Thứ Bảy, 24 tháng 4, 2021

Tạp Ghi và Phiếm Luận: Biên Khảo về THƠ ĐƯỜNG SÁU CHỮ (Đỗ Chiêu Đức)

 Tạp Ghi và Phiếm Luận :  

         Biên Khảo về THƠ ĐƯỜNG SÁU CHỮ
                           
                  
                                          
        LỤC NGÔN THI, thơ 6 chữ, cũng là một thể loại thi ca từ thời cổ đại của Trung Hoa. Mỗi câu thơ đều có 6 chữ, toàn bài thường là 4 câu trở lên, tuy không được lưu hành rộng rãi như thơ Ngũ ngôn (5 chữ) và thất ngôn (7 chữ), nhưng cũng là một thể thơ "Lục Ngôn" có nét độc đáo riêng, như bài "Điền Viên Lạc 田 園 樂" của Thi Phật Vương Duy đời Đường sau đây:

    桃 紅 複 含 宿 雨,   Đào hồng phục hàm túc vũ,
    柳 綠 更 帶 朝 烟。   Liễu lục cánh đái triêu yên.
    花 落 家 僮 未 掃,   Hoa lạc gia đồng vị tảo,
    鳥 啼 山 客 猶 眠。   Điểu đề sơn khách do miên !
   Có nghĩa :
                    Hoa đào hồng vì mưa tối,
                    Sương sớm đưa cành liễu bay.
                    Hoa rụng gia đồng chưa quét,
                    Chim ca khách núi còn say !
      
      Về nguồn gốc của thơ 6 chữ thì có đến 3 nguồn như sau đây:

    1. Xuất xứ từ Kinh Thi :
       Theo Chấp Ngu đời Đông Tấn 東 晋 挚 虞 thì Lục Ngôn Thi bắt nguồn từ những câu 6 chữ trong Kinh Thi, ví dụ như trong bài "Quyền Nhĩ chương Chu Nam của Kinh Thi《詩 經· 周 南· 卷 耳》bài thứ hai như sau:

              陟 彼 崔 嵬、            Trắc bỉ tồi ngôi,
              我 馬 虺 隤。            Ngã mã khôi đồi,
              我 姑 酌 彼 金 罍、  Ngã cô chước bỉ kim lôi. (6)
              維 以 不 永 懷。       Duy dĩ bất vĩnh hồi (hoài).
          Có nghĩa :
                     Cởi ngựa lên núi đá đồi,
                     Ngựa ta mỏi mệt, ta ngồi nghỉ ngơi.
                     Cốc rượu vàng, rót uống chơi,
                     Để phai nỗi nhớ bồi hồi lòng ta !

                       

      Trong bài "Vũ Vô Chính 雨 無 正" cũng trong Kinh Thi thời Tiên Tần có câu:

             謂 爾 遷 于 王 都,  Vị nhĩ thuyên vu vương đô,
            曰 予 未 有 室 家.      Viết dư vị hữu thất gia.
        Có nghĩa :
                        Gần đây ta chuyển về kinh,
                        Rằng ta chưa có gia đình.

    2. Có xuất xứ từ Cốc Vĩnh đời Tây Hán 西 漢 谷 永 :
       Theo thuyết của Lương Nhậm Phưởng 南 朝 梁 任 昉 thời Nam Triều, trong "Văn Chương Duyên Khởi nói rằng: Thơ 6 chữ bắt đầu từ Đại Tư Nông Cốc Vĩnh đời Hán mà ra. Trong "Thương Lãng Thi Hoa" của Tống Nghiêm Vũ 宋 嚴 羽- 滄 浪 詩 花 cũng nói rằng: "Thơ ngũ ngôn bắt đầu từ Lý Lăng, Tô Vũ; Thơ thất ngôn bắt đầu từ "Bá Lương- Hán Vũ"; Thơ Tứ ngôn bắt đầu từ Vương Phó, Duy Mạnh đời Hán Sở; Thơ LỤC NGÔN bắt đầu từ Hán Tư Nông Cốc Vĩnh; Thơ tam ngôn bắt đầu từ Hạ Hầu Trạm đời Tấn, và thơ cửu ngôn bắt đầu từ các hương thân cao qúy.

    3. Có xuất xứ từ Đông Phương Sóc đời Hán 漢 朝- 東 方 朔
       Theo "Vịnh Sử Thi" của Tả Tư trong "Văn Tuyển" của Lý Thiện đời Đường cho là: Lục Ngôn Thi bắt đầu từ Đông Phương Sóc đời Tây Hán. Nhưng Lý Thiện chỉ dẫn chứng có 2 câu. Một câu ở quyển 21 của Vịnh Sử Thi trong Văn Tuyển Là: "Kế sách quyên khí bất thu 計 策 捐 棄 不 收"(Kế sách cho đi không nhận); Một câu nữa trong "Thục Đô Phú, Tả Tư quyển 4 là: "Hiệp tôn xúc tịch tương ngu 合 樽 促 席 相 娱"(Chai rượu cùng vui với tiệc).       
        
      Ba nguồn gốc của Lục Ngôn Thi nêu trên, chỉ có Kinh Thi là có cơ sở và đáng tin cậy nhất; hai thuyết còn lại đều còn nghi vấn. Một là Cốc Vĩnh và Đông Phương Sóc đều không thấy có thơ 6 chữ lưu truyền lại ở đời Tây Hán. Hai là theo "Hán Thư" của Ban Cố và "Sử Ký" của Tư Mã Thiên đều không có ghi lại Cốc Vĩnh và Đông Phương Sóc có tài làm thơ. Ba là trong "Văn Chương Lưu Biệt Luận" của Chấp Ngu đời Đông Tấn chỉ nói là trong Kinh Thi có những câu thơ 6 chữ, chứ không nói rõ ở đời nào. Trong "Văn Tâm Điêu Long" của Lưu Hiệp đời Nam triều cũng không có nhắc đến những cống hiến gì của Cốc Vĩnh và Đông Phương Sóc về Lục Ngôn Thi cả.
      Nhưng trong Kinh Thi thơ Lục Ngôn cũng chỉ xuất hiện lẻ tẻ bằng những câu lẻ chen vào bài thơ như đã ví dụ ở trên; họa hoằn lắm mới có 2 câu 6 chữ đi liền nhau như trong bài "Bắc Môn- Bội Phong 邶 風.北 門" trong Kinh Thi:

      王 事 適 我、             Vương sự thích ngã
      政 事 一 埤 益 我。   Chính sự nhất tỳ ích ngã. (6)
      我 入 自 外、             Ngã nhập tự ngoại,
      室 人 交 徧 讁 我。   Thất nhân giao biến trích ngã.(6)
      Có nghĩa :
                 Việc làng bận bịu chưa xong,
                 Việc quan hối thúc càng không thể ngồi.
                 Việc nhà lại rối bời bời,
                 Người nhà cửi nhửi bồi hồi lòng ta !
               
                

     Cho đến "Sở Từ 楚 辭" của Khuất Nguyên nước Sở trong thiên "Ly Tao 離 騷" đã có những câu 7, 6 chen nhau như:

      駟 玉 虯 以 乘 鷖 兮,  Tứ ngọc cù dĩ thừa ế hề,
      溘 埃 風 余 上 征;       Kháp ai phong dư thượng chinh.
     朝 發 軔 於 蒼 梧 兮,  Triêu phát nhẫn ư Thương Ngô hề,
     夕 余 至 乎 縣 圃;       Tịch dư chi hồ Huyền Phố.
     Có nghĩa :
                 Quay ra đạp gió rẽ mây,
                 Cưỡi rồng gióng phượng định ngày chơi xa.
                 Sớm Thương-Ngô, chiều qua Huyền Phố,
                 Đến thần linh xa ngó cõi ngoài.
                                   (thơ dịch của Nhượng Tống)
      
       Đến bài từ "Cửu Biện 九 辯" của Tống Ngọc 宋 玉, cũng người nước Sở, thì mới có 4 câu 6 chữ liền nhau như một bài tứ tuyệt:

       慷 慨 绝 兮 不 得,  Khảng khái tuyệt hề bất đắc, 
       中 瞀 乱 兮 迷 惑。  Trung mậu loạn hề mê hoặc.
       私 自 怜 兮 何 极,  Tư tự lân hề hà cực,
       心 怦 怦 兮 諒 直。  Tâm phanh phanh hề lương trực!
      Có nghĩa :
                 Khảng khái cũng chẳng được chi,
                 Trong lòng rối rắm lại khi mơ hồ.
                 Tự thương xót đến bao giờ,
                 Lòng trung vằng vặc ai ngờ được sao !

                                  

      Đến đời Đông Hán thì những bài phú trữ tình đã có những câu 6 chữ rất tề chỉnh, và đã bỏ được trợ từ "Hề " ở giữa câu; nếu tách rời ra thì có thể thành một bài thơ "Lục Ngôn Tứ Tuyệt" như trong bài "Quy Điền Phú 歸 田 賦" của Trương Hành 張 衡 có những câu:
  
        游 都 邑 以 永 久,   Du đô ấp dĩ vĩnh cửu,
        無 明 略 以 佐 時;   Vô minh lược dĩ tá thì;
        徒 临 川 以 羡 魚.      Đồ lâm xuyên dĩ tiện ngư,
        俟 河 清 乎 未 期。   Tự hà thanh hồ vị kỳ.
     Có nghĩa :                      
                         Trong kinh chẳng cống hiến gì,
                         Cũng không sách lược phò trì quân vương.
                         Bên sông thưởng thức cá ngon,
                         Hoàng Hà sông cạn đá mòn chưa trong !
          
       Đến thời kỳ Kiến An (cuối đời Đông Hán) lúc Tam Quốc Phân tranh thì Lục Ngôn Thi lần đầu tiên được Khổng Dung, một trong Kiến An Thất Tử 建 安 七 子 (7 người tài tử trong thời Kiến An) sáng tác ba bài thơ Lục Ngôn hoàn chỉnh. Dưới đây là bài thứ nhất trong ba bài thơ đó:

       漢 家 中 葉 道 微,  Hán gia trung diệp đạo vi,
       董 卓 作 乱 乘 衰,  Đổng Trác tác loạn thừa suy,
       僭 上 虐 下 專 威,  Tiếm thượng ngược hạ chuyên uy,
       萬 官 惶 怖 莫 違,  Vạn quan hoàng bố mạc vi,
       百 姓 惨 惨 心 悲.    Bá tánh thảm thảm tâm bi !
    Có nghĩa :
                  Giữa thời nhà Hán suy vi,
                  Đổng trác làm loạn thị uy.
                  Ép vua hiếp cả triều nghị,
                  Muôn quan sợ chẳng nói chi,
                  Trăm họ thảm lòng sầu bi.

       Hai người nối tiếp và phát huy để ổn định cho thơ sáu chữ cũng là hai trong số Kiến An Thất Tử là Tào Phi 曹 丕 và Tào Thực 曹 植 (Tào Tử Kiến 曹 子 建), cả 2 đều là con trai của Tào Tháo 曹 操 (Bản thân Tháo cũng là một trong Kiến An Thất Tử). Tào Phi với bài Lê Dương Tác Thi 黎 陽 作 詩 (Buổi sáng làm thơ) như sau:

      奉 辭 罰 罪 遐 征。   Phụng từ phạt tội hà chinh,
      晨 過 黎 山 巉 崢。   Thần qúa Lê Sơn sàm tranh.
      東 濟 黃 河 金 營。   Đông tế Hoàng Hà kim doanh,
      北 觀 故 宅 頓 傾。   Bắc quan cố trạch đôn khuynh.
      中 有 高 樓 亭 亭。   Trung hữu cao lâu đình đình,
      荊 棘 繞 蕃 叢 生。   Kính cức nhiểu phồn tùng sinh.
      南 望 果 園 青 青。   Nam vọng qủa viên thanh thanh,
      霜 露 慘 淒 宵 零。   Sương lộ thảm thê tiêu linh.
      彼 桑 梓 兮 傷 情。   Bỉ tang tân hề thương tình !
     Có nghĩa :                     
                       Phụng chỉ đi đánh giặc xa,
                       Lê sơn hiểm trở sáng qua,
                       Đóng trại phía đông Hoàng Hà,
                       Hướng bắc dinh thự của ta,
                       Trong có lầu các nguy nga,
                       Cỏ gai bao bọc quanh nhà.
                       Phía nam cây trái vườn hoa,
                       Lạnh lùng mù mịt sương sa,
                       Quê nhà đau xót lòng ta !
               
               

       Sau đây là bài thơ 6 chữ được xếp trong "Nhạc Phủ Thi Tập 樂 府 詩 集" sớm nhất: "Thiếp Bạc Mệnh 妾 薄 命" của Tào Tử Kiến:

        携 玉 手 喜 同 車,   Huề ngọc thủ hỉ đồng xa,
        北 上 雲 閣 飛 除。   Bắc thướng vân các phi trừ.
        钓 台 蹇 產 清 虚,   Điếu đài khiên sản thanh hư,
        池 塘 觀 沼 可 娱。   Trì đường quan chiểu khả ngu.
        仰 泛 龍 舟 绿 波,   Ngưỡng phiếm long chu lục ba,
        俯 擢 神 草 枝 柯。   Phủ trạc thần thảo chi kha.
        想 彼 宓 妃 洛 河,   Tưởng bỉ Mật Phi Lạc Hà,
        退 咏 漢 女 湘 娥。   Thoái vịnh Hán nữ Tương Nga.
       Có nghĩa :
                      Nắm tay người ngọc cùng xe,
                      Cùng lên lầu bắc mây che lưng trời.
                      Đài câu yên lặng thảnh thơi,
                      Ao hồ sông lạch vui chơi thỏa lòng.
                      Sóng xanh bao lấy thuyền rồng,
                      Cúi mình hái cọng cỏ thần linh chi.
                      Lạc Hà lại nhớ Mật Phi,
                      Tương Nga Hán nữ sầu bi đoạn trường !
          
        Sau Khổng Dung, Tào Phi, Tào Thực, những người có thành tựu trong Lục Ngôn Thi thì đời Ngụy có Kê Khang, Tây Tấn có Phó Huyền, Lục Cơ, Đông Tấn có Dưu thiền, Nam Triều có Tạ Hối, Lương Giản Văn Đế, Bắc Chu có Vương Bao, Dữu Tín... Đến đời Lương, Trần của Nam Bắc Triều thì Lục Ngôn Thi đã phát triển khá hoàn chỉnh với 6 câu 3 vần gián cách như bài "Mạo Tuyết Thi 貌 雪 詩" (thơ Tuyết) của Lương Chiêu Minh Thái Tử Tiêu Thống 梁 昭 明 太 子 蕭 統 như sau:

       既 同 摽 梅 英 散,   Ký đồng phiếu mai anh tán,
       複 似 太 谷 花 飛。   Phục tự thái cốc hoa phi.
       密 如 公 超 所 起,   Mật như công siêu sở khởi,
       皎 如 淵 客 所 揮。   Giảo như uyên khách sở huy.
       無 羡 昆 岩 列 素,   Vô tiện côn nham liệt tố,
       豈 匹 振 鷺 群 歸。   Khỉ thất chấn lộ quần quy.
     Có nghĩa :
                     Trông như cánh mai rơi rụng,
                     lại tựa Thái cốc hoa bay.
                     Nhặt tựa muối rây khắp chốn,
                     Trắng như vực thẳm thác bày.
                     Côn nham chập chùng đá trắng,
                     Lối về cò trắng cùng bay !
            
                    
                                             
       Kịp đến đời Đường thì Lục Ngôn Thi cùng với Ngũ Ngôn và Thất Ngôn thi cùng phát triển và hoàn chỉnh song song với nhau, nhưng quan trường cũng như quần chúng chỉ chú trong vào Ngũ Ngôn và Thất Ngôn Thi mà thôi, nên Lục Ngôn Thi bị lép vế, nhưng không vì thế mà bị quên lãng, hầu hết những thi nhân nổi tiếng của buổi Thịnh Đường đều có Lục Ngôn Thi, như bài "Điền Viên Lạc" của Thi Phật Vương Duy ở đầu bài viết nầy. Bây giờ thì ta cùng đọc bốn bài Lục Ngôn Thi của Thi Tiên Lý Bạch tả cảnh của bốn mùa Xuạn, Hạ, Thu, Đông nhé!

            《春 景》                 XUÂN CẢNH
       門 對 鹤 溪 流 水,  Môn đối hạc khê lưu thủy,
       雲 連 雁 宕 仙 家。  Vân liên nhạn đãng tiên gia.
       誰 解 幽 人 幽 意,  Thùy giải u nhân u ý,
       惯 看 山 鳥 山 花。  Quán khan sơn điểu sơn hoa.
                  李 白                        Lý Bạch
      Có nghĩa :
                     Cửa đối suối trong khe hạc,
                     Mây liền đàn nhạn bay xa.
                     Ai biết người nhàn ý tản,
                     Ngắm quen chim núi cùng hoa.

                      
                    

                   《夏 景》                    HẠ CẢNH
         竹 簟 高 人 睡 覺,   Trúc điệm cao nhân thụy giác,
         水 亭 野 客 狂 登。   Thủy đình dã khách cuồng đăng.
         窗 外 熏 風 燕 語,   Song ngoại huân phong yến ngữ,
         庭 前 綠 樹 蟬 鳴。   Đình tiền lục thọ thiền minh.
                          李白                            Lý Bạch
      Có nghĩa :
                     Đệm trúc cao nhân an giấc,
                     Nhà sàn khách lạ lăng xăng.
                     Ngoài song gió đưa én liệng,
                     Trước sân cây rậm ve ngâm.
                    
                    

                 《秋 景》            THU CẢNH
        昨 夜 西 風 忽 轉,   Tạc dạ tây phong hốt chuyển,
        驚 看 雁 度 平 林。   Kinh khan nhạn độ bình lâm.
        詩 興 正 當 幽 寂,   Thi hứng chánh đang u tịch,
        推 敲 韵 落 寒 帧。   Thôi xao vận lạc hàn tranh.
                      李 白                           Lý Bạch
      Có nghĩa :
                     Đêm qua gió tây chợt nổi, 
                     Giật mình nhạn vượt bình lâm.
                     Thi hứng lúc đang hiu hắt,
                     Đẽo gọt vần rơi mất tăm !
                 
                 

                     《冬景》                    Đông Cảnh
          凍 笔 新 詩 懒 寫,   Đống bút tân thi lãn tả,
          寒 爐 美 酒 時 温。   Hàn lô mỹ tửu thời ôn.
          醉 看 梅 花 月 白,   Túy khán mai hoa nguyệt bạch,
          恍 疑 雪 落 前 村。   Hoảng nghi tuyết lạc tiền thôn !
                    李 白                                 Lý Bạch
      Có nghĩa :
                       Thơ xong bút se biếng tả,
                       Rượu ngon lò lạnh khó ôn.
                       Say nhìn hoa mai trăng tỏ,
                       Giật mình ngỡ tuyết ngoài thôn !

                  
   
       Ta thấy kỹ thuật làm thơ đã điêu luyện, bằng trắc phân minh, đối xứng nghiêm cẩn, ý thơ cao vút không thua gì ngũ ngôn và thất ngôn thi chút nào cả! Ta hãy đọc thêm một bài "Lục Ngôn Luật Thi"《Cách Hán Giang Ký Tử An 隔 漢 江 寄 子 安》của Ngư Huyền Cơ 魚 玄 機, một trong "Tứ Đại Nữ Thi Nhân đời Đường" sau đây sẽ rõ: 
        
        江 南 江 北 愁 望,   Giang nam giang bắc sầu vọng,
        相 思 相 憶 空 吟。   Tương tư tương ức không ngâm.
        鴛 鴦 暖 卧 沙 浦,   Uyên ương noãn ngọa sa phố,
        砠 矦 閑 飛 桔 林。   Thư hầu nhàn phi cát lâm.
        烟 里 歌 聲 隱 隱,   Yên lý ca thanh ẩn ẩn,
        渡 頭 月 色 沉 沉。   Độ đầu nguyệt sắc trầm trầm.
        含 情 咫 尺 千 里,   Hàm tình chỉ xích thiên lý,
        况 聽 家 家 遠 砧。   Huống thính gia gia viễn châm.
      Có nghĩa :
                        Buồn trông giang bắc giang nam,
                        Thương nhau nhớ lắm âm thầm ngâm nga.
                        Uyên ương ấm áp noãn nà,
                        Côn trùng chấp chới bay ra sau vườn.
                        Tiếng ca văng vẳng khói sương,
                        Bóng trăng bến vắng vấn vương một mình.
                        Dặm ngàn gang tất hàm tình,
                        Lại nghe tiếng giặt xập xình xa xa. 
                    
                

       Bài thơ với đầy đủ "mạo, thực, luận, kết" bố cục của một bài Luật Thi, hai cặp Thực và Luận đối nhau chan chát, cách luật nghiêm cẩn, trắc bằng đúng phép không khác gì một bài ngũ ngôn hay thất ngôn luật thi cả. 

        Không phải chỉ riêng Ngư Huyền Cơ, Vương Duy, và Lý Bạch, mà Vương Xương Linh, Đỗ Mục, Sầm Tham... đều có làm thơ 6 chữ cả! Theo thống kê của quyển "Toàn Đường Thi《全 唐 诗》" thì trong đó có tất cả 75 bài thơ 6 chữ và Lục Ngôn Thi thẳng tiến đến đời Tống, Tô Đông Pha, Hoàng Đình Kiên, Lục Du, Tần Quan... đều cũng có lục ngôn thi. Trong quyển "Thiên Thủ Tống Nhân Tuyệt cú 千 首 宋 人 绝 句" thì có đến 98 bài là thơ 6 chữ (chiếm tỉ lệ 1/10 của thi tập). Xuyên suốt qua các triều đại Nguyên, Minh, Thanh và mãi cho đến hiện nay, Lục Ngôn Thi vẫn luôn luôn tồn tại một cách âm thầm nhưng tích cực bên cạnh các hào quang rực rỡ của Ngũ Ngôn và Thất ngôn Thi nhưng không hề tàn lụi bao giờ.

       Để kết thúc bài viết nầy, kính mời tất cả cùng đọc một bài lục ngôn dưới hình thức của một bài từ rất độc đáo "Thiên Tịnh Sa  天 淨 沙 Thu Tứ 秋 思" của Mã Trí Viễn 馬 致 遠 đời nhà Nguyên:
                        
         枯 藤 老 樹 昏 鴉,    Khô đằng lão thọ hôn nha,
         小 橋 流 水 人 家,    Tiểu kiều lưu thủy nhân gia,
         古 道 西 風 瘦 馬。    Cổ đạo tây phong xú mã.
          夕 陽 西 下,             Tịch dương tây hạ,
          斷 腸 人 在 天 涯。    Đoạn trường nhân tại thiên nhai!
      Có nghĩa :
                      Mây cằn cây cỗi qụa buồn,
                      Đìu hiu cầu nhỏ nước tuôn mấy nhà,
                      Đường xưa ngựa ốm gió qua,
                      Nắng chiều dần tắt...
                      Bên trời hiu hắt... người xa đoạn trường !
           
              

      Ta thấy, chẳng những "thi ca" có thơ 6 chữ mà cả "ca từ" cũng có những câu 6 chữ nữa!

      Hẹn bài viết tới !

                                                            杜 紹 德
                                                         Đỗ Chiêu Đức

* PHỤ LỤC :
       Để cho mọi người rộng đường tham khảo, đính kèm theo đây là các "cách Luật" của thơ 6 chữ khi đã hoàn chỉnh ở đời Đường:

     六 言 詩 的 格 律 编 辑  BIÊN TẬP VỀ CÁCH LUẬT CỦA LỤC NGÔN THI

* 平 声 韵 GIEO VẦN BẰNG :

《一》绝 句 押 平 声 韵 Tuyệt cú gieo vần BẰNG:
   《A》六 言 绝 句 仄 起 首 句 不 押 韵 格 式 Lục ngôn tuyệt cú không gieo vần ở câu đầu:

          T T B B T T, B B T T B B (Vần) (đối xứng) 
          仄仄平平仄仄,平平仄仄平平 (韵). (对 仗)
          平平仄仄平仄,仄仄平平仄平 (韵). (Bốn câu Hai vần)

   《B》六 言 绝 句 仄 起 首 句 押 韵 格 式 Lục ngôn tuyệt cú gieo vần ở câu đầu:

         T T B B T B(vần), B B T T B B (vần).
         仄仄平平仄平 (韵),平平仄仄平平 (韵)。
         平平仄仄平仄,     仄仄平平仄平 (韵)。(Bốn câu Ba vần)
     
         Trên đây là Lục Ngôn Tuyệt Cú bắt đầu bằng "thanh TRẮC". Tương tự, nếu bắt đầu câu một bằng "thanh BẰNG" thì sẽ như sau đây:

  《C》六 言 绝 句 平 起 首 句 不 押 韵 格 式:

         平平仄仄平仄,仄仄平平仄平(韵)。(对 仗)
         仄仄平平仄仄,平平仄仄平平(韵)。(4 câu 2 vần)

  《D》六 言 绝 句 平 起 首 句 押 韵 格 式:

         平平仄仄平平 (韵),仄仄平平仄平 (韵)。
         仄仄平平仄仄,        平平仄仄平平( 韵) (4 câu 3 vần)


《二》律 诗 押 平 声 韵  LUẬT THI GIEO VẦN BẰNG 

    《A》六 言 律 诗 平 起 首 句 押 韵 格 式 Bắt đầu câu 1 bằng thanh BẰNG và gieo vần ở cuối câu 1:
               B B T T B B (vần), T T B B T B (vần)
               平平仄仄平平 (韵), 仄仄平平仄平 (韵).
               仄仄平平仄仄,     平平仄仄平平 (韵).(对 仗 đối xứng)
               平平仄仄平仄,     仄仄平平仄平 (韵).(对 仗 đối xứng)
               仄仄平平仄仄,     平平仄仄平平 (韵).(8 câu 5 vần)

    《B》六 言 律 诗 仄 起 首 句 押 韵 格 式 Bắt đầu câu 1 bằng thanh TRẮC và gieo vần ở cuối câu 1 ::
               仄仄平平仄平 (韵), 平平仄仄平平 (韵).
               平平仄仄平仄,      仄仄平平仄平 (韵).(对 仗)
               仄仄平平仄仄,      平平仄仄平平 (韵).(对 仗)
               平平仄仄平仄,      仄仄平平仄平 (韵).(8 câu 5 vần)

* 仄 声 韵  GIEO VẦN TRẮC :
     Tất cả đều giống như trên, chỉ đổi thanh BẰNG thành thanh TRẮC mà thôi.

  《一》绝 句 押 仄 声 韵 Lục Ngôn Tuyệt Cú gieo vần TRẮC :

      《A》六 言 绝 句 平 起 式:
               平平仄仄平仄 (韵),  仄仄平平仄仄 (韵).
               仄仄平平仄平,       平平仄仄平仄 (韵).
      《B》六 言 绝 句 仄 起 式:
               仄仄平平仄仄 (韵),  平平仄仄平仄 (韵).
               平平仄仄平平,       仄仄平平仄仄 (韵).
                                       (Tất cả đều cùng 4 câu 3 vần)
 《二》律 诗 押 仄 声 韵 LUẬT THI VẦN TRẮC
     《A》六 言 律 诗 平 起 式:(chữ đầu tiên của câu đầu là thanh BẰNG)

               B B T T B T(vần),   T T B B T T (vần)
               平平仄仄平仄 (韵),  仄仄平平仄仄 (韵).
               仄仄平平仄平,      平平仄仄平仄 (韵). (对 仗 đối xứng)
               平平仄仄平平,      仄仄平平仄仄 (韵).(对 仗 đối xứng)
               仄仄平平仄平,      平平仄仄平仄(韵). (8 câu 5 vần TRẮC)

    《B》六 言 律 诗 仄 起 式 :(chữ đầu tiên của câu đầu là thanh TRẮC)

               仄仄平平仄仄 (韵), 平平仄仄平仄 (韵).
               平平仄仄平平,      仄仄平平仄仄 (韵). (对 仗)
               仄仄平平仄平,      平平仄仄平仄 (韵).(对 仗)
               平平仄仄平平,      仄仄平平仄仄 (韵).

      Nhìn chung, tất cả Cách Luật của Lục Ngôn Thi đều giống như là Ngũ Ngôn và Thất Ngôn vậy!
                                                   Đỗ Chiêu Đức





         

Không có nhận xét nào: