Thứ Hai, 31 tháng 1, 2022

Góc Đường Thi: Thơ ĐÓN GIAO THỪA (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Đường Thi:  

              Thơ ĐÓN GIAO THỪA
                        
                 
                            Nhâm Dần Thủ Tuế
 
1. Bài thơ ĐỖ VỊ TRẠCH THỦ TUẾ  杜 位 宅 守 歲 :     
       Năm Đường Thiên Bảo thứ mười (751), Đỗ Phủ đã 40 tuổi, đang ở trọ nhà của người em chú bác Đỗ Vị. Vị là Khảo Công Lang Trung, đang giữ chức Thứ Sử Hồ Châu là rể của Lý Lâm Phủ, Tể Tướng đương thời nên cuộc sống rất xa hoa. Đỗ Phủ làm bài thơ cảm khái nầy trong buổi tiệc của đêm giao thừa năm đó.

杜 位 宅 守 歲           ĐỖ VỊ TRẠCH THỦ TUẾ 

守 歲 阿 戎 家,       Thủ tuế A Nhung gia,
椒 盤 已 頌 花。       Tiêu bàn dĩ tụng hoa.
盍 簪 喧 櫪 馬,       Hạp trâm huyên lịch mã,
列 炬 散 林 鴉。       Liệt cự tán lâm nha.
四 十 明 朝 過,       Tứ thập minh triêu qúa,
飛 騰 暮 景 斜。       Phi đằng mộ cảnh tà,
誰 能 更 拘 束,       Thùy năng cánh câu thúc,
爛 醉 是 生 涯。       Lạn túy thị sinh nha.
           杜 甫                              Đỗ Phủ
      
                      

* Chú thích :
    - ĐỖ VỊ TRẠCH THỦ TUẾ 杜 位 宅 守 歲 : TRẠCH là Nhà; THỦ TUẾ là Đón Giao Thừa; nên ĐỖ VỊ TRẠCH THỦ TUẾ là Đón Giao thừa ở nhà của Đỗ Vị. ĐỖ VỊ 杜 位 là em chú bác của Đỗ Phủ và là Rể của Lý Lâm Phủ, Tể tướng đương triều.
    - A Nhung 阿 戎 : Cách gọi thân mật người anh em họ lúc bấy giờ.
    - Tiêu Bàn 椒 盤 : Cái mâm đựng hạt tiêu là một loại hương liệu lúc bấy giờ dùng để bỏ vào rượu uống trong ngày Tết, nên TIÊU BÀN có nghĩa là Tiệc rượu.
    - Tụng Hoa 頌 花 : Theo Tấn Thư 晉 書, Vợ của Lưu Trăn là Trần Thị ngày Tết làm bài Tụng Tiêu Hoa để chúc Tết cho cha mẹ chồng; nên TỤNG HOA có nghĩa là nói những lời chúc tết cho nhau.
    - Hạp Trâm 盍 簪 : Hào thứ tư trong quẻ DỰ của Kinh Dịch《易- 豫》四 爻:Vật nghi, bằng HẠP TRÂM 勿 疑 朋 盍 簪: Không nghi ngại gì nữa , là bạn bè hội họp. 
    - Lịch Mã 櫪 馬 : Máng cỏ của ngựa ăn, chỉ Chuồng ngựa.   
    - Liệt Cự 列 炬 : LIỆT là Bày ra; CỰ là đuốc; LIỆT CỰ là bày những ngọn đuốc ra trong sân cho sáng sủa. 
    - Lâm Nha 林 鴉 : Những con qụa ở trong rừng.
    - Phi Đằng 飛 騰 : là Bay vút lên không, chỉ thành đạt đắc chí.
    - Lạn Túy 爛 醉 : là Say khước, say mèm, say túy lúy.

* Nghĩa bài thơ :
                     ĐÓN GIAO THỪA Ở NHÀ ĐỖ VỊ
      Ta đón giao thừa ở nhà thằng em họ. Tiệc rượu đã bày ra với đầy đủ lời chúc Tết; Khách khứa bạn bè cũng đã tới đông đủ nên tiếng ngựa trong chuồng cũng huyên náo hẵn lên; Những ngọn đuốc được bày ra trong sân sáng rực làm kinh động những con qụa trong rừng cây bay tán loạn. Sáng ngày mai ta đã qua 40 tuổi rồi, chuyện thành đạt đắc chí như cảnh nắng chiều sắp tắt. Ai còn có thể gò bó câu nệ nữa đây, thôi thì cứ say khướt cho qua cuộc sống nầy mà thôi.

      Bốn câu đầu tả cảnh phú qúy nhộn nhịp của tiệc đêm ba mươi đón giao thừa của Đỗ Vị, bốn câu sau nêu lên sự cảm khái và buông xuôi của Đỗ Phủ; như ta đã biết, tuổi thọ trung bình của con người ở đời Đường chỉ khoảng 45 tuổi mà thôi; nên chi đã 40 tuổi mà còn chưa có thành đạt gì, nên Đỗ Phủ mới đâm ra yếm thế, mượn rượu để tiêu sầu, vì đến 50 tuổi là tuổi "Tri Thiên Mệnh" rồi; Không phải như hiện nay ở Mỹ, 50 tuổi là tuổi chín chắn nhất để phát triển sự nghiệp: Kiến thức vững chắc, tín dụng đầy đủ, kinh nghiệm dồi dào... là tuổi dễ thành đạt nhất trong sự nghiệp. Vì ở đời Đường tuổi thọ con người chỉ khoảng 45 tuổi mà thôi, cho nên cũng chính Đỗ Phủ đã hạ hai câu thơ bất hủ để đời trong bài Khúc Giang 曲 江 là:
 
  酒 債 尋 常 行 處 有,   Tửu trái tầm thường hành xứ hữu,
  人 生 七 十 古 來 稀.     Nhân sinh thất thập cổ lai hi !
Có nghĩa : 
               Nợ rượu tầm thường đâu chẳng có,
               Người đời bảy chục hiếm xưa nay !  
      Câu thơ sau đã hình thành Thành ngữ "THẤT THẬP CỔ LAI HI 七 十 古 來 稀" và gọi tuổi 70 là "Tuổi Cổ Lai Hi, Tuổi Cổ Lai hay Tuổi Cổ Hi". Chớ còn bây giờ thì tuổi 70 hiện diện ở khắp nơi, hang cùng ngõ hẽm nào mà chẳng có!

* Diễn Nôm :
                     ĐỖ VỊ TRẠCH THỦ TUẾ

                  
                      
                            
                    Đón Tết nhà em họ,
                    Tiệc rượu đã sẵn sàng.
                    Khách đến ngựa huyên náo,
                    Đuốc bày quạ oang oang.
                    Mai ngày qua bốn chục,
                    Sự nghiệp đà dỡ dang.
                    Ai nở còn câu nệ,
                    Say khước những ngày tàn !
        Lục bát :
                    Giao thừa Đỗ Vị nhà em,
                    Tiệc bày lời chúc hoa đèn sáng trưng.
                    Bạn đến ngựa hí tưng bừng,
                    Đuốc bày rực sáng bên rừng quạ bay.
                    Bốn mươi qua tuổi sáng ngày,
                    Công danh tựa thể chiều phai nắng tàn.
                    Cò ai câu nệ buộc ràng ?
                    Kiếp thừa thôi hãy say tràn cho qua !
                                        Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

2. Bài thơ  Ư TÂY KINH THỦ TUẾ 於 西 京 守 歲 :
  
        Niên hiệu Thượng Nguyên đời Đường Cao Tông (674-676) Lạc Tân Vương, một trong Sơ Đường Tứ Kiệt 初 唐 四 傑 (4 người giỏi thơ nhất của buổi Sơ Đường) từ đất Thục trở về Tây Kinh chẳng bao lâu sau thì mẹ mất. An táng mẹ bên bờ sông Sản Thủy, ông nhàn rỗi ở nhà không giao du với ai, ít nói ít cười, sống một đời sống cô độc thanh cao. Sau đây là bài thơ đón giao thừa của ông lúc năm tàn tháng lụn nhớ về quê cũ ở Chiết Giang.

於 西 京 守 歲          Ư TÂY KINH THỦ TUẾ

閒 居 寡 言 宴,      Nhàn cư qủa ngôn yến,
獨 坐 慘 風 塵。      Độc tọa thảm phong trần.
忽 見 嚴 冬 盡,      Hốt kiến nghiêm đông tận,
方 知 列 宿 春。      Phương tri liệt túc xuân.
夜 將 寒 色 去,      Dạ tương hàn sắc khứ,
年 共 曉 光 新。      Niên cộng hiểu quang tân.
耿 耿 他 鄉 夕,      Cảnh cảnh tha hương tịch,
無 由 展 舊 親。      Vô do triển cựu thân.
        駱 賓 王                     Lạc Tân Vưong
    
                          

* Chú thích :
    - Ư TÂY KINH THỦ TUẾ 於 西 京 守 歲 : Đón Giao thừa ở Tây Kinh. TÂY KINH tức là Trường An ngày xưa và là thành phố Tây An của ngày nay.
    - Qủa Ngôn Yến 寡 言 宴 : là ít nói ít cười.
    - Nghiêm Đông Tận 嚴 冬 盡 : là Mùa đông lạnh lẽo đã đến mức tận cùng, đã hết.
    - Phương Tri 方 知 : Mới biết rằng, mới vỡ lẽ ra rằng...
    - Cảnh Cảnh 耿 耿 : là Dằng Dặc, là Canh cánh.
    - Cựu Thân 舊 親 : Bà con và những người quen biết cũ.

* Nghĩa bài thơ :
                      ĐÓN GIAO THỪA Ở TÂY KINH
        Ở không nhàn rỗi nên cũng ít nói ít cười, ngồi một mình đơn độc mà buồn cho cho cái cảnh phong trần gió bụi. Bỗng có cảm giác là mùa đông lạnh lẽo đã sắp đi qua, mới biết rằng những đêm xuân đang lần lượt trở về. Đêm nay cái lạnh lẽo của mùa đông như được đem đi để cho năm mới đem ánh nắng xuân trở lại. Đêm dài dằng dặc trong cảnh tha hương, khiến cho người ta không có lý do gì là không nhớ đến những người thân đang ở quê xa!

        Lạc Tân Vương đón giao thừa ở Tây Kinh như chúng ta đang đón giao thừa ở nước Mỹ hiện nay vậy; mặc dù cuộc sống có khấm khá hơn nhưng lòng nhớ quê hương vẫn luôn canh cánh khôn nguôi. Còn đâu những cái Tết nên thơ của quê cũ thuở nào!

* Diễn Nôm :
                       Ư TÂY KINH THỦ TUẾ

                     
                  
                          
                     Nhàn cư biếng nói năng,
                     Một thân gió bụi hằn.
                     Chợt thấy đông đà hết,
                     Mới hay xuân đã sang.
                     Đêm đông thôi buốt giá,
                     Nắng xuân hồng ánh quang.
                     Tha hương lòng canh cánh,
                     Người thân nhớ vô vàn !
       Lục bát :
                     Nhàn cư buồn biếng nói năng,
                     Một mình một bóng phong trần ủ ê.
                     Bỗng trông đông hết xuân về,
                     Mới hay xuân đã cận kề đêm đông.
                     Đêm nay giá rét về không,
                     Sáng ngày nắng ấm xuân hồng khắp nơi.
                     Lòng quê canh cánh khôn nguôi,
                     Nhớ quê nhớ cả những người thân xa !
                                       Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

3. Bài thơ TRỪ DẠ LẠC THÀNH PHÙNG TRƯƠNG THIẾU PHỦ 除 夜 樂 城 逢 張 少 府 :

         
                                                                      

 MẠNH HẠO NHIÊN (689-740) Ông tên HẠO, tự là Hạo Nhiên, hiệu là Mạnh Sơn Nhân. Người đất Tương Dương (Hồ bắc). Ông là thi nhân nổi tiếng trong phái Điền Viên của đời Đường. Người đời thường gọi ông là Mạnh Tương Dương, ông chuyên về lối thơ Ngũ ngôn, thường tả cảnh sơn thủy núi non điền viên đồng ruộng nơi ông đang ẩn cư, như bài thơ đón Giao thừa tình cở gặp bạn cũ sau đây:

除 夜 樂 城 逢 張 少 府   TRỪ DẠ LẠC THÀNH PHÙNG TRƯƠNG THIẾU PHỦ

  雲 海 泛 甌 閩,       Vân hải phiếm Âu Mân,
  風 潮 泊 島 濱。       Phong triều bạc đảo tân.
  何 知 歲 除 夜,       Hà tri tuế trừ dạ,
  得 見 故 鄉 親。       Đắc kiến cố hương thân.
  余 是 乘 槎 客,       Dư thị thừa tra khách,
  君 爲 失 路 人。       Quân vi thất lộ nhân.
  平 生 復 能 幾,       Bình sinh phục năng kỷ?
  一 別 十 餘 春。       Nhất biệt thập dư xuân !
            孟 浩 然                       Mạnh Hạo Nhiên

         
                          

* Chú thích :
    - 除 夜 樂 城 逢 張 少 府 TRỪ DẠ LẠC THÀNH PHÙNG TRƯƠNG THIẾU PHỦ : Đêm giao thừa gặp được Trương Thiếu Phủ ở Lạc Thành. Trương là bạn cũ ở cùng quê với Mạnh Hạo Nhiên.
    - Âu Mân 甌 閩 : Âu Việt và Mân Nam : Chỉ chung các tỉnh ở vùng duyên hải như Phước Kiến, Quảng Đông , Quảng Tây...
    - Đảo Tân 島 濱 : Hải đảo và bờ sông bờ biển, chỉ chung vùng biển đảo.
    - Hương Thân 鄉 親 : là Hương thôn thân thích, là bà con và lối xóm trong thôn làng.
    - Thừa Tra 乘 槎 : là Người đi trên bè, chỉ tấm thân trôi nổi bất định.
    - Thất Lộ 失 路 : là Mất đường, chỉ những người Thất cơ lỡ vận, lỡ bước sa chân.
    - Phục Năng Kỷ 復 能 幾 : là Còn được mấy... Trong bài thơ có nghĩa: Còn được mấy lần gặp gỡ.

* Nghĩa bài thơ :
               ĐÊM GIAO THỪA GẶP TRƯƠNG THIẾU PHỦ Ở LẠC THÀNH
       Trôi nổi trong vùng mây nước của xứ Âu Việt Mân Nam, phiêu bồng theo thủy triều gió nước ở các bến nước bến sông. Kỳ diệu làm sao, không biết như thế nào mà trong đêm trừ tịch nầy ta lại gặp được người quen nơi quê cũ. Ta là người khách trôi nổi bềnh bồng còn anh lại là người thất cơ lỡ vận. Ta gặp nhau đây qủa là qúy hóa, trong đời người biết còn có mấy lần được gặp gỡ như hôm nay đây; lần trước chia tay đến nay cũng đã hơn mười mùa xuân qua rồi!

       Qủa là "Tha hương ngộ cố tri", nỗi mừng biết lấy chi cân, nhất là lại gặp nhau trong đêm giao thừa nơi đất khách. Mạnh Hạo Nhiên làm ta chạnh lòng nhớ đến thân phận của mình hiện tại. Gởi thân nơi xứ Mỹ nầy, có những người bạn thân ngày xưa mà cho đến nay ba bốn chục năm rồi, vẫn còn chưa có dịp gặp lại, vẫn không biết sống chết ra sao!? Cho nên, những người mà ta còn có cái duyên gặp gỡ hôm nay, qúy giá biết bao nhiêu. Ta phải biết trân trọng mà đừng thờ ơ lạnh nhạt!

* Diễn Nôm :
      TRỪ DẠ LẠC THÀNH PHÙNG TRƯƠNG THIẾU PHỦ
             
                   

                      Mây nước xứ Âu Mân,
                      Trôi nổi bến giang tân.
                      Biết sao đêm trừ tịch 
                      Gặp lại cố hương nhân.
                      Ta bềnh bồng phiêu bạc,
                      Bạn lở bước sa chân.
                      Cuộc đời còn mấy lúc,
                      Cách biệt đã mười xuân !
       Lục bát :
                      Âu Mân mây nước nổi trôi,
                      Gió đưa sóng đẩy đảo nầy bến kia.
                      Giao thừa ai biết đâu kìa,
                      Tình cờ gặp lại người xưa chung làng.
                      Ta thân phiêu bạc lang thang,
                      Bạn người lở vận lại càng long đong.
                      Cuộc đời còn biết mấy lần,
                      Chia tay chốc đã mười xuân qua rồi !
                                        Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

       Cầu chúc cho mọi người mọi nhà đều có được một mùa xuân VUI VẺ, MẠNH KHỎE và AN KHANG THỊNH VƯỢNG !

       Hẹn bài viết tới !
                                                          杜 紹 德
                                                       Đỗ Chiêu Đức






Không có nhận xét nào: