Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2015

Viếng Đồng Song - Vương Hy Chi

VIẾNG ĐỒNG SONG
Trương Hy Chi
Khóa 4 Viện Hán Học Huế

Tiết Đoan Ngọ, giờ ngọ ngày 7 - 5 Giáp Ngọ “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử” (Nguyễn Công Trứ)
Giá như làm tướng dẫu da ngựa bọc thây nhiều khi lên voi xuống chó cũng thỏa chí tang bồng,
Ở đây là thầy không xe đưa ngựa rước, được chữ bán tự vi sư tùy đời cho khôn dại.
Khó khăn gặp buổi nhiễu nhương,
Vinh nhục tình người điên bái 
Học chữ được chữ mất, chờ trường, chờ lớp đợi trông,
Ăn cơm bới cơm đùm, lên huyện về làng nếm trải.
NHỚ THUỞ TRƯỚC:
Được tiếng thông minh vẫn trong vùng quê nước đọng ao tù,
Nổi danh bạt chúng không hơn múa gậy nhà hoang, góc chái.
Sắn khoai đắp đổi hết cấp này lên cấp nọ, thi đua một lũ siêng năng,
- Chữ nghĩa thèm thuồng này Anh văn, nọ Pháp ngữ dùi mài bạn bè hăng hái.
CŨNG MAY;
Học được, thi đậu tuần tự mà lên, 
Phổ thông, ngành nghề trải bao nhẫn nại.
Cử nhân, cao học ôn ôn luyện luyện nhọc nhằn biết mấy miễn đạt vinh xương,
Hán học, Sài Gòn học học làm làm tốn kém kể chi lo toan trang trải.
Bạn bè đứa lên loong, đứa tham chính, vận may đứa dở cũng xênh xang,
Nếp nhà, sách chất đống, sách thánh hiền, ai bảo sách này toàn đồi bại?
Mới đó dạy Nguyễn Tri Phương, Viện Cổ Chàm điện sáng lầu cao,
Đành cam về Hà Lợi Thượng, Cồn Nhĩ Hạ, sóng gầm cát chạy.
Trí thức lỗi thời mắm muối qua ngày,
Văn chương cái thế tréo ngoe thời đại.
Thuyền nan chở đạo lý đem nhiệt tình chèo ngược nước dễ sinh chuyện ngáng trở phong trào,
Đơn chiếc con cô vụ có tung hoành chín từng mây chỉ một bè nhảy luồn cóc nhái.
Học lắm sử hay bàn đến sử hỏi ai khen Huy Lượng tụng Tây Hồ,
Luận tình đời muôn vạn nẻo đời nỡ bạo gan chê Chiến Tụng Phạm Thái?
Viết báo Chim Việt “cảm hoài” Thạch Hào lại “trốn lính thuở tranh hùng,
Thương cảnh Đỗ Quân đưa tiễn “Cùng Lý biệt” vì đời tranh lẽ phải.
Khuất Nguyên chết lũ ngu dốt ghen ghét tài năng,
Kinh Kha đi ta lẽ đâu ngợi khen hăng hái.
Nghe đồn đãi bằng cấp nhiều kẻ thực dụng chụm chưa chín nồi cơm,
Câu thơ thần bài văn thánh tay đố kỵ chê điếc hai con ráy.
Chắc lên núi rừng học trò khát chữ nghĩa đất dụng võ hão hán tài ba
Ngờ đâu sư phạm người ngợm đói thịt tươi nơi danh liệt tài hoa hãm hại.
Thoát đi là khôn
Ở lâu thêm hại
Trồng cà phê, bán non, xây gác nghinh phong, lầu vọng nguyệt ca vịnh dưỡng tâm,
Buôn mắm thối, lời bội, trách quan cách rỡm, mũi vô duyên phong lưu thường tại.
Với năm con có nếp có lòn
Cùng bạn bè trai trai gái gái
Quê hương canh cánh năm canh, tình sâu nghĩa nặng, rờ hến bà To
Thương cái hến làng Mai, chẳng qua thời thế thế thời phải xa tông tổ ngậm ngùi,
Cố quận tỉnh say sáu khắc lòng ai hoài đụng rau Động
Đền nhớ rau tràng rau má chỉnh e bắt phong trần phải phong trần thương đỗ quyên khắc khoải
Hình như thượng giới cần chức lo toan,
Quá tiếc trần gian vắng tay từng trải.
Đường ra nghĩa trang lượn lờ ngang, bát quái dọc, Gia Cát ơi ! Liệu có rỗi nghề vắt óc vẽ vời chi mê đồ trận để Ngụy Khỏa quên dân nước vì cha,
Cỏ đùn nấm mộ hoa dại nở chim rừng kêu, cô lái hỡi! Xóa hộ giùm cho dấu tình lãng mạn trên bến cộ Ô Lâu gác mái ngư ông về cuối bãi.
Ô HÔ
Một thuở tài hoa
Ngàn năm tồn tại
Sông Ngân Hà cách trở, tháng bảy Cầu Ô Thước còn chờ đón Ngưu Lang
Núi Bột Hải mù khơi, ai tìm thuốc trường sinh nhớ giùm thăm Phạm Lãi
Vào động tiên sao gọi lạc lối thiên thai?
Lên yên ngựa đành ca vào nơi quan tái.
Ông Bành Tổ sống lâu đâu?
Thằng Cuội già chờ cũng oải.
Đang vận hội mới gặp thời,
Phó công dân cũng vĩ đại.
Mấy bồ chữ chớ quên,
Một tài danh còn mãi.
Chấp bút

T.H.C



Không có nhận xét nào: