Dạ Mộ Khúc
(Để nhớ HTN - người
lẻ loi mang theo những gì muốn nói nhưng chưa nói được xuống lòng mộ lạnh.)
Giữa
tháng giêng, cuối hạ, buổi sáng, trời vẫn nắng như những ngày đầu mùa, vài ba cơn gió Bắc gay gắt nóng hậm hực
tụ nhau về rồi lửng thửng bỏ đi không chào không hỏi. Chủ Nhật, nghĩa trang
Altona vắng tanh, không bao nhiêu người thăm. Dọc theo mấy hàng mộ bia, cùng
kích thước vuông, lớn cở hai gang tay, cùng loại đá, đặt nằm thẳng, cách đều
nhau, trên cái đồng cỏ xanh trải đầy xác hoa phượng tím, sâu hút phía trong
cùng, lác đác đôi ba người đứng ngồi ở cuối đường. Ngồi đó lâu rồi, trước mộ,
nói là mộ nhưng ở đây, mộ là những khoảnh đất xanh cỏ, bằng phẳng, tro cốt chôn
bên dưới, chính giữa phía trên, người ta đặt một cái bình đựng hoa bằng sứ đen. Mộ nào cũng như mộ nào, chỉ khác nhau ở chỗ là hàng chữ khắc trên bia và loại
hoa cắm trong bình. Đạm chưa nói được trọn những gì mình muốn nói, hơn năm năm
gặp lại nơi xứ người, cùng cảnh đời lẻ loi, vui buồn có nhau, vậy mà cuối cùng,
ngày anh Huỳnh mất, Đạm đã không tiễn anh lần đi sau cùng, không như lần tiễn
nhau tại một góc quán cà phê, ở chợ Nancy, đêm chờ khuya ra biển, hẹn ngày gặp
lại, tay vuốt nhẹ mộ bia, khắc vỏn vẹn tên người và ngày sinh ngày chết, chợt
dưng Đạm nức nghẹn, thì thầm, rấm rứt khóc “vậy
mà em đã thất hẹn với anh rồi”.
Tuần
trước, trưa Thứ Sáu, khi đến phụ anh điền một số giấy tờ, để tái xin trợ cấp tiền
thuê nhà hàng tuần, nộp cho văn phòng “Nhà Cửa” của chính phủ tiểu bang, anh
cho biết bệnh tình, từ tim tới phổi, từ đầu gối tới bàn chân, vốn đều trải qua
hơn một lần giải phẩu, xem ra tệ hơn, mấy ngày nay anh trông rã rời, mệt mỏi và
không đi đứng lâu được. Cũng như thường ngày, hai anh em ngồi nhìn ra trời bên
kia sông, nói qua hỏi lại chuyện chợ búa chuyện tin tức thường ngày, anh cười
mà buồn rười rượi “không biết còn chịu được
bao lâu nữa.” Ra về, Đạm hẹn ngày mai, Thứ Bảy, đến cắt đám cỏ đã lên cao ở
sân trước, rộng chừng đủ cho hai chiếc xe hơi đậu. Lần này anh ngồi dựa vào tường
nhìn theo, không còn đủ sức đứng lên ra tới cửa như mọi khi. Đám bồ câu hoang
chờ ăn thường ngày, không đủ kiên nhẩn, bỏ bay đi từ lâu vì cũng đã nhiều ngày,
anh không rải gạo khô dư cho bọn chúng. Mây bất chợt kéo về xám xịch và chùng
xuống thấp bên kia sông, trời có chút gió mát muộn, chắc sắp mưa. Xe ra khỏi
ngã tư đường, nhìn từ kính chiếu hậu, cửa nhà anh Huỳnh không thấy mở.
Đi loanh quanh tìm mua vài thứ lặt vặt,
nhìn người qua kẻ lại ở khu thương mại gần nhà cho đở buồn, về đến nhà, nhận điện
thoại của vợ chồng người bạn quen thân từ trên Wollongong kêu xuống, nhắn một
hai lên gấp, giúp giùm ai đó một số giấy tờ để sáng Thứ Hai họ kịp ra tòa. Tìm
chuyến bay qua mạng điện tử, Đạm đi chuyến bay Jetstar sáng sớm Thứ Bảy vì vé hạ
giá chuyến trễ trong ngày không còn nữa. Tối lại, Đạm gọi điện thoại cho anh Huỳnh
biết không tới được ngày mai như đã hẹn, vì phải lên Sydney vài ngày, khi về lại
sẽ cho anh hay và không quên nhắc anh nhớ uống đủ thuốc như thường lệ. Không
như lấy lần trước, vì có một vài trục trặc, chờ xong xuôi, Đạm ở lại Wolongong
thêm mấy ngày. Trưa hôm về Melbourne, tới nhà, vội gọi điện thoại cho anh Huỳnh
ngay mấy lần mà không được, nên gọi cho cô Hương, người đã sống gá nghĩa vợ chồng
với anh một hai năm qua. Cô có nhà riêng trên miệt Coburg, nhưng anh Huỳnh thường
ở nhà mình, đi đi về về một tuần hai ba ngày, một căn vi la nhỏ đầu dãy trong
khu nhà của chính phủ cấp cho người già cả ở Seddon. Đạm gặp chị đôi ba lần, chuyện anh chị như thế
nào, anh Huỳnh chưa lần nào nói tới, biết thì biết vậy thôi, Đạm cũng chưa lần
hỏi. Đạm buột miệng, chết nghẹn “trời ơi”
khi chị cho biết anh chết rạng sáng Chủ Nhật, trên đường từ nhà chị tới bệnh viện
St Vincent. Bỏ điện thoại xuống bàn, Đạm ngồi bất động, nhìn ra bên kia sông,
theo nhau chút mây xám đong đưa hững hờ xuống thấp rồi thật thấp, không khóc
nhưng nước mắt cứ tuôn dài trên mặt.
*
Hôm cùng thiếu tá Huỳnh, quận trưởng, đi
qua bàn vài chuyện với bên quận Bình Lâm về, ngồi ăn trưa ở một quán cơm trong
chợ quận Lạc Tánh, không mấy người qua người lại, chợ vắng tanh, lâu lâu mới thấy
vài anh lính nghĩa quân, thượng có kinh có, súng khoác hờ trên vai, nhìn lên
nhìn xuống, thả bộ tán gẫu về hướng chi khu. Chim rừng đậu từng đám trên nóc gọi
nhau ồn ào cả chợ, trời nắng và nắng nóng. Cũng như thường lệ, từ ngày đổi về
quận Tánh Linh, Bình Tuy, làm việc với thiếu tá Huỳnh sau tết, đầu năm 1974,
cho tới giờ, ông ít khi nào hỏi han gì về chuyện hành chánh văn phòng, trừ khi
cần có chữ ký của ông cho công văn nào đó, ký tên mà miệng lúc nào cũng bảo Đạm
“mọi thứ ông phó cứ tự quyết định, không
cần phải chờ tôi.” Ông vui tánh và ít nói, bình dân, giúp người nên trong
quận chẳng ai phiền hà than vản. Lính tráng ông coi như con cháu anh em, lầm lỗi
gì nặng lắm ông mới rầy rà chút đỉnh rồi thôi, không nhắc tới. Trước đây không
biết sao, an ninh trong cả quận tạm gọi là khả quan. Quân du kích thỉnh thoảng
phối họp với quân chính quy Bắc Việt đánh phá nhiều lần, nhất là sau Mùa Hè Đỏ Lửa, nhưng chưa chiếm giữ được gì. Lính quận, có chết có bị thương nhưng chưa đến
nổi tản cư, hồi cư như mấy tỉnh cao nguyên. Ăn xong, trên đường chở Đạm qua văn
phòng quận, ông cười cười, nửa đùa nửa thật “tình hình này cả nước, xem ra cũng găng lắm chứ không dễ như mình tưởng
đâu, thôi ông phó về Sài Gòn nghỉ phép vài ngày đi cho đở buồn.”
Đạm nhận chuông, đứng chờ ngoài cổng rào. Thấy người lạ, cô con gái chừng khoảng mười chín hai mươi, khá đẹp, bước ra cửa
nhìn rồi quay nói gì đó với ai trong nhà. Ở một góc vườn trước, xác phượng rụng
ngập đỏ bầm một khoảng sân. Sài Gòn bây giờ là những ngày cuối hè, cũng còn
nghe tiếng ve nấn ná và rã mệt đâu đó. Trời sắp giữa trưa, không nhiều nắng, cô
gái chậm bước ra cổng gật đầu chào mời vào. Vào nhà, Đạm giới thiệu mình và
trao lại lá thư của ông gởi cho gia đình, cầm lấy thư, bà thiếu tá Huỳnh hối hả
gọi vào trong “Nhã Quyên, Nhã Tuyền ơi,
ra đây con chào anh Đạm nè, ông Phó Quận của ba ngoài Tánh Linh về đó.” Hai cô bẽn
lẽn ngồi xuống bên cạnh, bà thiếu tá nhìn hai cô con gái, cô lớn, Nhã Quyên, là
cô ra mở cổng hồi nãy, tựu trường năm nay vào năm thứ nhất dược, cô nhỏ, Nhã
Tuyền, lên đệ nhị ở Gia Long. Bà hỏi Đạm đứ thứ chuyện, cười nói luôn miệng, từ
ba mẹ dưới Mỹ Tho tới chuyện ngoài Tánh Linh, đầu câu cứ “một ông phó hai ông phó.” Đạm chỉ biết cười trừ, bỡ ngỡ lúc đầu. Trước
lạ sau quen, quen thân quen thiết hồi nào không ai biết, anh anh em em rộn ràng
trong nhà vườn trước sân. Sau đó, suốt hai ba ngày còn lại ở Sài Gòn, chiều nào
Đạm cũng đến ăn cơm chiều với ba mẹ con bà thiếu tá Huỳnh như đã hứa. Buổi
sáng, hôm trở lên Tánh Linh, hai chị em đưa Đạm ra tận bến xe, nhắc lần sau có
về, nhớ đến nhà, ở lâu hơn lần này. Xe rời bến, khuất cuối đường, nhìn lại sau,
chợt dưng Đạm thấy lòng mình như có chút gì nhung nhung nhớ nhớ.
Tình hình chiến trận xem ra có vẻ sôi động
hơn trước. Bắc quân xe người, ùn ùn, rầm rập vượt đường mòn “HCM”, tràn qua Tam Biên, bủa vây kìm hảm cao nguyên. Các tỉnh dọc biển còn có chút dễ thở hơn
nhưng không biết được bao lâu. Buổi chiều, tại văn phòng quận, sau buổi họp
nghe mấy anh trong ủy ban Phượng Hoàng quận báo cáo tình hình “ta địch” xong, Đạm qua chi khu ăn cơm tối
với thiếu tá Huỳnh. Bấy giờ là những ngày vào Đông, trời lành lạnh mang theo hơi
gió biển, đêm xuống mau hơn mọi khi. Ngồi bên nhau, một lần nữa, thiếu tá Huỳnh
cười cười, nhắc lại câu hỏi mà ông đã hỏi hôm Đạm từ Sài Gòn trở ra “ông phó thấy con Nhã Quyên thế nào, cũng được
hả.” Không đợi Đạm trả lời, ông gục gặt đầu tiếp “hy vọng mình còn làm việc chung ở đây lâu hơn, nếu không có gì trở ngại,
có ngày nào đó mình cùng về Sài Gòn một chuyến, chắc là vui lắm.” Hiểu ý
ông, thêm một lần Đạm chợt nhớ Sài Gòn, Đạm không nói gì thêm ngoài tiếng “dạ” rất nhẹ. Có tiếng súng nổ liên hồi
phía cuối hàng rào phòng thủ chi khu, tiếng chân người dồn dập chạy tới chạy
lui ngoài cổng. Anh lính cận vệ quen, tay cầm súng, mặt đăm đăm đẩy cửa vào cho
biết chi khu bị tấn công rồi đứng yên chờ lệnh. Thiếu tá Huỳnh đứng dậy, anh
lính đưa khẩu súng M16 cho Đạm. Ba người bước nhanh ra ngoài, rồi mất dạng giữa
tốp lính địa phương quân, nghĩa quân chừng mười mấy người súng ống chờ tự nãy
giờ. Có tiếng đạn pháo kích của quân Bắc việt rớt đâu đó phía bên phố chợ, súng nổ nhiều và nghe gần hơn, lửa cháy lập
lòe trong màn đêm tối đen và đen thăm thẳm.
Cuối Tháng Ba, những ngày giữa Tháng Tư năm
1975, vùng Một, rồi vùng Hai, các tỉnh Cao Nguyên, tới Phú Yên, Qui Nhơn Khánh Hòa, xuống Ninh Thuận lần lượt bỏ trống vào
tay quân Bắc việt. Bình Tuy cũng không khá hơn. Đường quốc lộ Một về Sài Gòn bị
cắt đứt. Người hàng hàng lớp lớp chạy giặc tràn xuống ngả Hàm Tân ra biển xuôi
Nam. Theo dòng người, bằng đường bộ thiếu tá Huỳnh, Đạm cùng một số sĩ quan trẻ
của chi khu, bỏ Tánh Linh đi, xuống tới Hàm Tân giữa khuya đêm trước ngày có lệnh
buông súng đầu hàng từ Sài Gòn. Bờ biển Hàm Tân người đông như kiến, ghe tàu
đánh cá đèn tối mù mờ cả một vùng, chiếc nào chiếc nấy đầy ắp, lính tráng dân
thường, trẻ già lớn bé, chòng chành sóng vỗ chen nhau bỏ bờ ra khơi. Người còn
lại trên đường gọi nhau nhắn nhau ơi ới, át cả tiếng súng tiếng đạn đại bác từng
chập dọa nạt đuổi theo, cứ vậy lẳng lặng nhấp nhô trên sóng biển âm u. Quá giữa
khuya, trời bỗng dưng nổi gió. Gió gào gió thét, mây đen một màu ma quái, mưa bất
chợt trút xuống như thác, bão nổi lên gầm gừ, che kín người và nước. Người nhìn
người, hớt hãi lo sợ, đoàn tàu nối nhau cố bám sát dọc theo bờ. Vì chở quá
đông, nhiều chiếc đã lật ngang, lật úp, mất hút giữa những con sóng cao hơn
nhà. Chiếc có thiếu tá Huỳnh và Đạm, không may đã cùng chung số phận trong đám
tàu đó. Tàu họ chìm, người chìm theo. Người còn lại từ các chiếc tàu khác muốn
cứu cũng không làm sao mà cứu đành thở dài. Biển cứ lồng lộng đen ngòm. Đoàn ghe tàu cứ đi, trời vẫn mưa, bão vẫn vậy cho tới rạng sáng. Đạm nằm bất tỉnh
trên tấm ván nắp đậy hầm chứa cá nhấp nhô ẩn hiện, được một chiếc ghe nhỏ, hư hết
một máy, chở ít người, lẻ loi phía sau cứu, có phần muộn nhưng cuối cùng cũng tấp
vào được bờ Long Hải, Phước Tuy, rạng sáng ngày 30 tháng 4, đành thôi. Ngồi thừ
người trên bải cát, nhìn ra biển nước mênh mông, nước mắt mặn pha chút nước biển
trên môi, tim đau nhói, Đạm rươm rướm khóc “thiếu
tá ơi thiếu tá”.
*
Đem
mớ bánh ba-tê-sô giao cho tiệm cà phê quen ngay góc đường như mỗi sáng
xong, đẩy cái xe đạp cũ của người dì họ cho mượn làm chân mà chạy đi chạy lại
kiếm sống chờ thời, xuống lề đường. Sau ngày ra tù, về ở Mỹ Tho bị làng xã hạch
hỏi dòm ngó quá, nên Đạm bỏ lên Sài Gòn tìm chốn dung thân, mặc dù phải rày đây mai
đó, lang thang bến xe bến tàu. May mắn gặp lại chị Trang, có sạp bán vải trên đường
Lê Lợi trước đây, vốn quen nhau vì là khách hàng thường xuyên trong những ngày Đạm còn đi học. Giờ chị mở tiệm làm bánh ngọt Tây tại nhà, ở cuối hẽm ngã tư Cao Thắng
- Phan Thanh Giản, nhận Đạm làm người đi giao bánh cho mấy tiệm cà phê còn mở cửa,
nên tạm yên thân, có chút đồng ra đồng vô, bữa cơm bữa bánh mì, cũng cảm thấy hạnh
phúc lắm rồi. Đội cái nón kết xám bạc màu lên, định đạp đi thì chiếc xích lô trờ
tới bỏ khách xuống chặn ngang, Đạm cầm ghi đông chờ, người đạp xe xích lô giở
nón khỏi mặt nhìn lên nhỏ nhẹ “cám ơn”,
Đạm buông xe đạp ngã xuống đường, cùng lúc cả hai, há hốc buột miệng “thiếu tá, ông phó.” Đạm nắm tay thiếu
tá Huỳnh, hai người ngồi đại xuống bờ lề xi măng, nghèn nghẹn.
Đêm tàu chìm, thiếu tá Huỳnh được một chiếc
tàu khác, chở không đông người lắm, lính nhiều hơn dân, cứu lên, nhưng không
may, chiếc này máy bị hư sau đó, thả lềnh bềnh ngược chiều gió bão cuốn trôi tấp
vào bờ Phước Tỉnh chiều 30 tháng 4. Ngồi thở dốc trên đám cát phủ màu rong úa,
nhìn ra xa chập chùng biển dữ, thiếu tá Huỳnh thì thầm “ông phó ơi ông phó.” Nhờ nhà này miếng cơm nhà kia miếng cháo, mấy
ngày sau, thiếu tá Huỳnh quá giang đám xe hàng từ Miền Trung vào về đến Sài
Gòn, căn nhà vẫn còn, cả nhà ôm nhau, đóng cửa kín lại khóc ròng, khóc mà sợ
người bên hàng xóm nghe. Trước ngày có lệnh gọi công chức quân nhân VNCH trình
diện, tập trung đi tù, tình hình phường khóm vẫn còn nhập nhằng mới cũ, nên
chưa đến nổi cùng đường, bà thiếu tá thay chồng, chạy về Long An, gặp người bạn
cũ, cùng dạy ở trường tiểu học Mộc Hóa trước khi bà nghỉ dạy, có chồng cũng là
sĩ quan làm việc dưới tiểu khu Sa Đéc, hỏi thăm liệu còn đường nào ra đi không. Lên xuống vài lần, cả gia đình thiếu tá Huỳnh quyết định theo vợ chồng người bạn
cô giáo đi chuyến tàu của người em bà con của bà này ở Trà Vinh.
Ngày đi, chạng vạng chiều, từng nhóm nhỏ được
mấy người tổ chức đón từ một số nhà tạm trốn quanh chợ Trà Vinh, đưa xuống tàu
trót lọt trong đó có nhóm bà thiếu tá Huỳnh, hai cô con gái và bà bạn cô giáo. Xui xẻo đi sau cùng là chiếc xe lam chở nhóm thiếu tá Huỳnh, người chồng cô giáo
bạn và ba người thanh niên khác, bị đám công an đi đâu đó về ngang chận xét hỏi,
rồi đem về nhà tù tỉnh nhốt vì tội vượt biên. Dưới bãi biển, đêm xuống tối mịt,
chờ cũng đã lâu, sợ bị bể, nên tàu lớn đành phải ra khơi, có người khóc có người
than, có người lâm râm cầu nguyện, trời vẫn đen một màu đen rùng rợn. Hơn một
ngày đêm ròng rã trên biển nước mênh mông, sườn phía hông tàu sau bị nứt, dây
kéo máy bơm cũng bị đứt, máy nóng quá không chạy được nữa, tàu quay vòng loanh
quanh, nhấp nhô hụp lặn. Nước bắt đầu tràn vô ngập các hầm khoan dưới, người lôi kéo
nhau lên sàn, la hét, tàu bể ra. Gần một trăm người ai nấy gào khóc, bám víu cái gì
cứ bám để mà sống nhưng không ai biết sẽ kéo dài bao lâu giữa biển cả mênh
mông, sóng phủ sóng chập chùng. Từng người một xa nhau dần và trời lặng thinh. Đâu đó chút mây tan, rớt xuống vài ba vạt ánh trăng thiểu não. Cũng may, một số chừng mười mấy người còn bập bềnh trên nước được chiếc tàu chở hàng lớn Nhật,
trên đường từ Tân Gia Ba về ngang, cứu lên đưa về tạm trú ở Okinawa.
Sau gần ba tháng tù, nhờ có mớ giấy tờ giả,
hai người, chồng cô giáo và thiếu tá Huỳnh được thả, về Sài Gòn thì căn nhà của
ông đã bị tịch thu làm trụ sở Ủy Ban Nhân Dân Phường, vợ con chưa biết đi đứng
ra sao. Ông không thể về quê cũ vì ở đó ai cũng biết ông. Đầu đường xó chợ vài
ngày, ông đành tìm tới nhà trung sĩ Thưởng ở bên Rạch Cát, người tài xế theo
ông từ ngày còn ở tiểu đoàn. Trung sĩ Thưởng cũng cùng đi với ông bỏ Tánh Linh,
nhưng lạc mất nhau không biết khi nào. Vợ chồng trung sĩ Thưởng mừng rơi nước mắt,
một “ông thầy hai ông thầy”, vợ chồng
nhờ “ăn chia ăn chịu” gì đó với đám
phường khóm trong việc buôn bán chợ trời, trung sĩ Thưởng chạy chọt cho thiếu
tá Huỳnh tạm có tên trong sổ hộ khẩu. Cơm nước tuy không nhiều nhưng họ lo mọi
thứ. Không lâu, ông quyết định đi đạp xich lô, dù cho vợ chồng trung sĩ Thưởng
cản ngăn ngày này qua ngày nọ.
Thiếu
tá Huỳnh, ngưng ở đó, lấy khăn lau chút mồ hôi của nắng Sài Gòn vừa lên,
nhìn mông lung, dường như muốn nói thêm nhưng lại thôi, ông nhìn Đạm chờ. Cũng
như ông, anh kể lại chuyện đêm chìm tàu và những ngày “ăn bờ ngủ bụi” sau ngày ở tù về. Bỗng dưng nhớ lại, Đạm chợt buột
miệng hỏi “còn bà và hai cô”, thiếu
tá Huỳnh bóp chặt hai bàn tay, nghiến môi “còn
đâu nữa mà hỏi, chết giữa biển rồi.” Hai người bật khóc, đám bộ đội mặt mày
trắng bạch thiếu nắng, ngồi trên chiếc xe jeep cũ của cảnh sát VNCH chạy ngang
qua, quay đầu lại nhìn, nói với nhau gì đó.
Những ngày sau đó, cứ hai ba hôm, chiều chiều,
Đạm đạp xe đạp qua thăm thiếu tá Huỳnh bên Rạch Cát, gặp lại Đạm trung sĩ Thưởng
mừng mà muốn khóc, nhắc hoài chuyện cũ. Qua anh, Đạm mới biết là bà thiếu tá và
Nhã Quyên, Nhã Tuyền đã chết ngoài biển đêm vượt biên, tin do người bạn cô
giáo, viết thư cho chồng là người sĩ quan bị bắt và nhốt cùng khám ở Trà Vinh
biết. Bà là một trong mười mấy người được tàu hàng vớt đưa về Nhật. Đêm cuối
tháng ba, gần sáu bảy tháng sau, Đạm đưa thiếu tá Huỳnh cùng gia đình anh trung
sĩ Thưởng vượt biên. Ngồi bên ông lần sau cùng, giọt cà phê cuối cùng không ai
cạn, bỏ lửng, tiễn nhau hy vọng có ngày gặp lại đâu đó nếu trời còn thương.
*
Đạm
không ngăn được nước mắt khi gặp lại thiếu tá Huỳnh
ở chùa Quang Minh, hôm theo anh bạn tới đó ăn cơm chay cho biết, sau lễ cầu siêu. Không hỏi Đạm cũng đã biết lý do, không ai ngờ được, mừng không biết là bao
nhiêu, chuyện trước chuyện sau rưng rưng, cũng như lần hai người ngồi bên lề đường
Phan Thanh Giản năm xưa, hỏi nhau nói nhau không hết, ông hiện sống một mình và
ở cũng gần đây. Đạm đưa ông về, nhà ông ở là một căn vi la nhỏ trong dãy nhà
chính phủ cất dành cho người già, ông ở thui thủi một mình, sống nhờ vào tiền
trợ cấp. Trong nhà trống trơn, chỉ có cái giường ngủ, cái tủ gỗ cũ nứt nẻ vài
chỗ, cái bàn viết nhỏ kê bên cửa sổ ngó ra đường, ba bốn cái ghế ngồi, không
cái nào giống cái nào, cũng rách bương không thua bộ sa lông bằng vải đen bạc
màu, dán băng keo đầu này đầu kia, chằng chịt, ngồi lõm xuống tận đáy và cái tủ
lạnh nhỏ, đứng khiêm nhượng trong nhà bếp, trên đầu tủ, là bàn thờ nhỏ, tấm
hình bà và hai cô con gái đen trắng để sau lưng cái ly làm lư hương, bên cạnh là
bình bông đen, ít khi thấy hoa tươi. Vậy đó, ông lặng lẽ ra vào, theo tháng
ngày quanh quẩn, nhưng chưa thấy ông buồn và than phiền gì cả. Thiếu tá Huỳnh,
xuất thân từ sĩ quan thời Pháp, tiếng Pháp khỏi nói nhưng không nói được tiếng
Anh nhiều, nhưng vẫn hỏi thăm hỏi lom được ông già Bill nhà bên cạnh bằng “ngôn ngữ tay chân” sáng nắng trong chiều
mưa xám. Bạn bè, cựu sĩ quan có, bác sĩ dược sĩ có, công chức cũ có cũng đến
thăm đôi ba lần, nhưng ai nấy còn lo phần mình, không thường trở lại, năm khi
mười họa mới tạt ngang.
Tháng ngày sau đó, cũng đơn độc như ông, hể
tới cuối tuần, Thứ Bảy Chủ Nhật là Đạm tới nhà ông. So tuổi tác thì thiếu tá
Huỳnh lớn như cha nhưng quen rồi, Đạm cứ gọi là anh, khi thì mang theo mớ đồ ăn
mua ở chợ mình, khi thì đem bánh ngọt của ai đó ở chỗ làm cho đến. Hai người
chia nhau ăn chút cho vui, thỉnh thoảng cũng ra chợ ăn phở này phở kia, với chút
tiền còn dư lại trong tuần. Cứ như vậy anh em an ủi nhau, chia sẻ buồn vui ngọt
bùi của đời người nơi xứ lạ. Ngày thường, khi cần đi ngân hàng, bệnh viện hay
văn phòng chính phủ về chuyện gì đó, ông gọi một tiếng, Đạm tạm bỏ sở làm, vài
tiếng đồng hồ đến đưa ông đi làm ngay. Ông hút thuốc nhiều, Đạm không dám cản,
còn gì khác hơn đâu. Một hôm ông bị nghẽn tim, ngã quỵ trong nhà, xe cứu thương
hụ còi chở ông vào bệnh viện. Suốt mười ngày trong đó, chiều nào Đạm cũng vô
thăm ở tới khuya. Bệnh khỏi về lại nhà, ông bỏ thuốc. Chưa xong lại phải trở
vào vì cứ khó thở hoài, giờ sang qua tới phổi. Cuối cùng, tim phổi được giải phẩu
hai ba lần, thuốc uống cả chục thứ đủ loại mỗi ngày. Trời còn thương, những lần
tái khám sau đó, bác sĩ cho biết bệnh không còn đáng ngại nữa, ông xem ra khỏe
và tươi tắn hơn trước. Chừng nửa năm sau, không biết ở đâu và làm thế nào, ông
quen với cô Hương góa chồng, gá nghĩa vợ chồng với ông. Cô có hai ba người
con, đã lớn, đã lập gia đình ở riêng. Cô còn đi làm ở một công ty may mặc đồ mẫu,
không giàu nhưng tạm dư giả, Đạm mừng cho ông, ít ra cũng còn chút gì vui mà sống. Ông không ở với cô mà vẫn ở nhà mình, đi về hai ba ngày trong tuần. Chuyện ông
với cô Hương, Đạm chưa bao giờ nhắc tới, coi như biết rồi, chỉ có một lần, trưa Chủ Nhật, trời mưa lớn, bấy giờ là những ngày lập đông, gió lạnh thật lạnh,
loay hoay nấu mì ăn, Đạm vô ý hỏi sao ông không về ở trên đó với cô Hương cho
khỏe, ông cười lắc đầu “dù sao trên đó
cũng là nhà của người ta, nhà mình dù nghèo nhưng là của mình”.
*
Trời
chớm thu, khắp nghĩa trang Altona, đường ngoài đường trong cây trở mình rụng
lá. Sáng Chủ Nhật vắng người, đâu đó đôi ba con bướm lẻ bạn, ngập ngừng vờn
quanh mấy chiếc lá rụng sớm, lả tả bay theo chiều gió hắt hiu, man mác lạnh. Ngồi
chờ người phụ trách việc chăm sóc mộ phần như đã có hẹn từ tuần trước, sau khi
có sự đồng ý của ông giám đốc, Đạm đặt tấm hình chụp gia đình thiếu tá Huỳnh, tấm
hình tìm ra được từ trong xấp hồ sơ bệnh tình của ông mà anh còn giữ, trên tấm mộ
bia, giữa khoảnh cỏ, chết lặng. Phần giữa mộ được đào lên, trống một khoảng, cầm
cái hủ đựng tro cốt thiếu tá Huỳnh lên đưa cho Đạm, người làm của nghĩa trang đứng
thụt lùi lại phía sau chờ, Đạm xếp tấm hình bỏ vào, mân mê một hồi lâu rồi đặt
xuống. Người làm của nghĩa trang từ nãy giờ lẳng lặng chờ, giờ cũng lẳng lặng lấp
đất lại, không nói tiếng nào, mặt buồn xo. Một chút nắng rực lên phía trên đồi,
trời hâm hấp giữa trưa, người thăm mộ bắt đầu đông dần, có tiếng ai đó đọc kinh
lâm râm và tiếng ai đó khóc nho nhỏ ở mấy hàng mộ gần bên. Cắm bó hoa chi chít
nhỏ vàng, không biết tên, mua từ sạp bán hoa ngoài cổng vào bình, nước mắt chảy
dài xuống mặt, Đạm nghèn nghẹn khóc theo “thôi
em về, hẹn anh lần tới, em nói cho anh nghe nhiều hơn chuyện em chưa kịp nói về
cái tên Nhã Quyên”.
Thuyên Huy
Đầu
mùa thu 2017
Mượn chút phần đời
của một người có thật, tình tiết, bối cảnh và những gì còn lại của chuyện được
viết bằng tưởng tượng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét