh mẫu trấn ở phương bắc.
                
                       
    Ngọc Hoàng Đại Đế                        

                        


                          Cửu Thiên Huyền Nữ

     * Giải thích theo  Lã Thị Xuân Thu- Hữu Thủy Lãm 呂 氏 春 
秋• 有 始 覽  thì CỬU TRÙNG THIÊN là: Trung ương viết CÂU 
THIÊN 中 央 曰 鉤 天、Đông phương viết THƯƠNG THIÊN 東 
方 曰 蒼 天、Đông bắc phương viết BIẾN THIÊN 東 北 方 曰 變 
天、Bắc phương viết HUYỀN THIÊN 北 方 曰 玄 天、Tây bắc 
phương viết U THIÊN 西 北 方 曰 幽 天、Bắc phương viết HẠO 
THIÊN 西 方 曰 顥 天、Tây nam phương viết CHU THIÊN 西 
南 方 曰 朱 天、Nam phương viết VIÊM THIÊN 南 方 曰 炎 天、 
Đông Nam phương viết DƯƠNG THIÊN 東 南 方 曰 陽 天。

       Thi Tiên Lý Bạch 李 白 có bài thất ngôn tứ tuyệt rất hay khi 
tả Thác nước ở Lư Sơn như từ trên chín tầng trời đổ trút xuống vậy ...

     望 廬 山 瀑 布                      VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ

 日 照 香 爐 生 紫 煙,    Nhật chiếu hương lô sinh tử yên 
 遙 看 瀑 布 掛 前 川。    Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.  
 飛 流 直 下 三 千 尺,    Phi lưu trực hạ tam thiên xích 
 疑 是 銀 河 落 九 天.      Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên

                      
                           

CHÚ THÍCH :
  * NHỰT 日: là Mặt Trời, hễ có mặt trời là có nắng, nên 
NHỰT cũng có nghĩa là ÁNH NẮNG. 
  * HƯƠNG LƯ香 爐: là Hương Lư Phong 香 爐 峯, ngọn 
núi cao ở phía bắc của Lư Sơn luôn bị bao phủ bởi hơi nước 
mịt mù như sương khói, nên khi nhận tia nắng mặt trời 
chiếu rọi thì ửng lên màu tim tím như một Lò Hương đang 
nghi ngút khói. Vì thế mà có tên là Hương Lư Phong. 
  * TRỰC 直 : là Thẳng. TRỰC HẠ 直 下 là Thẳng xuống. 
  * TAM THIÊN XÍCH 三 千 尺 : là Ba ngàn thước, đây chỉ 
là cách Nói Nhấn mà thôi, ý chỉ Rất cao Rất cao! 
  * CỬU THIÊN 九 天 hay CỬU TRÙNG THIÊN 九 重 天 : 
là Quan niệm của người xưa, cho rằng Trời có chín từng, 
nên gọi là Chín từng trời hay Chín từng mây.  
   CỬU THIÊN trong bài thơ ý chỉ: Cao ngất trên bầu trời 
cao.
               
                                                  

NGHĨA BÀI THƠ :
                      NGẮM THÁC NƯỚC LƯ SƠN 
       Ánh nắng chiếu vào đám mây mù trên Đỉnh Hương Lư làm 
cho sương khói ửng lên màu tim tím như một lư hương đang 
nghi ngút khói. Đứng ở xa xa nhìn thác nước như một dòng 
sông treo ngược trước đỉnh Hương Lư và trút thẳng xuống từ 
trên ba ngàn thước cao, làm cho ta ngở như là con sông Ngân 
Hà đang đổ từ trên chín tầng mây xuống vậy!

      Với thủ pháp nghệ thuật điêu luyện, Thi Tiên Lý Bạch đã tả 
lại vẻ hùng vĩ tráng lệ của con thác Lư Sơn như từ trên chín 
từng mây đổ xuống qua sương khói của đỉnh Hương Lư sầm 
sập trút thẳng xuống như dãy Ngân Hà nghiêng đổ. Lời thơ 
mạnh mẽ với các từ như "Phi lưu trực hạ: Chảy như bay đổ 
thẳng xuống!", " Ngân Hà LẠC cửu thiên: là Ngân Hà RƠi từ 
trên chín từng trời rơi xuống !"

DIỄN NÔM : 
                   VỌNG LƯ SƠN BỘC BỐ

             Nắng chiếu Hương Lư mây tím bay, 
             Thác xa trông tựa nước sông dài. 
             Trút từ ngàn thước như bay xuống, 
             Ngở nước Ngân Hà đổ xuống đây.
              
              
                                

Song Thất Lục Bát :

 

          Đỉnh Hương Lư nắng lồng mây nước, 
         Thác xa trông treo ngược sông dài. 
         Ba ngàn thước nước như bay, 
         Ngân Hà tự chín tầng mây tuôn dòng !  
                    Đỗ Chiêu Đức (diễn Nôm)
                                                
Còn...
           18 tầng ĐỊA NGỤC là quan niệm của Phật Giáo, 
tiếng Phạn là:  Naraka, trong Thập Bát Nê Lê Kinh 十 八 
泥 犁 經 thì 18 tầng Địa ngục là theo thuyết luân hồi và qủa 
báo để trừng phạt những người dữ, người ác . 18 tầng Địa 
Ngục theo tiếng Phạn phiên âm ra gồm có: 1.Quang Tựu 
Cư, 2.Cư Hư Thối Lược, 3.Tang Cư Đô, 4.Lâu, 5.Phòng Tốt, 
6.Thảo Ô Ti Thứ, 7.Đô Lư Nan Đán, 8.Bất Lư Bán Hô, 9.Ô 
Cảnh Đô, 10.Nê Lư Đô, 11.Ô Lược, 12.Ô Mãn, 13.Ô Tịch, 
14.Ô Hô, 15.Tu Kiện Cư, 16.Mạt Đô Can Trực Hô, 17.Khu 
Thông Đồ và 18.là Trần Mạc (1.光 就 居、2.居 虚 倅 略、 
3.桑 居 都、4.楼、5.房 卒、6.草 乌 卑 次、7.都 卢 难 旦、 
8.不 卢 半 呼、9.乌 竟 都、10.泥 卢 都、11.乌 略、12.乌 满、 
13.乌 藉、14.乌 呼、15.须 健 居、16.末 都 干 直 呼、17.区 
通 途、18.陈 莫)。Dịch nghĩa từng Tầng Địa Ngục như sau:

                    
                 
   
   * 1. BẠT THIỆT ĐỊA NGỤC 拔 舌 地 獄 :Địa Ngục 
KÉO LƯỠI. 
      Sống trên đời hay nói dối, phỉ báng, gạt gẫm, dụ dỗ... 
người khác, các qủy sứ sẽ dùng kềm kéo lưỡi ra rồi đưa 
xuống tầng hai... 

   * 2. TIỄN ĐAO ĐỊA NGỤC 剪 刀 地 獄 : Địa Ngục DAO 
KÉO. 
      Trên đời hay dùng lời ngon tiếng ngọt dụ người khác bỏ 
chồng bỏ vợ, phá hoại gia cang, làm cho đàn bà thất tiết...

   * 3. THIẾT THỌ ĐỊA NGỤC 鐵 樹 地 獄 :Địa ngục CÂY  
SẮT. 
      Trên đời hay ly gián cốt nhục người khác làm cho anh em 
chồng vợ cha con bất hòa thù ghét nhau... Móc sắt móc vào 
sau lưng treo lên cây sắt có nhiều dao bén nhọn...

   * 4. NGHIỆT KÍNH ĐỊA NGỤC 孽 鏡 地 獄:Địa Ngục 
CHIẾU KIẾN. 
      Trên đời làm nên nhiều tội ác, nhưng ném đá dấu tay, lo 
lót quan quyền, làm ra vẻ người tốt... Chiếu vào kiến ở địa 
phủ sẽ hiện lên hết những tội ác đã làm, rồi tùy theo tội đưa 
vào các địa ngục khác.

   * 5. CHƯNG LUNG ĐỊA NGỤC 蒸 籠 地 獄 :Địa ngục 
CHƯNG HẤP. 
      Ngày thường hay ngồi lê đôi mách, nhiều chuyện loan 
truyền tin thất thiệt để phỉ báng hại người... Bỏ vào lồng 
chưng hấp cho chín, rồi kéo ra đưa vào địa ngục kéo lưỡi.

   * 6. ĐỒNG TRỤ ĐỊA NGỤC 銅 柱 地 獄 :Địa Ngục 
CỘT ĐỒNG. 
      Cố ý phóng hỏa đốt nhà làm cho người khác bị chết cháy 
rồi tiêu hũy chứng cứ... Qủy sứ sẽ lột hết quần áo, bắt ôm cây 
cột đồng đang cháy đỏ cho da thịt bị cháy khét...

   * 7. ĐAO SƠN ĐỊA NGỤC 刀 山 地 獄 :Địa Ngục NÚI 
DAO. 
      Không tin thần linh không sao, nhưng phỉ báng thần linh, 
sát sanh hại mạng cả người lẫn súc vật... Khi chết sẽ phải leo 
lên núi dao cho dao nhọn đâm, dao bén cắt thịt...

   * 8. BĂNG SƠN ĐỊA NGỤC 冰 山 地 獄 :Địa Ngục NÚI  
BĂNG. 
      Giết chồng thông dâm, tùy ý phá thai; Cờ bạc, bất nhân 
bất nghĩa, không có hiếu với cha mẹ ... khi chết sẽ bị lột hết 
áo quần bắt phải leo lên núi băng tuyết lạnh lẽo...

   * 9. DẦU OA ĐỊA NGỤC 油 鍋 地 獄 :Địa Ngục CHẢO 
DẦU. 
      Bán dâm trộm cướp, hiếp đáp người hiền yếu, vu cáo, 
chiếm đoạt tài sản vợ con người khác... khi chết, qủy sứ sẽ lột 
hết quần áo quăng vào chảo dầu đang sôi cho trôi nổi trong 
đó để chiụ đau chịu khổ...
 
       Chín tầng trên đây là ĐÔNG ĐỊA NGỤC ở Phong Đô. 
Trung bình mỗi tầng ĐỊA NGỤC lấy Ba ngàn bảy trăm năm 
mươi (3,750) năm trên dương thế làm một năm ở dưới địa 
ngục. Còn chín tầng TÂY ĐỊA NGỤC dưới đây lại càng tàn 
khốc hơn nữa.
                        

   * 10. NGƯU KHANH ĐỊA NGỤC 牛 坑 地 獄 :Địa Ngục 
HẦM TRÂU. 
     Đây là tầng địa ngục để cho các con súc vật kêu oan, vì 
trên dương thế con người lấy việc giết súc vật để bồi đắp 
thêm cho niềm vui của mình. Giết gà giết vịt giết trâu giết bò... 
để đãi khách, để ăn mừng tân gia, thi đậu, cưới vợ... Chết 
xuống âm phủ sẽ bị gà mổ, vịt rỉa, trâu dùng sừng đâm, bò 
dùng sừng húc...

   * 11. THẠCH ÁP ĐỊA NGỤC 石 壓 地 獄 :Địa Ngục ĐÁ 
ĐÈ. 
     Ở trên đời bất cứ vì lý do gì mà giết hại hoặc vứt bỏ trẻ sơ 
sinh cho đến chết, như trẻ bị khuyết tật, trọng nam khinh nữ... 
Khi chết sẽ bị vứt ở dưới ao khô, phía trên có treo tảng đá lớn, 
qủy sứ sẽ cầm búa chặt cho đứt sợi dây...

   * 12. THUNG CỬU ĐỊA NGỤC 舂 臼 地 獄 :Địa Ngục 
CỐI GIÃ. 
     Sống ở trên đời mà lãng phí lương thực, xem thường 
ngũ cốc, chà đạp thức ăn... Khi chết sẽ bị bỏ vào cối giã gạo 
để cho qủy sứ giã cho nát bấy thân mình để trừng trị tội 
không biết trân quí lương thực.

   * 13. HUYẾT TRÌ ĐỊA NGỤC 血 池 地 獄 :Địa Ngục AO 
MÁU. 
     Không tôn trọng người khác, không hiếu kính phụ mẫu, 
đi theo bàng môn tả đạo, làm cho người khác tức hộc máu 
mà chết... Khi chết sẽ bị quăng vào ao máu để ngụp lặn chịu 
khổ trong đó.

   * 14. UỔNG TỬ ĐỊA NGỤC 枉 死 地 獄 :Địa Ngục 
CHẾT OAN. 
     Những người chưa tới số chết mà muốn chết, như tự sát, 
uống thuốc độc, nhảy xuống sông tự trầm, treo cổ... Diêm 
Vương nổi giận sẽ nhốt vào tầng địa ngục nầy và vĩnh viễn 
sẽ không được đầu thai kiếp người.

   * 15. TRÍCH HÌNH ĐỊA NGỤC 磔 刑 地 獄 :Địa Ngục 
PHANH THÂY. 
     Những người chuyên đào mồ cuốc mả người khác để lấy 
vàng bạc nữ trang... Khi chết sẽ bị đày vào tầng địa ngục nầy 
để bị phanh thây muôn kiếp.

   * 16. HỎA SƠN ĐỊA NGỤC 火 山 地 獄 :Địa Nhục NÚI 
LỬA. 
     Những người ăn cắp của công làm của tư, tham quan ăn 
hối lộ, trộm gà bắt chó, phóng hỏa giết người... khi chết sẽ bị 
rơi vào tầng địa ngục nầy, lọt vào trong núi lửa, thiêu đốt cho 
chết đi sống lại mãi không thôi.

   * 17. THẠCH MA ĐỊA NGỤC 石 磨 地 獄 :Địa Ngục 
CỐI XAY ĐÁ. 
     Chà đạp ngũ cốc, tiểu nhân trộm đạo, tham quan ô lại, 
chèn ép người khác, thầy tu, đạo sĩ vi phạm giới luật... khi 
chết sẽ bị cho vào cối xay đá xay cho thịt nát xương tan và 
xay mãi xay mãi muôn đời.

   * 18. ĐAO CỨ ĐỊA NGỤC 刀 鋸 地 獄 :Địa ngục KÉO 
CƯA. 
     Rút ruột công trình, ăn xén ăn bớt, dối trên lừa dưới, 
buôn gian bán lận, gạt gẫm đàn bà trẻ em... Chết xuống đây 
sẽ bị lột hết áo quần, xiềng lên giá cây, dùng cưa cưa từ đầu 
cho đến chân, máu me lai láng.

     Đó là 18 tầng địa ngục trong Kinh Thập Bát Nê Lê  十 八 
泥 犁 經 của Phật Giáo. Ở quê tôi, xứ "Cái Răng, Ba Láng, 
Vàm Xán, Phong Điền..." Bà con lối xóm hay hát là:

                 Có chồng mà lại lấy trai,
        Chết xuống âm phủ cưa hai nấu dầu !

     Có một cô nổi tiếng là "Dân chơi cầu Ba Cẳng" nghe xong 
cười khì, hát sửa lại là:

                Có chồng mà lại lấy trai,
       Chết xuống âm phủ... cho hai nén vàng !
                    
                                 

Còn ...
          Theo LÃO GIÁO  (Đạo Giáo) trong dân gian Trung 
Hoa kết hợp chung Nho Thích Đạo tam giáo và các tín ngưỡng 
trong dân gian thì lại có  THẬP ĐIỆN DIÊM LA 十 殿 閻 羅. 
Còn được gọi là  THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG 十 殿 閻 王, hay 
ĐỊA PHỦ THẬP VƯƠNG 地 府 十 王... Chung quanh các ông 
vua dưới âm tào địa phủ nầy còn có một lô chức sắc xoay quanh 
để điều hành công việc như: Thành Hoàng Thổ Địa 城 隍 土 地、 
Văn Võ Phán Quan 文 武 判 官、Nhựt Dạ Du Tuần 日 夜 遊 巡、 
Ngưu Đầu Mã Diện 牛 頭 馬 面、Hắc Bạch Vô Thường 黑 白 無 
常、Dạ Xoa Qủy Tốt 夜 叉 鬼 卒... xem xét qủa báo trên đời để 
trừng phạt và để đưa vào lục đạo luân hồi. 
      Mười ông vua dưới đất nầy cũng là những người bình thường 
như chúng ta, vì hành thiện và tích đức nên được Ngọc Hoàng 
Thượng Đế sắc phong cho làm vua của cõi âm. Vua của Thập Điện 
theo thứ tự như sau:

                             
                                                     

1. 第 一 殿 : 秦 廣 王 Đệ Nhất Điện TẦN QUẢNG VƯƠNG. 
       Họ Tưởng, theo truyền thuyết dân gian, ông chính là Tưởng 
Tử Văn của đời Đông Hán, sanh ngày mồng 1 tháng 2. Tần Quảng 
Vương chuyên quản về yểu thọ của người đời. Trong tuần thất đầu 
tiên, khi hồn người chết tới đây phải chiếu vào Nghiệt Kính Đài ở 
bên phải để xem là người tốt hay xấu. Nếu là người tốt, thì được 
vãng sinh vào cõi Thiên đàng hay Thế giới Cực lạc; còn người nửa 
tốt nửa xấu thì tùy theo cái nghiệp lực mà đưa đến điện thứ 10 để 
cho đầu thai chuyển thế; còn người thiện ít ác nhiều thì tùy theo 
điều ác đã làm mà đưa đến các điện khác để chịu hình phạt.

2. 第 二 殿 : 楚 江 王 Đệ Nhị Điện SỞ GIANG VƯƠNG. 
       Họ LỆ (LỊCH), sanh ngày mồng 1 tháng 3. Điện của Sở Giang 
Vương ở dưới đáy biển sâu, rộng 8 ngàn dặm, gồm 16 địa ngục 
nhỏ chuyên quản về chiếm đoạt, gạt gẫm, làm cho cơ thể người 
khác bị thương, gian ác, cướp bóc, sát sinh... Sau khi chết, tuần 
thất thư hai được đưa đến đây.

3. 第 三 殿 : 宋 帝 王 Đệ Tam Điện TỐNG ĐẾ VƯƠNG. 
       Họ DƯ, sanh ngày mồng 8 tháng 2. Tống Đế Vương chưởng 
quản địa ngục phía đông nam dưới đáy biển, rộng 8 ngàn dặm, 
cũng gồm 16 gian địa ngục nhỏ, chuyên trông coi trừng trị những 
người khi ở dương gian ngỗ ngịch với tôn trưởng, hỗn láo với bậc 
trưởng thượng, bội tín quên nghĩa, xúi dục người khác kiện tụng 
người vô tội... Sau khi chết tuần thất thứ ba sẽ được đưa đến đây 
để thẩm vấn.

4. 第 四 殿 : 五 官 王 Đệ Tứ Điện NGŨ QUAN VƯƠNG. 
       Họ LỮ, sinh ngày 18 tháng 2. Ngũ Quan Vương chưởng quản 
địa ngục dưới biển hướng chính đông. Rộng tám ngàn dặm và 
cũng có 16 gian địa ngục nhỏ. Chuyên quản những kẻ lậu thuế 
trốn thuế, ăn gian tiền mướn, gian lận trong giao dịch... Sau khi 
chết tuần thất thứ tư sẽ được đưa vào đây để đối chất.

5. 第 五 殿 : 閻 羅 天 子 Đệ Ngũ Điện DIÊM LA THIÊN TỬ. 
       Họ BAO, theo truyền thuyết dân gian là Bao Chuẩn, Bao 
Thanh Thiên của thời Bắc Tống. sinh ngày 28 tháng 6, còn được 
gọi là Sâm La Vương, Chưởng quản Đại Địa Ngục hướng Đông 
bắc và 16 tru tâm địa ngục. Chuyên trị những kẻ không tin vào 
nhân quả, cản trở việc thiện, phỉ báng tăng nhân đạo sĩ... Khi chết 
đến tuần thất thứ năm thì được đưa đến điện nầy, được cho phép 
nhìn vào Vọng Hương Đài để thấy lại những thân nhân còn sống ở 
nhà cho đỡ nhớ mong, rồi mới luận tội.
                     
                                        

6. 第 六 殿 : 卞 城 王 Đệ Lục Điện BIỆN THÀNH VƯƠNG. 
       Họ TẤT, sinh ngày mồng 8 tháng 3 , còn xưng là Biến Tính 
Vương, cai quản điạ ngục lớn ở hướng chính bắc gồm 16 địa ngục 
nhỏ, chuyên trị những kẻ hay than trời trách đất, oán hận người 
đời, xem thường và bất kính với trời đất thần phật. Khi chết đến 
tuần thứ sáu thì đưa đến điện nầy để luận tội.

7. 第 七 殿 : 泰 山 王 Đệ Thất Điện THÁI SƠN VƯƠNG. 
       Họ ĐỔNG, sinh ngày 27 tháng 3. Chưởng quản địc ngục lớn ở 
tây bắc phương gồm 16 địa ngục nhỏ. Chuyên trị những kẻ thị phi, 
đặt điều hại người khác, làm cho thân nhân người khác phải ly 
tán, dùng xác chết để làm thuốc... Sau khi chết đến tuần thất (49 
ngày) thì được đưa đến đây để luận tội.       

8. 第 八 殿 : 都 市 王 Đệ Bát Điện ĐÔ THỊ VƯƠNG. 
       Họ HUỲNH, sinh ngày mồng 1 tháng 4. Còn xưng là Đô Đế 
Vương. Chưởng quản địc ngục lớn ở hướng chính tây và 16 địa 
ngục nhỏ. chuyện trị những kẻ ngỗ nghịch bất hiếu với cha mẹ, ông
bà, hỗn láo với cha mẹ chồng, cha mẹ vợ... Sau khi chết 100 ngày 
thì đưa đến đây để đối chất luận tội.

9. 第 九 殿 : 平 等 王 Đệ Cửu Điện BÌNH ĐẲNG VƯƠNG. 
       Họ LỤC, sinh ngày mồng 8 tháng 4, còn xưng là Bình Chính 
Vương, chưởng quản Tây Nam A Tỳ đại địa ngục và 16 tiểu địa 
ngục, chuyên trị những kẻ giết người phóng hỏa, hiếp dâm cưởng 
bức, buôn bán chất độc... Sau khi chết được một năm thì đưa đến 
đây để luận tội.

10. 第 十 殿 : 轉 輪 王 Đệ Thập Điện CHUYỂN LUÂN VƯƠNG. 
        Họ TIẾT, sinh ngày 17 tháng 4, còn gọi là NGŨ ĐẠO 
CHUYỂN LUÂN VƯƠNG. Đây là điện ở hướng chính đông, rộng 
một vạn một ngàn hai trăm dặm, hướng về ngũ trọc thế giới và tứ 
đại bộ châu, có thiết bị các cây cầu, như Kim Kiều (Cầu Vàng), 
Ngân Kiều (cầu Bạc), Ngọc Kiều (cầu Ngọc), Thạch Kiều (cầu đá), 
Mộc Kiều (cầu Cây), và Nại Hà Kiều (cầu Nại Hà), chuyên xử lý 
các hồn phách của người chết từ các nơi giải về, tra sổ sách vãng

         sanh, đoạn đưa đến Âu Vong Đài 醧 忘 臺 để uống canh của 

      Mạnh Bà 孟 婆 湯, cho quên hết đi những chuyện của kiếp 

       trước,  rồi mới qua Chuyển Luân Đài 轉 輪 臺 để đi đầu thai 

      lên Tứ Đại Bộ Châu (Thế giới Năm châu theo quan niệm xưa). 

     Xong lập danh sách theo dõi và trình lên Phong Đô tất cả các

     loại chúng sinh theo đường Thai Sinh 胎 生, Noãn Sinh 卵 生, 

    Thấp Sinh 濕 生, Hóa Sinh 化 生... 


     * THAI SINH : là được sinh ra bằng cách thụ thai trong 
bụng mẹ, như : Người, trâu, bò, heo, ngựa... 
     * NOÃN SINH : là được sinh ra từ trong trứng, như : Gà, 
vịt, chim, rùa, rắn... 
     * THẤP SINH : là được sinh ra từ trong chỗ ướt át dơ dáy, 
như : ruồi, muỗi, nhặng, giòi... 
     * HÓA SINH : là được sinh ra từ tự nhiên, như : Cây, cỏ, 
ao, hồ, sông. biển...

                     
                                            

      Đó là TỨ SINH 四 生,theo như TAM GIỚI LỤC ĐẠO 三 
界 六 道 trong đạo Phật và trong tín ngưỡng dân gian, chớ không 
phải theo như KHOA HỌC THƯỜNG THỨC hiện tại.
      
      Có phải vì THẬP ĐIỆN DIÊM VƯƠNG mà ta lại có Văn Tế 
"THẬP LOẠI CHÚNG SINH" của cụ Nguyễn Du hay không? 
Và cũng vì thế mà ta cũng hay nghe câu "CHÍN PHƯƠNG TRỜI, 
MƯỜI PHƯƠNG PHẬT" hay không? CHÍN PHƯƠNG TRỜI 
đó chính là CỬU TRÙNG THIÊN hay CỬU HUYỀN; gồm có: 
Đông, tây, nam, bắc, đông bắc, tây bắc, đông nam, tây nam, và 
trung ương. Trong tác phẩm Sãi Vãi của Nguyễn Cư Trinh, lời 
diễn kệ của ông Sãi mở đầu tác phẩm có câu:

 Ước siêu tam muội, Ngõ thoát CỬU HUYỀN. 
 Lăm đền Mộc bổn Thủy nguyên, Báo đáp Càn khôn phúc tải. 
 Còn... 
      MƯỜI PHƯƠNG PHẬT thì gồm: Đông, tây, nam, bắc, đông 
bắc, tây bắc, đông nam, tây nam, thượng phương, và hạ phương. 
cho nên nhà chùa gọi tất cả những người đến cúng chùa là 
KHÁCH THẬP PHƯƠNG là vì thế. Cho nên mỗi lần có dịp đến 
chùa ăn cơm chay, chúng tôi đều nói chơi với nhau rằng: "Nhà 
chùa đã ăn của khách thập phương là mười phương rồi, chúng 
ta lại đến ăn chực của chùa nữa, vậy là chúng ta  đã ăn của 
"phương thứ mười một" là "Thực thập nhất phương" rồi đó!"

      Trên đây mặc dù chỉ là những dị đoan mê tín trong đời sống 
dân gian của xã hội Trung Hoa và Việt Nam xưa, nhưng vẫn còn 
tác dụng đến tâm lý nhân sinh hiện nay với chiều hướng tích cực 
là KHUYẾN THIỆN, làm lành lánh dữ. 

     Sưu tầm tài liệu trên mạng, trình bày lại để đọc chơi tiêu 
khiển trong những lúc trà dư tửu hậu và cũng để những hậu 
sinh hậu bối biết được các từ "Chín Tầng Trời, Mười Tám Tầng 
Địa Ngục, Thập Điện Diêm Vương, Chín Phương Trời, Mười 
Phương Phật"...

     Hẹn bài viết tới !

                                               杜 紹 德
                                           Đỗ Chiêu Đức






 

 

Không có nhận xét nào: