Thứ Sáu, 24 tháng 9, 2021

Tin buồn Viện Hán Học Huế & Nhớ anh Nguyễn Đức Đô (Hoàng Đằng)

 

      

TIN BUỒN
Anh NGUYỄN ĐỨC ĐÔ
Cựu sinh viên Viện Hán Học Huế khóa I
Sinh năm 1940
Quê quán: Thừa Thiên - Huế
Qua đời lúc 19:00 ngày 23/9/3021
(nhằm ngày 17/8 Tân Sửu)
Tại Sài Gòn
Hưởng thọ: 82 tuổi

Đồng Môn Viện Hán Học Huế thành kính phân
ưu cùng chị Nguyễn Đức Đô và gia quyến.
Cầu nguyện hương linh Anh sớm tiêu diêu Miền Cực
Lạc.
Kính bái


                NHỚ ANH NGUYỄN ĐỨC ĐÔ

Anh Nguyễn Đức Đô (1940 – 2021) học Viện Hán Học Huế trước tôi một khóa. Anh khóa I (1959 - 1964), tôi khóa II (1960 - 1965).

Khóa của Anh ra trường không được bổ dụng ngay vì chính quyền sau Ngô Đình Diệm không nắm rõ mục đích thành lập Viện Hán Học, từ đó, không có thiện cảm.

Mãi đến đầu tháng 12/1965, sinh viên ra trường cả khóa 1 lẫn khóa 2 chúng tôi mới được bổ dụng. Một vài người vào các Viện Khảo Cổ, số còn lại đưa đi dạy ở các trường trung học rải khắp cả nước.

 

Chúng tôi: Nguyễn Đức Đô, Phan Quật, Hoàng Đằng tới nhận việc ở trường Nguyễn Hoàng, Quảng Trị ngày 01/12/1965.

Anh Đô dạy Nguyễn Hoàng cho đến năm 1974 (hình như có gián đoạn việc dạy vài năm vì phải thi hành lệnh động viên) thì Anh chuyển qua trường Cam Lộ để đi theo chương trình khẩn hoang lập ấp vào Động Đền, tỉnh Bình Tuy.

Đến đây, anh Đô được cử giữ chức vụ Hiệu Trưởng trường Cam Lộ thay thầy Lê Văn Quang lên Sở Học Chánh Bình Tuy làm Thanh Tra Trung Học.

Cũng vì cái chức Hiệu Trưởng ấy, sau khi tàn cuộc chiến, Anh phải đi học tập cải tạo một năm rưỡi cũng như tôi, cùng một trại, cùng khóa học, cùng thời gian.

Trong trại cải tạo, vợ tôi mất, tôi làm con "bà phước" đã đành, anh Đô cũng làm con "bà phước".

Chúng tôi phải tìm cách cải thiện bữa ăn để tồn tại; tôi thì hái rau rừng, có lần bị ngộ độc rệu rã, chóng mặt, chảy nước mồm nước miếng do ăn lá "bìm bìm" (loại lá của cây leo giống lá rau lang); anh Đô thì bắt cóc về nhốt trong loon ghi-gô giết thịt ăn dần.

 

Đêm về, anh Đô và tôi nằm ngủ sát nhau trên bệ bê-tông. Có một đêm, không biết vì sao loon ghi-gô nhốt cóc ra nắp đậy, mấy con cóc nhảy lung tung trong màn, giữa chiếu; không có đèn dầu, việc thu gom cóc lại rất vất vả nhưng cũng chọc cười cho các bạn cùng phòng.

 

Ngày 10/12/1976, chúng tôi được ra trại; anh Đô về quê ở Phú Lộc, Thừa Thiên, tôi về quê ở Đông Hà, Quảng Trị. Hai nơi cách nhau khoảng 80 km; vậy mà tiền cấp cho tôi đi đường gấp hơn hai tiền cấp cho Anh; tôi 25 đồng bạc giải phóng, Anh chỉ 10 đồng. Không biết ban lãnh đạo trại tính toán thế nào mà phát vậy.

Xe đưa chúng tôi từ Tánh Linh về Láng Gòn, nơi trước đó gia đình tôi ở. Tôi xuống xe, anh Đô cũng xuống; chúng tôi chia tay nhau không nói một lời vì sợ - cái sợ mơ hồ đã ăn sâu trong tâm trí. Rồi mỗi người tự đi tìm nhà thân quen nương náu qua đêm để tìm phương tiện về quê.

Từ ngày đó (10/12/1976) đến nay, chúng tôi chưa gặp lại nhau. Cựu sinh viên Hán Học họp mặt nhiều lần, tôi không thấy Anh đến dự; mỗi lần cựu môn sinh Nguyễn Hoàng họp mặt ở Quảng Trị, tôi cứ hy vọng gặp lại Anh, rồi cũng không thấy chi.

 

Hôm nay, nghe tin Anh mất, tôi bùi ngùi ôn lại vài kỷ niệm xem như đốt nén hương lòng tưởng nhớ Anh - người bạn đồng môn, đồng nghiệp, đồng trại, đồng cảnh thân thương của tôi.

Thành tâm cầu nguyện vong linh Anh sớm siêu thoát.

Thành kính phân ưu cùng tang quyến.

Ai bút

Hoàng Đằng




Không có nhận xét nào: