Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2022

Nguyệt Dạ Ca - Mai Sơn Phủ - (Ngân Triều biên soạn)

 

     Nguyệt Dạ Ca - Mai Sơn Phủ
                 (Ngân Triều biên soạn)


Ngan wrote: "Nhận được thơ tình nhân, Hồ Xuân Hương rất mừng, liền họa lại ngay. Không biết vì lý do gì, cuộc tình tan vỡ, Bà chỉ than thân trách phận mà thôi. Khi ấy, Bà đang tuổi 30...
* Bài số 8: Nguyệt Dạ Ca - Mai Sơn Phủ
Ta nhớ người xa tim buốt tha! Sau khi mối tình đầu với Nguyễn Du, trong đợi chờ vô vọng, khoảng năm 1799-1801, Hồ Phi Mai tự Xuân Hương, lúc đó khoảng 27-29 tuổi, đã gặp một chàng trai ở Vịnh Phố, (tức thành phố Vinh, đô thị loại 1, tỉnh Nghệ An ngày nay) ra Thăng Long trọ học là Mai Sơn Phủ. Hai người đã say đắm yêu nhau, tình yêu đã được công khai thề nguyện và có làm thơ (cắt tóc mỗi người một mớ, gọp lại, chia hai, rồi mỗi người giữ một phần, đồng thời cắt tay trích máu cho vào hai chung rượu, gọi là chén tử và chén sinh, uống thề trọn đời yêu nhau. Bài thơ chữ Hán, Thệ viết hữu cảm và đã chung sống như vợ chồng). Lần nầy, Mai Sơn Phủ về quê thu xếp xin gia đình chấp thuận cưới nàng. Trên đường đi, chàng đã gửi về cho Hồ Phi Mai bài thơ Nguyệt Dạ Ca I như sau: (Tham khảo: Mối tình của Hồ Xuân Hương và Mai Sơn Phủ qua Lưu Hương ký của TS Phạm Trọng Chánh):

Văn bản chữ Hán Ngân Triều soạn:

月 夜 歌 其 一
露 如 珠 兮 月 如 差
 倏 往 來 兮 照 予 懷 
 惋 故 人兮 天 涯 

愛 不 見 兮 心 徘 徊
苔 荒 神 女 廟 
雲 散 楚 王 臺 
明 月 光 如 許 
我 思 之 人 兮 焉 在 哉

Nhất Uyên phiên âm,
Nguyệt dạ ca 1
Lộ như châu hề nguyệt như sai, (1) Thúc vãng lai hề chiếu dư hoài.
Uyển cố nhân hề thiên nhai! (3)
 Ái bất kiến hề tâm bồi hồi!
Đài hoang Thần Nữ miếu, (5)
Vân tán Sở Vương đài.
Minh nguyệt quang như thử (7)
Ngã tư chi nhân hề yên tại tai.
 
* Dịch nghĩa: Sương móc như những hạt châu chừ ánh trăng lấp lánh (trên lá) so le
Những tia sáng long lanh đó chừ khiến ta nhớ thương,
 Người tuyệt vời chừ ở phương trời,
Yêu chẳng gặp nhau chừ lòng bồn chồn.
Miếu Thần Nữ rêu phủ,
 Đài Sở Vương mây trôi.
Ánh trăng thanh sáng như thế,
 Ta nhớ đến người ấy chừ vô cùng.
* Chú giải:
Thần Nữ miếu 神 女 廟, miếu Thần Nữ núi Vu Sơn
Sở Vương Đài 楚 王 臺, đài Sở Vương, nơi Sở Tương Vương nằm mộng thấy giao hoan cùng thần nữ núi Vu Sơn.

* Dịch thơ: (1)Bản dịch của [không rõ]
Sương giọt ngọc nguyệt ánh ngà,
Du du rọi rọi hồn ta gieo sầu.
Người xưa duyên dáng nơi đâu?
 Xa xôi cách trở lòng rầu chẳng nguôi.
Miếu Thần Nữ- ngói rêu phơi
Đền đài Vương Sở-nền trời mây tan.
Đêm nay vằng vặc trăng vàng
Hỡi người trong mộng, biết nàng phương nao?

* (2) Bản dịch của Trần Nhất Lang Gửi bởi Vanachi ngày 18/04/2007, 18:49
Trăng ngời, sương móc như châu,
Soi lòng cô quạnh thêm sầu lòng ta
Cố nhân ở tận trời xa,
Yêu nhau không gặp thiết tha ngậm ngùi.
Sở Đài mây lạnh lùng trôi
 Miếu hoang thần nữ ai người sửa sang
Tứ bề trăng giãi mênh mang,
Nhớ thương nào biết gửi nàng nơi đâu .

* (3)Bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn [1] Gửi bởiVanachi ngày 22/08/2008, 09:55

Trăng ngà sương móc châu sa,
Rập rờn qua lại lại qua ngời ngời.
Cố nhân góc bể chân trời,
Yêu nhau chả gặp ngậm ngùi lòng nhau.
Miếu hoang thần nữ rêu rầu,
Đài cao vua Sở một màu mây hoang.
 Bốn bề trăng sáng mênh mang,
 Người ta mong nhớ giờ đang nơi nào?
Nguồn: Hồ Xuân Hương thơ chữ Hán-chữ Nôm &giai thoại, Bùi Hạnh Cẩn, Thông Tin 1999

* (4) Bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn [2] Gửi bởiVanachi ngày 22/08/2008, 10:02
Móc như hạt châu chừ trăng ngọc ngời
 Qua lại chừ lòng ta soi
Nhớ cố nhân chừ chân trời
 Yêu không gặp chừ lòng bùi ngùi
Rêu mờ miếu Thần Nữ,
Mây tản bay Sở đài.
Trăng sáng ngời như thế,
Ở nơi đâu chừ người ta mong nhớ ơi!
Nguồn: Hồ Xuân Hương thơ chữ Hán-chữ Nôm &giai thoại, Bùi Hạnh Cẩn, Thông Tin, 1999

* (5) Bản dịch của Cao Tư Thanh Gửi bởi TTH ngày 10/03/2009, 06:44
Sương như châu chừ trăng như mây,
 Cứ qua lại chừ soi lòng nầy.
Hờn người xưa chừ nơi chân trời,
Nhớ không gặp chừ lòng bồi hồi.
Miếu thần nữ rêu phủ,
Đài Sở Vương mây phai.
Trăng trong sáng như thế,
Người nơi đâu chừ người ta thương ơi!

* (6) Bản dịch của Nhất Uyên
Sương như châu, kìa trăng sáng ngời,
Sáng lấp lánh kìa chiếu hồn ai,
Người yêu ơi! Giờ nơi phương trời!
Yêu chẳng gặp lòng bồi hồi!
Miếu Thần Nữ rêu phủ,
Đài Sở Vương mây trôi.
 Trăng trong sáng như thế!
 Người ta mơ tưởng giờ nơi đâu rồi.
* Ghi chú:
Câu (5-6), nhớ những giây phút ân ái củaThần Nữ Vu Sơn với Sở Tương Vương; giờ không còn nữa, như rêu phủ, mây trôi.
(Câu 7), như những ngày hẹn nhau dưới trăng nơi Hồ Tây, nơi Cổ Nguyệt Đường.

* (7) Ngân Triều cảm đề bài Nguyệt dạ ca 1:
Sương móc long lanh trăng tỏ rạng,
Chênh vênh tia ngọc đẫm u hoài.
 Mỏi mòn mong ngóng người xa thẳm,
Núi khuất trời thương hồn lạc loài!
 Rêu phủ vấn vương Thần Nữ Miếu,
Mây bay ngơ ngẩn Sở Vương Đài.
 Đêm trăng vằng vặc, lòng tê tái,
 Ta nhớ người xa tim buốt thay!
 Ngân Triều

***
Nguyệt dạ ca kỳ 2 - Hồ Xuân Hương [II]
Khi nhận được bài thơ trên của Mai Sơn Phủ, Hồ Phi Mai họa ngay:
• Bài hát đêm trăng kỳ 2 Văn bản chữ Hán,
Ngân Triều soạn:
月 夜 歌 其 二
 花 其 字 兮 葩 其 詩
霞 為 裳 兮 雲 為 衣
 亦 旣 覯 兮 我 心 則 夷
語 曷 旣 兮 栖 遲
愁 泰 湘 水 聽
悶 壓 蜀 山 低
日 月 無 根 兮
情 之 所 鍾 不 知 其 期

Nhất Uyên phiên âm Nguyệt dạ ca II

Hoa kỳ tự hề ba kỳ thi,
Hà vi thường, hề vân vi y,
Diệc ký câu hề ngã tâm tắc di.
Ngữ hạt ký hề thê trì.
 Sầu thái Tương thủy thính,
Muộn áp Thục Sơn đê, (1)
Nhật nguyệt vô căn hề,
Tình chi sở chung? Bất tri kỳ kỳ?
 Chú giải:
thường 裳 là chiếc quần;
còn Xiêm, 襜 , áo lót che trước ngực của phụ nữ ngày xưa, tức là chiếc yếm; còn có nghĩa là chiếc quần, Ở văn cảnh nầy sử dụng thường, 裳, chiếc xiêm hay chiếc quần)
diệc 亦  = cũng dịch gặp lại nhau.
Thính 聽 nghe, theo, đoán, định.
Chung 鍾 cái chuông, còn có nghĩa thời giờ Tương thủy 湘 水, nước sông Tương.
 Muộn áp Thục Sơn đê, 悶 壓蜀 山 低, nỗi buồn ép vào; nén giăng trùm lên chân núi Thục. Tương Giang bắt nguồn từ núi Duyên, huyện Hưng Yên tỉnh Quảng Tây.
Trong bài Trường Tương tư 長 相 思 của Lương Ý Nương 梁 意 娘 có một đoạn thơ:
 我 在 湘 江 頭 
君 在 湘 江 尾 
相 思 不 相 見
同 飲 湘 江 水
* Ngã tại Tương Giang đầu,
Quân tại Tương Giang vĩ.
Tương tư bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương giang thủy
* Đầu sông thiếp vẫn đợi chờ,
Cuối sông chàng nhớ bơ phờ lòng đau.
Nhớ nhau chẳng thấy mặt nhau
Nước sông cùng uống dạ sầu chẳng khuây.

* Thục Sơn 蜀 山 ,ở phía Đông Nam huyện Tuyên Hưng Tỉnh Giang Tô. Nhưng trong bài này Hồ Xuân Hương nói đến núi Thục trên đường đi qua Ba Thục của Lý Bạch: (Bài Thục đạo nan, 蜀 道 難 Lý Bạch, 李 白 có đoạn:
 蜀 道 之 難 難 於 上 青 天
 使 人 聽 此 凋 朱 顏
連 峰 去 天 不 盈 尺
枯 松 倒 掛 倚 絕 壁
* Thục đạo chi nan nan ư thướng thanh thiên
Sử nhân thính thử điêu chu nhan
Liên phong khứ thiên bất doanh xích
Khô tùng đảo quái ỷ tuyệt bích
***
 Đường đi Thục khó, khó hơn lên trời xanh
Khiến cho ai nghe tới đang mặt mày tươi tắn liền phải khổ sầu
Mấy dãy núi san sát nhau, cách trời không đầy thước
Cây tùng khô treo ngược dính vào vách đá cao ngất
*** Đường Thục khó hơn lên trời xanh
Khiến người nghe nói héo mặt son
 Núi liền cách trời chẳng đầy thước
Thông khô vắt vẻo vách cao ngất (1),
Muộn áp Thục Sơn đê, 悶 壓 蜀 山 低, buồn giăng trùm núi Thục.

Nhất Uyên dịch nghĩa Bài ca đêm trăng 2.
 Hoa là chữ, chừ nhụy là thơ,
Ráng là chiếc xiêm chừ mây là y trang
Khi gặp lại nhau, chừ lòng ta phơi phới.
Lời thư chừ sao chậm tới,
 Nghe sầu trôi miết sông Tương,
Buồn giăng trùm lên núi Thục.
Thời gian chờ đợi khô héo rễ lòng,
Khi nào gặp lại? Biết đến bao giờ?

* Diễn văn xuôi của Nhất Uyên:
  
Hoa là chữ, nhụy là thơ. Ráng hồng hoàng hôn là xiêm, mây là áo. Nơi nào cùng có hoa có nhụy, có ráng chiều, có mây là nơi ta gặp nhau; khi gặp nhau lòng ta phơi phới. Nhưng giờ đây thư chàng sao chậm tới? Lòng thiếp, lòng chàng như kẻ đầu sông Tương, cuối sông Tương, không gặp nhau nhưng cùng một lòng nhớ thương nhau, (cùng uống nước sông Tương). Nỗi buồn nào chất ngất như Lý Bạch đứng dưới chân núi Thục. Ngày tháng này tâm hồn thiếp như không còn gốc rễ; lênh đênh như ngọn cỏ bồng. Mình sẽ gặp lại nhau nơi nào, bao giờ đây?
Tham khảo: Mối tình Hồ Xuân Hương và Mai Sơn Phủ qua Lưu Hương ký, TS Phạm Trọng Chánh, Paris.

* Dịch thơ: (1) Bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn
Hoa làm chữ chừ nhụy làm thơ,
 Ráng làm xiêm chừ mây làm áo.
 Cũng đã gặp nhau chừ lòng ta vui vầy
 Lời gửi chừ sao chậm chầy
Sông Tương nghe buồn chảy
Non Thục sầu nén đầy
Trời trăng chừ không gốc
 Chung đúc mối tình, biết bao giờ đây?
 Nguồn: Hồ Xuân Hương thơ chữ Hán - chữ Nôm & giai thoại, Bùi Hạnh Cẩn, NXB Văn hoá - Thông tin, 1999

* (2) Ngân Triều cảm đề, Bài ca đêm trăng 2:
Tình ta hoa nhụy đẹp văn thi,
Mây ráng là trang phục ngoại y.
Thương nhớ gặp nhau bừng rạng rỡ,
Chờ mong tin nhạn bặt rì rì.
Sông Tương sóng gợn dào thương nhớ,
Núi Thục buồn giăng kín lối đi.
Mòn mỏi miên man chờ ủ rũ!
Mong thay chớ lỡ hẹn sai kỳ.
Ngân Triều

***
Bài số 9
Tự Thán [1] Hồ Xuân Hương 

 Con bống đi về chốc bấy nay, (1)
Chữ duyên nào đã chắc trong tay.
Nghĩ cùng thế sự lòng như đốt, (3)
Trông suốt nhân tình dạ muốn say.
Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn, (5)
Một đời riêng mấy kiếp chua cay.
Nỗi mình, nỗi bạn dường bao nả , (7)
Dám hỏi han đâu những cớ nầy.
(Theo Thư Viện Online)

Văn bản chữ Nôm, Ngân Triều soạn:
自 歎 [其 一]
𡥵 𩸮 迻 𧗱 祝 昞 𠉞 𡦂 緣 芾 㐌 𠺵 𥪝 拪 擬 窮 世 事 𢙱 如 𤋿 𥊛 拙 人 情 腋 㦖 𫑹 閍 劫 别 𪜀 縁 𢀧 援 殳𠁀 𥢆 買 劫 咮 咳 𢚶 𨉟 𢚶 伴 𠍵 包 𥭵 㦑 𠳨 𠻃 兠 仍 故 尼
* Chú giải:
Chàng mới đi chưa bao lâu, xa chàng mới thấy rằng chữ duyên, những lời thề hẹn chưa chắc sẽ thành như nắm chắc trong tay. Tình hình thế sự lòng dạ như lửa đốt: Tình hình chiến tranh đang tiếp diễn, tháng ba năm 1801 Nguyễn Ánh đánh chiếm toàn doanh Quãng Nam. Sau đó thừa thắng tiến đánh Đà Nẵng. Đến tháng 5, Nguyễn Ánh cho thủy quân tiến đánh cửa bể Tư Dung, rồi thừa thắng kéo vào Phú Xuân. Vua Quang Toản bỏ kinh thành chạy ra Bắc, trận chiến tiếp diễn tại Nghệ An, Quận Công Nguyễn Văn Thận, Trấn thủ Tây Sơn tại Hà Tĩnh thua chạy vào Thanh Hóa và bị bắt giết. Tháng 5 năm Nhâm Tuất 1802 Nguyễn Ánh lập đàn ở đồng An Ninh, Phú Xuân tế trời đất, lên ngôi đặt niên hiệu Gia Long và tiến quân ra Bắc.
Thăng Long sẽ là nơi trận đánh cuối cùng của Triều Tây Sơn trước khi suy tàn, hứa hẹn một cuộc giao tranh khốc liệt... Làng Nghi Tàm có thể là nơi đóng quân, sẽ là một phen lửa khói tơi bời. Tình hình thế sự như thế, như lửa đốt mà tiếng đồn đại, người đời lòng dạ đổi thay, Xuân Hương muốn say để quên đi... Tình duyên có được trọn vẹn chăng trong muôn kiếp. Một đời nàng chịu đựng quá nhiều tiếng chua cay của miệng đời. Nỗi mình như thế, nỗi bạn Mai Sơn Phủ ra sao? Vì sao vắng bặt tin, biết hỏi han cùng ai?
Con bống 𩸮, loại cá nhỏ nước ngọt, quen thuộc gần gũi trong dân gian, như chuyện cổ tích Tấm-Cám: Tấm có nuôi một con cá bống ở một cái giếng. Ở đây, hình tượng con bống được tác giả so sánh ngầm, ví với thân phận mình. Ở đây có thể hiểu, tất bật, đa đoan, lo lắng đến nỗi như người mất hồn hay có xác không có hồn.
Chữ duyên 緣, Sự việc coi như trời định, trong mối nhân duyên vợ chồng; tình yêu đôi lứa.
kiếp 劫, đời người, khi chết đi, hóa thành 1 đời sống khác, trong một thân xác khác, có quan hệ nhân quả với nhau, theo thuyết luân hồi của đạo Phật. Ở đây có thể hiểu như những cơ hội của con người trong đời.
 nả 𥭵, khoảng thời giờ ngắn ngủi. Bao nả 包 𥭵 thời gian ngắn ngủi biết bao.
* (1-2), Những băn khoăn về cuộc tình: Đi về trong (hò hẹn) biết bao lần, thân ta như là một con cá bống. Chuyện tình nầy, chưa có gì chắc chắn.
 (3-4-5-6), Chuyện thời thế và chạnh lòng: Nghĩ đến chuyện thế sự (bấy giờ tình hình trong nước bất ổn), lòng ta sao có thể an tâm. Chạnh tưởng người tình, nhân tình, ta như mê say trong dạ. Có phải đây là cuộc tình hạnh phúc, tâm đắc của đời ta chăng, trài qua trong muôn kiếp luân hồi? (So với cuộc đời đã qua), ta đã từng lận đận, mấy bận chua cay.
 (7-8), Tâm trạng của tác giả: Tình cảm của ta và của chàng (thắm thiết biết bao!), thời gian (bên nhau) thật là ngắn ngủi! Ta nào dám nhắc đến những chuyện nầy, với chàng.

 * Ngân Triều cảm đề, bài Tự Thán 1:
Bao lần hò hẹn, thân như bống.
 Có chắc gì chưa hỡi cuộc tình!
Thế sự sục sôi chân đạp lửa,
Trời thương dào dạt nghĩa ba sinh.
Lần nầy bến mộng tròn duyên kiếp?
Hay dấu xe xưa, những gập ghình!
Khoảnh khắc bên nhau sao thắm thiết!
Dám đâu bộc bạch chuyện riêng mình?

***
Tự thán 2 - Hồ Xuân Hương [2]
 Lẩn thẩn đi về mấy độ nay, (a)
Vì đâu đeo đẳng với nơi vầy.
Ấm trà tiêu khát còn nghe giọng, (c)
Chén rượu mừng Xuân dạ thấy say.
Điểm lữ trông chừng mây đậm nhạt (e)
Dòng thu xem cỡ nước vơi đầy.
Thương ai hẵn lại thương lòng lắc, (g)
Này nợ này duyên, những thế này.
Thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương trong Lưu Hương ký. Theo Thư Viện Online

Nhất Uyên dịch nghĩa: Bài Tự Thán [2] cho thấy tâm trạng buồn thảm của nàng: Mấy độ nay, Hồ Xuân Hương như cái xác không hồn, đi về lẩn thẩn. Vì đâu ta phải đeo đẳng ở cái làng Nghi Tàm này. Uống chén trà, nàng cứ nghe khát hoài, nàng cứ uống để còn nghe giọng mình có còn không, vì chẳng nói chuyện được với ai… Uống chén rượu mừng xuân năm Nhâm Tuất, lòng dạ muốn say… Nơi quán trà quán sách của nàng, khách xưa đến nồng ấm nay lạnh nhạt! Tình người như nước mùa thu, đã đầy rồi vơi đi… Càng thương chàng, càng thương thân phận mình. Vì đâu mà duyên nợ phải ra thế này?

Văn bản chữ Nôm, Ngân Triều soạn:
自歎 [其 二]
吝 矧 迻 𧗱 買 度 𠉞  位 兠 㧅 戥 唄 坭 丕   𤋾 茶 焇 渴 群 𦖑 哢   𥗜 𨢇 𢜠 春 腋 𧡊 𫑹   點 旅 𥊛 蒸 𩄎 淡 𤁕  𣳔 秋 䀡 𢤫 渃 潙 𣹓  愴 埃 𠳾 吏 愴 𢙱 𢳝   尼 𡢻 尼 縁 仍 世 尼
Chú giải:
Lẩn thẩn 吝 矧, dở hơi, như mất trí.
Điểm lữ, 點 旅, ở một nơi quán khách trọ nào đó. Lữ, 旅, quán khách trọ.
 đạm, 淡, lạt, nhạt, trái với chữ nùng, 醲, là đậm. nhạt, 𤁕, nói về cái vị, cái màu không còn đúng với bản gốc. Cái vị đã thiếu đậm đà, cái màu đã phai.
Dòng thu, 秋, dòng nước mắt của người con gái, Con mắt được ví như sóng mùa thu: Dòng thu như xối cơn sầu, Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên. ĐTTT, Nguyễn Du, câu 2533-2534
 lòng lắc, 𢙱 𢳝, lòng như quả lắc, đưa qua đưa lại. Lòng dạ không chung thủy.
Nợ, 𡢻, sự việc mà bản thân phải đền, phải trả, phải bận lòng không dứt khi đã dính vào, khi đã nhận của tha nhân một món gì. Chồng con là cái nợ nần, Thà rằng ở vậy, nuôi thân béo mầm. Ca dao. Nợ tình chưa trả cho ai, Hồn nầy thác xuống tuyền đài chưa tan. ĐTTT, Nguyễn Du, câu 709-710
* Diễn ý bài thơ trên:
 (a-b), Nỗi niềm trong cuộc tình: Tại sao ta cứ đi về, lao vào cuộc tình say đắm như điên! Vì sao thân ta bỗng dính dáng đến nơi nầy?
 (c-d-e-f), Cụ thể nỗi niềm khao khát, ước ao, lo lắng, buồn khổ: Hết cả ấm trà, không còn khát nữa, nhưng vẫn nhớ tiếng nói của chàng. Cạn chén rượu mừng Xuân, nghe lòng say đắm, ước ao. Ở quán khách ấy, phải chăng mây trời đã nhạt? (Hay tấm lòng chàng đã phôi pha, cách mặt xa lòng). Nhìn nước dòng sông vơi đầy (do ảnh hưởng thủy triều), mà nước mắt tuôn rơi.
(g-h), Tự trách mình đã quá tin cậy trong tình yêu: Khi thương ai, sao thương được con người có lòng dạ thay đổi, như nắng sớm mưa chiều. Phải chăng ta tin vào duyên nợ (tiền định), cho nên ta mới thế này đây!

 * Ngân Triều cảm đề Bài Tự thán 2
Lẩn thẩn đi về xơ xác thay!
Vì đâu đeo đẳng mãi nơi nầy?
Chén trà, tiêu khát còn đâu giọng,
Chén rượu xuân nồng hoang tưởng say.
Quán khách thói đời nay nhạt thếch,
Dòng sông lãnh đạm lệ vơi đầy.
 Đã thương sao chẳng bền chung thủy?
 Duyên kiếp ai xui phải thế này?
Ngân Triều
Thế là: Mối tình Hồ Xuân Hương và Mai Sơn Phủ kết thúc nơi đây! Không ai biết Mai Sơn Phủ ra sao? Có ai lục trong gia phả họ Mai làng Liên Cừ ở Vinh, để biết cuộc đời chàng Mai chấm dứt ra sao? Hoặc phản bội lời thề với Xuân Hương Hồ Phi Mai nên bị chết vì dao búa trong chiến tranh. Hoặc bị cha mẹ hay vợ cả thấy suốt ngày chỉ ngồi uống trà xanh không và nhớ nàng nên cấm cửa, bắt ra đồng cày ruộng nên không thể nào trở lại Thăng Long học tiếp? Hoặc chết vì một cơn bạo bệnh, một trận dịch? Có lẽ có một duyên cớ gì đã làm Hồ Xuân Hương đau điếng, không thể viết tiếp trang tình sử của bản thân với Mai Sơn Phủ. (Lúc này, bỗng đâu có người học trò cũ của cha đến thăm: Tổng Cóc Nguyễn Công Hoà ở Vĩnh Phú, còn có tên là Nguyễn Bình Kình, có thể rước nàng về dạy học cho con. Trong cơn túng quẩn: quán trà ế khách, lớp học Cổ Nguyệt Đường thiếu học trò, chiến tranh sắp xảy ra tại Thăng Long. Gặp anh học trò cũ của cha cũng từng vác lều chỏng đi thi, có xuớng họa với nàng vài câu đáp cũng không đến nổi nào nên Hồ Xuân Hương: Cũng liều nhắm mắt đưa chân, Mà xem con tạo xoay vần đến đâu. ĐTTT, Nguyễn Du, câu 1115-1116)
 * Năm ấy năm 1802, Hồ Xuân Hương mới 30 xuân xanh. Nguồn: Mối tình Hồ Xuân Hương và Mai Sơn Phủ, TS Phạm Trọng Chánh.

***
    1-Sông Tương sóng gợn dào thương nhớ,
Núi Thục buồn giăng kín lối đi.
    2-Đã thương sao chẳng bền chung thủy? Duyên kiếp ai xui phải thế này?"
Learn more about tagging on Facebook.




Không có nhận xét nào: