Cái Tẩu Thuốc Phiện 1849
Đang lọ mọ trong kho chữ may vớ được bác,
bác lại là con điệp tử thư trung của cụ Tiên Điền. Bác đúng là sinh vật để tôi
ăn mày chữ nghĩa, bởi tôi sắm nắm mỗi người gắn liền với một vật mới thành
chuyện. Vì vậy tôi đi tìm nó, bác bò ra khỏi trang giấy búi bấn…“nó” là giống giuộc
gì vậy? Chả dấu gì bác, ấy là…Cái tẩu
thuốc phiện.
Bác dạy tôi dầy chữ quá lắm, cứ gọi bác
là con mọt chết dí trong trang sách là được rồi. Tiếp, bác như thị ngã văn dưới
đây có viết cái dọc tẩu được chăng?
“…Cậu ấm Hải
con cụ Án vẫn hay đi bắn cò. Thấy chồng lau súng, Duyên vợ Hải chợt nghĩ ra một
điều gì, bảo chồng: “Bắn, sao độ
này không nghe thấy tiếng súng?”.
Hải trả lời ngay vì câu trả lời đã nằm sẵn ở trong óc chàng từ lâu:
- Người ta đi bắn vịt giời, ở mãi tận cánh đồng Nậu.
- Người ta đi bắn vịt giời, ở mãi tận cánh đồng Nậu.
Lúc trở về, Hải
đi qua Xóm Cầu Mới, qua phố Phủ rồi đến nửa đường sang làng Nậu, tới chỗ cái
quán làng Cầu có cây đa con gà, chàng ngồi xuống lấy thuốc lá hút. Hút xong Hải
lần theo hàng dậu ruối đến cổng một nhà tranh, chàng quay lại không có ai trông
thấy, cất tiếng gọi: “Bác Hiên ơi”. Có tiếng kẹt cửa rồi bác Hiên gái bước
ra, nói:
- Bẩm cậu đến.
- Bác giai đi vắng?
- Vâng, thầy cháu có việc phải sang Yên Ninh có lẽ tối xẩm mới về.
Nàng vén áo ngồi lên giường và bắt đầu hơ nướng thuốc. Nàng mỉm cười nhìn Hải. Nằm đợi bác tiêm, Hải tha hồ ngắm, chàng thấy có vẻ thơ ngây; đôi môi bác có duyên ở chỗ hai bên mép lại cong xuống một tí, và vì thế miệng lại có vẻ tinh nghịch. Bác Hiên đưa mắt nhìn Hải và thấy hai con mắt Hải nhìn mình có vẻ khác. Hải nói:
- Cổng trống, bác cài then rồi chứ?
- Bẩm cậu cài rồi, cả cửa nhà nữa ạ…”.
- Bẩm cậu đến.
- Bác giai đi vắng?
- Vâng, thầy cháu có việc phải sang Yên Ninh có lẽ tối xẩm mới về.
Nàng vén áo ngồi lên giường và bắt đầu hơ nướng thuốc. Nàng mỉm cười nhìn Hải. Nằm đợi bác tiêm, Hải tha hồ ngắm, chàng thấy có vẻ thơ ngây; đôi môi bác có duyên ở chỗ hai bên mép lại cong xuống một tí, và vì thế miệng lại có vẻ tinh nghịch. Bác Hiên đưa mắt nhìn Hải và thấy hai con mắt Hải nhìn mình có vẻ khác. Hải nói:
- Cổng trống, bác cài then rồi chứ?
- Bẩm cậu cài rồi, cả cửa nhà nữa ạ…”.
Tôi ngẫn ngẫn chuyện bắn cò, bắn vịt
giời của nhà văn Nhất Linh chả dây mơ rễ má đến cái tẩu gì sất. Bác cười nhín
ra điều hãy đọc tiếp đi…
“…Vừa tiêm
xong điếu thuốc, nàng đưa cho Hải. Hải ngồi dậy:
- Bác hút một điếu cho ấm áp.
Hải đặt dọc tẩu vào bàn tay nàng, Hiên đẩy ra, và trong lúc giằng co tay Hải nhiều lần chạm vào tay nàng. Sau cùng Hải nắm hẳn lấy bàn tay Hiên, kéo nàng nằm xuống và bắt hút. Hải cũng giơ tay đỡ dọc tẩu và như vô tình bàn tay chàng đặt lên bàn tay Hiên... Bác Hiên hút xong đặt dọc tẩu xuống, hai mắt nhắm lại.
- Cậu làm cháu say quá!
Tiếng nàng nói Hải nghe ấm áp và đầy lẳng lơ. Hải cũng nhắm mắt lại: chàng nghĩ nếu được hôn một người đàn bà đương say thuốc chắc là một cái thú mê hồn. Nàng cũng thấy nóng ran cả người vì thèm muốn chứ không phải vì say thuốc. Nhưng hôm nay nằm cùng một giường với một người đàn ông, căn nhà lại vắng, các cửa đóng hết, nàng đã thấy trong lòng hồi hộp vì thèm muốn…” (xem tr 3)
- Bác hút một điếu cho ấm áp.
Hải đặt dọc tẩu vào bàn tay nàng, Hiên đẩy ra, và trong lúc giằng co tay Hải nhiều lần chạm vào tay nàng. Sau cùng Hải nắm hẳn lấy bàn tay Hiên, kéo nàng nằm xuống và bắt hút. Hải cũng giơ tay đỡ dọc tẩu và như vô tình bàn tay chàng đặt lên bàn tay Hiên... Bác Hiên hút xong đặt dọc tẩu xuống, hai mắt nhắm lại.
- Cậu làm cháu say quá!
Tiếng nàng nói Hải nghe ấm áp và đầy lẳng lơ. Hải cũng nhắm mắt lại: chàng nghĩ nếu được hôn một người đàn bà đương say thuốc chắc là một cái thú mê hồn. Nàng cũng thấy nóng ran cả người vì thèm muốn chứ không phải vì say thuốc. Nhưng hôm nay nằm cùng một giường với một người đàn ông, căn nhà lại vắng, các cửa đóng hết, nàng đã thấy trong lòng hồi hộp vì thèm muốn…” (xem tr 3)
Bỗng bác mọt chữ hỏi chả đâu vào đâu: “Bác
ăn chữ mòn răng, bác có hay cái điếu cày cùng họ hàng hang hốc với cái tẩu
thuốc phiện chăng?” Như đợi dịp này lâu lắm rồi, bác ta khoe chữ cái điếu cày được
thợ cày cưa, cắt từ khúc tre bánh tẻ. Xong, bác đục đẽo cái điêu cày chả danh
gia vọng tộc gì cho mấy. Thế nhưng trong văn học từ cổ chí kim không thứ gì
tiêu pha nhiều chữ nghĩa về cái điếu cày như thế.
Với tôi, cái dọc tẩu là kẻ hậu sinh. Tôi
đắp chữ vá câu cái tẩu thuốc giống cái điếu cày, nhưng nó được đắp thiếc, đồng,
bạc cho oách và cái nõ là cái nồi ống bằng kim loại. Khi hút, mấy ông bắn khỉ
nằm bên bàn đèn, đưa cái nồi ống hơ trên chiếc đèn dầu lạc. Khi thuốc phiện sèo
sèo, mấy ông bắn khỉ bèn bắn một phát, bắt đầu hít vào để “phê”. Vì vậy mới có
cụm từ…“hít tô phê”, “bắn khỉ”, bắn “ba-zô-ca” là vậy.
Số là tậm tịt thế nào chả biết nữa, hiếm mấy
ông bắn khỉ nhà văn, nhà thơ chịu viết về khẩu “ba-zô-ca” cho tôi nhờ. Như
truyện ngắn tựa đề Cái dọc tẩu của
nhà văn Bùi Hiển. Truyện dài 4 trang: Ngoài cái tựa đề! Tôi lõ mắt tìm chỉ thấy
duy nhất: 1 câu với 25 chữ chỉ có 2 chữ về cái tẩu: “Anh gạt tay
lão ra, lão càng xán vào vừa ấn dọc tẩu lên miệng anh vừa nói gì rất to gần như
xỉ vả”.
Người nghiện thuốc phiện viết về hút thuốc
phiện không ai ngoài Vũ Bằng. Tác giả xưng “ông”
qua tự sự Phù dung ơi! Vĩnh biệt.
Chẳng qua vì “vĩnh biệt” ông mới viết:
“…Ông nhớ đến
cái cảnh linh lung ở tiệm, đây đó có mấy ngọn đèn dầu mờ tỏ. Cảnh đó “gợi” lòng
người nghiện lắm. Thế mà ông không được hưởng. Lòng ông rộn rã như có ai vò xé.
Tai ông ùm lên… Ông nhớ đến tiếng nói của ông chủ tiệm? Đến tên bồi tiêm mỗi khi
làm xong điếu thuốc lại cầm tiêm gõ vào độc tẩu mời ông xơi?...”
Ngay cả Vũ Bằng cũng không nói gì đến cái
tẩu thuốc, mà chỉ tả sơ qua cảnh tiêm thuốc phiện như Nhất Linh, thưa bác mọt
chữ.
Tiếp
đến bác quắn đầu
trong văn học, ai là người hút xách đầu tiên…
Theo tôi: Người Anh mang thuốc phiện từ
Ấn Độ vào nước Tàu gây ra Chiến
tranh nha phiến. Người Pháp mang thuốc phiện vào nước ta để cụ vua đầu tiên
nhì nhằng đến á phiện là Khải Định (1916-1925). Cụ vua ta ngòai mê hát bội, hát
cô đầu, cụ còn bài bạc tài bàn, tổ tôm và… thuốc phiện qua câu tự trào đầy khẩu
khí:
- Xuân xanh tuổi ngoài đôi
chục, chơi đục trần ai, khi bài khi bạc, khi tài bàn vác, khi tổ tôm quanh, khi
năm canh ngồi nhà hát, khi gác cổ ả đào, khi ghẻ tầu con đĩ xác, khi
nằm rạp thuốc phiện tiêm, hoang ra dáng, rạng ra rồng, ngông ra
phết, cóc biết chi tồi, miệng én đưa qua mùi gió thoảng.
Qua gió thỏang có nhiều người viết về hút thuốc phiện như Thế
Uyên viết về Nguyễn Mạnh Côn, Tô Kiều
Ngân viết về Đinh Hùng. Nhưng tôi chịu đèn nhất cụ núi Tản sông Đà: Đầu
thế kỷ 20, cụ Tản Đà có bài thơ Đi đong
thóc: Trời mưa, sắn
ống cao quần - Hỏi cô bán thuốc trời gần hay xa
- Thân anh đã xác
như vờ - Đồng cân xin chị cho già chớ non. Tôi chỉ ngửi chữ qua thơ thế thôi, vì
chưa ai viết cụ hút thuốc phiện. Nhưng tôi chịu đèn… dầu lạc ở cụm chữ “xác như vờ” để hình dung con vờ vờ bay là là trên mặt nước ao hồ rồi
sáng nở tối tàn rồi như phù dung, phù du.
Mạn phép bác chứ, chứ bác gặm chữ mòn sách, bác biết thừa bứa khoảng
thời gian này thuốc phiện được người Pháp điều hành
việc phân phối. Tiệm thuốc phiện thời ấy có một bộ mặt rất Tây: Trước cửa không
treo bảng hiệu mà chỉ gắn một bảng trắng kẻ hai chữ RO (Régie Opium) tức Công
quản thuốc phiện.
Bác nói tôi làm quen
với thuốc phiện qua người Anh, người Pháp, vậy tôi có… “quen biết” với cô ba phù
dung chăng? Đành nem nép thưa, tôi chỉ che đóm ăn tàn theo thằng bạn, sau mới
có ngẫu sự đi tìm cái tẩu ở một nơi chốn mang dấu tích của người Anh, Tô Cách
Lan, Ái Nhĩ Lan. Bác tặc lưỡi nghe lạ. Chả lạ gì, vì đã có người Ái Nhĩ Lan trở
về quê mua cả
làng mang sang Arizona dựng lại thì sao, thưa bác mọt sách.
Chuyện với cô ba phù dung chẳng qua… qua
những năm trung hoc, tôi ngồi đồng ở quán cà phê ông Tàu Hải Phòng nghiện thuốc
phiện tên Phong hay “Foóng” trong con hẻm trên đường Nguyễn Thiện Thuật. Bắt
gặp chữ “foóng”, bác được thể mọt sách nho phong với “yên” là thuốc phiện, “foóng”
là dân làng bẹp vì… nằm bẹp dí bên bàn đèn. Ở quán cà phê tôi gặp thằng Phát cháu
ông. Một hôm, nó đèo tôi trên xe Goebel 1965 và kể lể một lần nó bị đau bụng. Ông
cho nó “phê” để hết đau. Tôi hỏi nó lần đầu “phê” có…phê chăng. Nó nói lúc đầu
“phê” vừa ói mửa, vừa đau bụng nữa, thế mới khỉ. Khỉ gió gì đâu, một ngày không
mây sao có mưa đột nhiên nó chở tôi tới con ngõ cạnh Viện Đại Học Vạn Hạnh chui
vào vòm Tư Cao cho nó “phê” một cữ, vì “đói thuốc” rồi.
Tới cửa, nó đe nẹt tôi: Mày đừng thử, coi
chừng đau bụng…
Tôi vào gặp cô “tiêm thuốc phiện” đơm
chuyện hút thuốc phiện khó lắm, nhiều người hút lần đầu chả mấy khi
kêu thành tiếng. Lạy thánh mớ bái, bác tha cho, y xì như ông nhà văn Nhất
Linh… tả cảnh nằm bên bàn đèn với bà Hiên ấy, là cô ấy cúi xuống lui cui tiêm thuốc
cho nó, cấu vào mắt tôi một mảng ngực to bằng cái đèn dầu lạc. Thế là cái đèn
dầu lạc chui tịt vào đầu tôi vất vưởng "thà một phút huy hòang rồi chợt tắt, còn
hơn là le lói suốt trăm năm." Thằng tôi bèn “ngả bàn đèn” làm một điếu. Tôi nhắm
tịt mắt lại “hít” thẳng băng một hơi kêu “ro... ro...” ngon ơ. Mô Phật, cô tiêm
thuốc phiện khen nức nở thằng tôi… có khiếu trên đời ít thấy. Từ
đó tôi kệch đến già, thưa bác.
Khi không bác mọt chữ gọ
gạy đã thấy cái dọc tẩu chưa? Hỏi xong, bác lại
đẩy truyện ngắn Bắn vịt trời của Nhất
Linh trước mặt tôi.
“…Bỗng Hải
ngạc nhiên thấy bác Hiên đặt dọc tẩu và tiêm xuống, tay ôm bụng.
- Bác sao thế?
- Bẩm cậu cháu đau bụng.
- Bác đau bụng à, hút một điếu thì khỏi ngay.
Hải giơ tay đỡ dọc tẩu để bác Hiên hút; nhìn thấy nàng hút, chàng hỏi:
- Bác đã hút bao giờ chưa?
- Bẩm cậu, khi nào đau thì phải hút. Lúc thường thầy cháu không cho.
- Bác sao thế?
- Bẩm cậu cháu đau bụng.
- Bác đau bụng à, hút một điếu thì khỏi ngay.
Hải giơ tay đỡ dọc tẩu để bác Hiên hút; nhìn thấy nàng hút, chàng hỏi:
- Bác đã hút bao giờ chưa?
- Bẩm cậu, khi nào đau thì phải hút. Lúc thường thầy cháu không cho.
Nàng nằm yên ngửa mặt để thở. Nhưng hôm nay nằm cùng một giường với một người đàn ông đẹp trai, nàng thấy trong lòng thèm muốn. "Biết đâu không có đứa con", nàng nghĩ thế để che đậy sự rạo rực về nhục dục. Chính nàng đã giả vờ đau bụng để Hải mời hút thuốc và như thế nàng sẽ bạo dạn hơn…” (Bắn vịt giời 1949)
Bậu
vào mắt tôi năm
1949. Đúng là con số ngẫu nhiên, vì chuyện tôi
đi săn cái tẩu lại vướng vất đến ngẫu sự cách đây đúng 100 năm: Ấy là năm 1849…
Số là mon men làm quen với thú chơi đồ
cổ qua thằng bạn học với chuyện kể không ai tin: Nó ghé tiệm đồ cổ Tàu dưới phố
và va vào mặt cái tẩu thuốc phiện. Hỏi giá nhiêu, lão Tầu già trả lời: 500.
Khỏang năm 1985, bộ tiền chùa sao, nên đi về. Sang năm trở lại, cái tẩu vẫn còn
đấy. Hỏi nhiêu, đáp: 1000. Năm sau nữa quay lại, cái tẩu thuốc phiện biến mất.
Bèn há họng hỏi?. Lão Tầu già tỉnh rụi: 1500.
Cuối tuần, đang ngồi ở… tiệm mì, bỗng nó
hỏi tôi: “Lêu bêu đồ cổ không mày?” Đột nhiên cái đầu đất tôi chui ra cái tẩu
thuốc phiện và nghĩ dám “của đi tìm người” lắm ạ. Cùng lúc tôi nghĩ không ra
cái tẩu, cái ngày đi hút với thằng cháu ông chủ tiệm ca phề làm bằng gì? Gỗ hay
tre? Lại nháo nhác thuốc phiện khởi thủy từ Ấn Độ mà cái tẩu họ làm bằng… thân
cây ớt. Bác lụng bụng nói thế mà nghe được. Hơ! Thế thì Tàu vặn vẹo cái tẩu
giống “cái tù và” bằng sừng trâu, sừng bò thì sao, thưa bác mọt chữ.
Bèn đi tới một nơi chốn cách thành phố
tôi ở gần hai giờ lái xe…
Nơi đến là một thị xã nhỏ, nằm trên hương
lộ (FM), trước khi vào thị xã có cây cầu sắt. Sau này tôi trở lại đây một lần
nữa, mỗi lần từ xa nhìn thấy nó tôi lại nhớ tới cầu Bình Lợi. Chỉ khác một nhẽ
cầu đây chỉ có hai nhịp, cầu Bình Lợi sáu nhịp, mặt cầu gỗ, giữa có đường rày
xe lửa chạy qua. Chẳng qua trái đất tròn, ông Tây người Pháp tên Gustav Effeil mang
sắt qua nước ta ráp nối lên năm 1902 giữa cánh đồng… Đồng Ông Cộ. Thì người Âu
châu mang cái cầu sắt cũng kiểu cọ này sang đây nên mỗi lần tới nơi chốn này,
tôi lại mang mang một chút hương đồng cỏ nội… quê nhà. Thảng như qua cầu Bình
Lợi tới chợ Thủ Đức ăn nem nướng, đến vườn cây ăn trái Lái Thiêu, rồi lạc nẻo
chân ai tới Biên Hòa ở đâu đó có con suối Lồ Ồ.
Qua cầu gặp tấm bảng ghi hai hàng chữ
“Wimberley Ghost Town - Population: 1500” . Thị xã là một trong “The Best 10 Antique
Towns of Texas”, gọi là thị xã nhưng chỉ là một con phố ngắn ngủn. Nhưng có một
rạp ciné cũ kỹ thời thập niên 40, nay đã đóng cửa. Hỏi thị dân, tôi mới ớ ra vì
thời gian tàn lụi, các saloon đóng cửa, thị xã trở thành ghost towns. Con
phố bán đồ cổ với những món đồ cũ kỹ còn rơi rớt lại mang dấu tích của người Đức,
Anh, Tô Cách Lan, Ái Nhĩ Lan khi họ sang đây khai phá vùng đất mới. Nay những
ông bà già khú đế, con cháu họ tìm đến đây để nhặt nhặn những cổ vật mang dấu ấn
đâu đó bên kia đại dương. Cuối tuần thị xã Wimberley mới có sinh khí, họ ghé
đây mua sắm đồ cổ, họ gặp nhau ở saloon uống bia Đức, Whisky Scotch (Tô
Cách Lan) để nhắc lại một thời xa xưa.
Bác tha ma một địa ở cái đất chó ăn đá
gà ăn muối này đây làm gì có đồ Bát Tràng. Thề trước bóng đèn, như trên đã thưa
thốt, lần sau ghé lại tiệm Fredericksburg lần nữa, tôi quơ được bức tranh Đông
Hồ gà lợn ở Bát Tràng, Bắc Ninh. Chả là người Mỹ sang nước, họ tha về nước họ thiếu
giống những thứ lạ đời ấy.
Loanh quanh đến quá trưa, bước
qua bên kia đường vào saloon kiếm cái gì lót dạ. Saloon vẫn giữ kiểu cách của
miền Viễn Tây, trước cửa trồng hai cột gỗ có thanh ngang để cao bồi buộc ngựa, hai
cánh cửa bật ra bật vào. Bên trong trên trần treo cái đu tòong ten để làm cảnh.
Tường có bức ảnh khổ lớn chụp kiều nữ ngồi trên xích đu... đu đưa. Kiều nữ mặc váy đỏ, eo bó corset, ngực lấp ló, cánh tay
trần đeo găng tay vải ren. Người tiếp viên cho hay cuối tuần dân ngụ cư quanh
vùng tới saloon đóng giả kiều nữ để tiếp khách. Đến tối, họ nhảy điệu Schottische
kiểu đồng quê chéo tay với khách.
Chỉ ra ngòai đường, người tiếp viên hòm
hõm thứ bảy chủ nhật có hai, ba cỗ xe Stagecoach, cỗ xe ngựa với “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo” thời đi
tìm vàng chạy tung bụi mù qua miền Viễn Tây California. Cỗ xe ngựa từ trang
trại đâu đó tới đậu ở lề đường, họ đội mũ cao bồi vừa quăng giây thừng vòng
vòng, vừa bán xúc-xích Đức nướng uống với bia
Đức, hay barbecue với bia Lone Star
của Texas. Ăn ngay nói thật, họ nói sao tôi kể lại cho bác nghe vậy thôi vì có
dòm dỏ thấy đâu.
Khi trở về đầu dẫy phố bán đồ cổ có tiệm
lúc tới không ghé, vì cách thị xã cả một cánh đồng bát ngát. Nhìn đồng hồ còn
sớm chán nên tạt vào xem. Đậu vào mắt là… cái tẩu thuốc phiện giá: $50. Không
tin vào cái kính cận, tôi săm soi cái tẩu bằng tre thấy nứt một đường dài. Tôi
biết đồ cổ bị mẻ, vỡ không có giá trị, nhưng đường nứt nằm ở phía dưới, ai biết
đó là đâu bèn tha về nhà trong cái tâm thái… của đi tìm người.
Vì mới tập chơi mấy thứ đồ cũ tích mốc
meo nên trong nhà có quyển cẩm nang chơi đồ cổ, có hình ảnh món nào đó với cả gốc
tích và ước lượng trị giá mòn đồ cổ ấy. Tôi giở ra tìm kiếm và in hịt như cái
tẩu thuốc phiện tôi vừa tậu được.
Dưới ảnh chụp có hàng chữ
“Chinese pipe in the form of an umbrela (cái nồi ống),
bamboo with silver hardware, early 20 century. $600 - $800. Về nhà tôi để nó giữa
kệ để… “ai” đi qua cũng thấy nhưng chả ai... thấy gì sất. Ấy vậy mà chính tôi mấy
năm sau mới bật ra ý nghĩ viết về cái tẩu thuốc theo chân những người Tàu di
dân cách đây gần 200 năm.
Năm 1848–1855, khi James W. Marshall phát hiện ra
vàng ở Sutter's Mill, tin lan ra, khoảng 300.000 người đã
đến California từ
khắp nơi bằng thuyền, ngựa, hay xe ngựa Stagecoach xuyên lục địa Mỹ, cơn
sốt vàng thu hút người từ châu Mỹ La Tinh khỏang 6.000 người và người châu Á khỏang 2.000
người. Những người châu Mỹ La Tinh
là thợ mỏ từ Mexico gần Sonora đến. Những thợ mỏ châu Á từ
Trung Hoa tới năm
1849, họ đến Gum San (tên
gọi của người Hoa chỉ California, tức "Núi vàng"). Những người châu Mỹ Mỹ La Tinh
và Trung Hoa đến đầu tiên này được gọi chung là "Forty-niners".
Vì vậy bút ký có tên Cái tẩu thuốc phiện 1849 là vậy, thưa
bác.
Năm
1852 có 25.000 người Hoa đến California, họ làm việc trong các hầm mỏ, làm đường
rầy xe lửa, giặt ủi quần áo… Họ đứng bên lề xã hội Mỹ đến năm 1943, khi Trung
Hoa trở thành đồng minh Đệ nhị thế chiến, người Mỹ mới cho họ nhập tịch. Từ năm
1910 đến 1943, những người Hoa nhỏ bé và lam lũ nhẫn nhục chịu đựng. Họ tiếp
tục bám lấy mảnh đất dù khắc nghiệt nhưng còn tốt hơn ở quê nhà.
Cơn sốt vàng California ảnh hưởng đến sự phát triển một ngôi làng lều trại của
người đào vàng thành một boomtown, đường sá được xây dựng
để thành San Francisco. Dân số bùng lên từ khoảng 1.000 người năm
1848 đến 25.000 năm 1850. Vì vậy người Hoa góp phần không nhỏ trong việc phát
triển thanh phố với Chinatown.
Bỗng dưng tôi vất vưởng đến đọan văn của
một người Việt nho gia nào đấy ghé nghĩa trang San Francisco, ông viếng mộ bạn
qua đây năm 1975 chỉ một chữ “Trịnh” đơn đôc bằng chữ Việt. Gần đấy không xa mấy
có bia đá to cao, sần sùi khắc bút tích chữ Tàu của người quá vãng nhắn nhủ cho
người sau: “Ta chọn nơi này làm quê hương thứ hai, mảnh đất đã
nuôi dưỡng, bao bọc Ta. Vì vậy Ta sống trọn vẹn hết lòng với mảnh đất này như
quê hương mẹ của Ta bên kia biển”. Dưới đề tên một
người Tàu họ Chu, bia mộ không ghi khắc quê hương bản quán, năm sinh, năm mất.
Nhưng chỉ khắc dưới tên họ ghi năm 1907 và gắn vào
bia mộ nguyên một cái cuốc chim đã hoen rỉ. Vì vậy tôi đóan chừng năm 1907, ông
họ Chu qua đây làm đường rầy xe lửa.
Bác hó háy ra ý với cái dọc tẩu trước mắt
có viết được gì chăng…
Ngẫm chuyện người chuyện ta: Bác là con
điệp tử thư trung theo chân người Tàu giặt ủi quần áo rồi… ”ngụ cư” ở kho sách nhà
tôi gặm giấy, gặm sách cho đến khi… chết. Tôi như bác nhưng vẫn sống nhăn răng
cạp đất nên nghĩ vụng những người Tàu qua đây vất vả khốn cùng để… dọn cỏ cho ma
xơi, để cuối tuần tôi đi… ăn mì xào dòn, mang quần áo đi giặt ủi ở… tiệm Dry
clean cho thẳng nếp với heavy dry rồi. Rồi diện vào, thảnh thơi đi sắm đồ cổ,
nên mới có cái tẩu thuốc phiện, cái hũ tiểu sành này đây.
Bỗng không tôi lây dây cái hũ đựng tro cốt
qua câu "Sống về mồ mả, không ai sống về cả bát cơm", mồ mả đây là
bản lai xứ sở. Được thể tôi lây lất tới ông nhà thơ Tô Thùy Yên cùng nỗi cô lý,
cô liêu: tưởng tượng ta về nơi bản
trạch, con còng ẩn nhẫn bò quanh quẩn. Tôi
như con còng bò quanh quẩn theo nhà văn Nhất Linh đi tìm
thời gian đã mất, qua nét bàng bạc của thời gian với Xóm Cầu Mới. Qua phố Phủ sang
làng Nậu có hàng dậu ruối, tới cái quán làng Cầu có cây đa con gà, ông lấy
thuốc lá hút. Hút xong ông viết truyện bắn vịt trời, bắn cò, khi đã đến giờ,
ông… đứng lên bước qua cầu.
Ông
đứng lên thì tôi… ngồi xuống.
Tôi với một ngón tay mổ chữ như cò mổ ruồi trên bàn
gõ, mõ sớm chuông chiều với cố hương nan quý hậu nan quy của một di dân bản lai
vô xứ sở chọn nơi này làm quê hương thứ hai. Tôi bòn mót đến mộ bia ông người
Việt đơn độc chỉ một chữ Trịnh, ông họ Chu với cái cuốc chim. Tôi rị mọ đến ông
người Ái Nhĩ Lan bê cả làng, và cây cầu bắc qua con suối Shannon sang Arizona.
Cuối tuần ông thuê cư dân mặc quần áo xứ ông thế kỷ thứ 18, họ đi đi lại
lại, sinh họat hàng ngày của làng Shannon như làm lò rèn, làm bánh mì với một
ngày như mọi ngày. Cũng năm 1907, cùng thời ông Chu, Marcell Proust viết Đi tìm thời gian đã mất qua cây cầu đá
nhỏ bé bắc qua con rạch làng ông. “Đi
tìm thời gian đã mất” là ký sự đi tìm cái tôi, với bóng dáng
ký ức dẫn về thời thơ ấu ở Combray. Đây
là một ký sự về ngôi làng, cậu bé thường dùng hai lối đi qua nhà Swann, lối đi
qua nhà Guermantes. Hai lối đi cũng là hai ngả đường của cuộc đời cậu. Cuối
đời với Marcell Proust, thời gian “mất đi” nay “đã tìm lại được”.
Còn tôi, tôi cơm niêu nước lọ tới cái lọ sành là hũ tiểu sành, một ngày
nào đó vắng gió đìu hiu, tôi đựng tro cốt ông cụ tôi mang về quê nhà. Tới
ngã ba đầu làng có quán nước dưới gốc cây bàng. Cây bàng mà ông cụ tôi trồng
khi 10 tuổi. Đặt hũ tiểu sành lên chõng tre, ngồi xuống ghế, "nhớ nhà châm điếu thuốc", đốt một điếu thuốc, khói huyền bay lên cây... tôi
ngước lên nhìn cây bàng trụi lá…
Với thời gian “mất đi”, nhìn qua con đường làng khỏang trăm thước
là nhà ông cụ, cạnh nhà có cái ao, nhưng nay “đã... không tìm lại được” cái
cầu ao qua ca dao "giã
ơn cái cọc cầu ao, nửa đêm gà gáy có tao có mày." Lát nữa đây bà chị tôi đưa tôi ra mả đồng làng, tới mồ mả gia tiên, tìm một chỗ
để ông cụ gần gũi với các cụ. Xa xa những cụm cỏ may theo gió heo may lăn trên
đồng chiều cuống rạ trong một ngày nhạt nắng.
Thạch trúc gia trang
Nhâm Thìn 2012
Ngộ Không Phí
Ngọc Hùng
(chỉnh sửa 2014, 2019)
Nguồn:
Tường Vũ Anh Thi, Sean Bảo, Hòang Hải Thủy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét