Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2025

NHỮNG NĂM TỴ TRONG LỊCH SỬ - Sưu tầm: Nguyễn Lý Tưởng


NHỮNG NĂM TỴ TRONG LỊCH SỬ 
Sưu tầm: Nguyễn Lý Tưởng

Rắn, tượng trưng cho năm Tỵ, đứng hàng thứ 6 trong 12 con giáp. Rắn là con vật bị nguyền rủa trong Kinh Thánh (cựu ước) của người Do Thái. Quỷ Satan mượn hình Con Rắn để cám dỗ bà Eva là tổ tông của loài người (đặc biệt đối với người Do Thái). Người học võ hay nói đến “xà quyền” là môn võ rút từ kinh nghiệm của con rắn săn mồi hay hai con rắn tranh hùng với nhau…Ngày xưa, khi quân Tàu (quân Mông Cổ tức nhà Nguyên) và quân nhà Minh, nhà Thanh qua đánh nước ta thường đi ngựa, dùng đao, thương…Người Việt chúng ta hay sử dụng “xà quyền” nghĩa là “nằm lăn mình trên đất, dùng đao và móc câu tấn công chân ngựa của quân địch…Từ khi quân Pháp chiếm nước ta (1962, 1968…) chúng dùng súng, từ xa bắn tới…Người Việt sử dụng cung , tên, đao, kiếm…không thắng được Tây…Từ thời vua Tự Đức trở về sau, võ thuật Việt Nam thất truyền dần dần, “xà quyền “ cũng thất truyền luôn. Các “lò” dạy võ Thiếu Lâm không nghe nói đến “xà quyền” nữa… 
Sau đây là những Năm Tỵ có nhiều biến cố trong lịch sử: 
- Quý Tỵ (208 trước Công Nguyên): Sau khi Tần Thủy Hoàng, vua Trung Quốc mất, con là Hồ Hợi tức Tần Nhị Thế nối ngôi, thiên hạ nổi lên chống lại nhà Tần nên Nhâm Ngao, tướng nhà Tần cùng Triệu Đà đang thi hành chính sách “thực dân” ở miền Nam Ngũ Lĩnh, muốn tự lập để tạo nên một giang sơn riêng không thuộc nhà Tần nhưng mộng chưa thực hiện được thì Nhâm Ngao đau nặng... Trước khi chết, ông đã trao  quyền chỉ huy quân đội lại cho Triệu Đà và khuyên Triệu Đà đóng cửa biên giới, phòng bị nghiêm mật, không cho người của phương Bắc (nhà Tần) đến liên lạc. Triệu Đà đã thực hiện đúng như kế hoạch của Nhâm Ngao đề ra và tự tuyên bố độc lập, đặt tên nước là Nam Việt.
 - Ất Tỵ (196 trước Công Nguyên): Cao Tổ nhà Hán là Lưu Bang diệt được nhà Tần, thống nhất Trung Quốc được 11 năm rồi, nghe tin Triệu Đà xưng vương, lập ra nước Nam Việt, liền cho sứ là Lục Giả qua phong cho Triệu Đà làm Nam Việt Vương để chiêu dụ Triệu Đà về thần phục nhà Hán. Lục Giả nói với Triệu Đà: “Vương vốn là người Hán, họ hàng, mồ mả đều ở nước Hán, nay lại làm trái tục nước mình, muốn chiếm đất này làm kẻ địch chống chọi với nhà Hán, há chẳng lầm hay sao?...”. Triệu Đà nói: “Tôi ở đất này lâu ngày quên mất cả lễ nghĩa”. Rồi ông lại hỏi Lục Giả: “Tôi với Tiêu Hà, Tào Tham ai hơn?”. Lục Giả nói: “Vương hơn chứ”. Triệu Đà lại hỏi: “Tôi với vua Hán ai hơn?”. Lục Giả nói: “Hán đế nối nghiệp của Ngũ Đế Tam Vương, thống trị người Hán kể hàng ức vạn người, đất rộng hàng muôn đặm, vật thịnh dân giàu, quyền chính chỉ do một nhà, từ khi trời đất mở mang đến nay chưa từng có. Nay dân của vương, chẳng qua mười vạn, ở xen khoảng núi biển, chỉ ví như một quận của nhà Hán, ví với Hán đế sao được?”. Triệu Đà cười: “Tôi lấy làm giận không được nổi dậy ở bên ấy, biết đâu chẳng bằng nhà Hán?”. 
- Đinh Tỵ (184 trước Công Nguyên): Hán Cao Tổ Lưu bang mất, nội bộ nhà Hán rối loạn, bà Cao Hậu lên nắm quyền, năm đó là năm 24 nhà Hán, Trung Quốc ra lệnh cấm không được bán các đồ kim khí như sắt, đồng... ở biên giới. Từ đó giữa N
am Việt và nhà Hán có sự xích mích. Sau khi Triệu Đà mất, nhà Hán âm mưu chiếm Nam Việt của nhà Triệu.
 - Đinh Tỵ (124 trước Công Nguyên): Lữ Gia là tướng của Nam Việt được nhà Triệu đưa lên làm Thái Phó, giúp vua điều khiển việc nước. 
- Kỷ Tỵ (112 trước Công Nguyên): Vua nhà Hán là Nguyên Đỉnh năm thứ 5, cho sứ giả qua mời cháu của Triệu Đà là Triệu Ai Vương và mẹ là Cù Thị Thái Hậu qua Trung Quốc chầu vua Hán. Cù Thị vốn là người Hán lại tư thông với sứ của nhà Hán và muốn dâng nước Nam Việt cho vua Hán. Lữ Gia can ngăn không được bèn cùng các tướng sĩ làm đảo chánh, giết Cù Thị và Ai Vương và cả sứ nhà Hán nữa rồi lập con của Triệu Minh Vương là Thuật Dương Hầu Kiến Đức lên làm vua, quyết bảo vệ giang sơn, chống lại nhà Hán. Năm sau, Canh Ngọ (111 trước Công Nguyên), vua Hán sai tướng là Dương Bộc và Lộ Bác Đức đem quân qua đánh chiếm Nam Việt, bắt được Lữ Gia. Các tướng của ta ở địa phương cũng không địch nổi với quân Tàu nên phải xin hàng. Từ đó nhà Hán chia nước ta thành quận huyện trực thuộc Trung Quốc và đặt quan Thứ Sử để cai trị. 
- Tân Tỵ (381 sau Công Nguyên, đời nhà Tấn bên Trung Quốc): Nguyên vào năm trước là Canh Thìn, 380, Thái Thú quận Cửu Chân là Lý Tốn chiếm đất châu quận chống lại vua nhà Tấn (Trung Quốc) nên vua Tấn sai Thái Thú Giao Châu là Đỗ Viện đem quân đi đánh Lý Tốn. Đỗ Viện nguyên là người huyện Châu Diên cùng quê với Thi chồng Trưng Trắc, được nhà Tấn cho làm Thái Thú Giao Châu. Lý Tốn thua và bị Đỗ Viện chém đầu. 
- Ất Tỵ (945): Dương Tam Kha là em vợ của Ngô Quyền, cướp ngôi của cháu là Ngô Xương Ngập (con trưởng của Ngô Quyền). Ngô Xương Ngập chạy về nương tựa nhà Phạm Lệnh Công ở Nam Sách Giang (nay thuộc tỉnh Hải Hưng). Dương Tam Kha chọn con thứ hai của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi của mình, các con của Ngô Quyền là Ngô Nam Hưng, Ngô Càn Hưng còn nhỏ, chưa biết gì đều theo Dương Tam Kha (theo bên mẹ). Dương Tam Kha nhiều lần đem quân đánh Phạm Lệnh Công để bắt Ngô Xương Ngập nhưng không được. Anh hùng trong nước nổi lên chống lại Dương Tam Kha và từ đó sinh ra loạn “Thập Nhị Sứ Quân”. 
 - Tân Tỵ (981): Năm thứ hai triều đại nhà Tiền Lê, vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) nguyên là Thập Đạo Tướng Quân nhà Đinh (Đinh Bộ Lĩnh). Sau khi Đinh Tiên Hoàng mất, nhà Tống (Trung Quốc) đem quân đánh nước Đại Việt của ta. Thái hậu nhà Đinh là Dương Vân Nga cùng các quan tôn Lê Hoàn lên làm vua để chống xâm lăng. Năm Tân Tỵ, 981, vua đem quân chống với các tướng của nhà Tống là Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng. Vua sai đóng cọc ngăn sông Bạch Đằng để chống giặc và sai quân sĩ trá hàng để dụ Hầu Nhân Bảo. Hầu Nhân Bảo thua trận, bị bắt và bị chém, các tướng của nhà Tống bèn lui quân. Vua Lê đem quân đánh đuổi. Quân của Khâm Tộ thua to, chết quá nửa, thây chết đầy đồng. Tướng giặc là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân bị bắt đem về Hoa Lư. Từ đó trong nước được yên
- Quý Tỵ (995): Nhà Tống sai Vương Thế Tắc và Lý Cư Giản sang phong cho vua Lê Đại Hành làm Giao Chỉ Quận Vương (Đinh Bộ Lĩnh, là người đầu tiên được Trung Quốc phong Vương sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị nhà Hán đánh chiếm...).
 - Ất Tỵ (1005): Tháng ba, mùa Xuân năm Ất Tỵ (1005) vua Lê Đại Hành mất. Ngài tên húy là Lê Hoàn, người Ái Châu, cha của ngài là Lê Mịch, mẹ là người họ Đặng. Lê Hoàn làm quan Thập Đạo Tướng Quân nhà Đinh, được quân sĩ tôn lên ngôi vua để chống quân Tống xâm lăng. Làm vua được 24 năm, thọ 65 tuổi (941-1005) tính theo âm lịch, chôn tại châu Trường Yên. Vua mất năm 1005 nhưng một năm sau mới báo cáo cho vua Tống biết, do đó sử sách ghi là năm 1006.
 - Tân Tỵ (1041): Đời nhà Lý, Nùng Trí Cao chiếm châu Thắng Do, đổi làm nước Đại Lịch. Vua sai tướng đi đánh, bắt sống được Nùng Trí Cao đem về kinh đô Thăng Long. Vì cha của Cao là Nùng Tồn Phúc và anh là Nùng Trí Thông đã bị giết nên vua tha tội giết và cho trở về giữ châu Quảng Nguyên như cũ lại còn cho thêm bốn động Lôi Hỏa, Bình, An, Bà và thêm châu Tư Lang nữa. Thấy vua Lý Thái Tông đối xử với Nùng  Trí Cao như vậy, sử gia Lê Văn Hưu đã chép vào Đại Việt Sử Ký lời nhận xét sau đây: “Thái Tông say đắm cái lòng nhân nhỏ nhặt của nhà Phật mà quên mất cái nghĩa lớn của người làm vua”
- Quý Tỵ (1053): Tướng Địch Thanh của nhà Tống cùng 3 tướng thuộc hạ đem quân chiếm phố Quy Nhân thuộc Ung Châu. Nùng Trí Cao đem quân chống bị Địch Thanh đánh bại. Tướng tâm phúc của Trí Cao là Hoàng Sư Mật cùng 57 thuộc hạ bị chết tại trận. Quân Tống đánh đuổi giết hơn 2.200 người. Trí Cao ban đêm bỏ thành trốn đi. Mấy tháng sau, Trí Cao sai người thân tín là Lương Châu đến xin vua nhà Lý cho quân cứu viện. Vua sai Vũ Nhị đem quân đi cứu Nùng Trí Cao. Bị Địch Thanh đánh đuổi, Trí Cao chạy vào nước Đại Lý (Vân Nam). Người nước Đại Lý chém đầu Trí Cao rồi đem nộp cho quân Tống. Mẹ Trí Cao là A Nùng cũng bị quân Tống giết. Từ đó, họ Nùng bị diệt.
 - Đinh Tỵ (1077): Đời Lý Nhân Tông (húy Càn Đức, con Lý Thánh Tông), Lý Thường Kiệt đem quân đánh hai châu Khâm và châu Liêm nước Tống, nói rằng nhà Tống thi hành phép thanh miêu (một biện pháp kinh tế do Vương An Thạch đề xướng), tàn hại dân Trung Quốc, cho nên đem quân sang hỏi tội để cứu giúp nhau. Theo lời kể của các nhà cách mạng Việt Nam đã từng trốn qua Trung Quốc thời Pháp thì hiện nay trên lãnh thổ Trung Quốc vẫn còn một vùng toàn người Việt qua đây từ thời Lý Thường Kiệt, họ vẫn giữ phong tục Việt Nam như ăn trầu...
 - Tân Tỵ (1101): Vua Lý Nhân Tông đổi niên hiệu mới là Long Phù năm thứ nhất, phong cho Thái Úy Lý Thường Kiệt kiêm chức nội thị phán thủ đô áp nha hành điện nội ngoại đô tri sự, quyền thế lớn nhất trong nước. Năm đó, vua cũng sai trùng tu chùa Diên Hựu. 
- Đinh Tỵ (1137): Tháng Giêng, tướng Phá Tô Lăng nước Chân Lạp đem quân vào đánh phá Nghệ An, vua sai Thái Úy Lý Công Bình đem quân đi đánh. Chân Lạp bị thua. Tháng 2  Nghệ An bị động đất, nước sông đỏ như máu. 
- Kỷ Tỵ (1149): Thuyền buôn các nước Java (Indonesia), Lộ Lạc (Thái Lan), Xiêm La vào Hải Đông (gần Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay) để xin cư trú buôn bán. Vua cho cất nhà ở hải đảo (Vân Đồn) để buôn bán hàng hóa quý và dâng tiến đặc sản địa phương.
 - Kỷ Tỵ (1209): Một biến cố rất quan trọng khởi đi từ năm này, về sau làm cho nhà Lý bị mất quyền về tay nhà Trần. Nguyên vào năm trước (Mậu Thìn, 1208), Phạm Du coi việc quân ở Nghệ An làm phản, quy tụ bọn lưu manh, du đảng chia nhau đi cướp phá, chặn đường các nơi. Vua Cao Tông nhà Lý sai quan Thượng Phẩm Phụng Ngự Phạm Bỉnh Di đem quân ở châu Đằng, châu Khoái (nay thuộc tỉnh Hải Hưng) đến đánh. Du thua trận chạy sang châu Hồng. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt đi. Du cho người đem vàng bạc đến kinh đô tâu vua rằng: Bỉnh Di tàn ác, giết người vô tội. Vua bèn ra lệnh gọi Bỉnh Di về kinh. Khi Phạm Bỉnh Di và con là Phu đến, vua sai bắt cả hai cha con đem giam. Tướng dưới quyền của Phạm Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân đến giải vây cho Bỉnh Di. Vua thấy nguy, ra lệnh giết cha con Bỉnh Di, lập Hoàng Tử Thầm lên làm vua, rồi trốn ra khỏi cung đến miền Quy Hóa Giang (sông Thao, tỉnh Vĩnh Phú). Trong khi đó, Hoàng Thái Tử (Hạo Sảm) trốn đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp (Hải Dương), nghe tiếng con gái của Trần Lý có nhan sắc bèn lấy làm vợ. Trần Lý quy tụ dân trong vùng thành một lực lượng bảo vệ Thái Tử Hạo Sảm (con trưởng vua Cao Tông) trở về kinh đô. Trần Lý về sau bị giặc giết, con thứ Trần Lý là Trần Tự Khánh tiếp tục phò Thái Tử Hạo Sảm về kinh lên làm vua là Lý Huệ Tông. Trần Tự Khánh được phong Thuận Lưu Bá. Con gái Trần Lý lấy vua Huệ Tông sinh ra Lý Chiêu Hoàng. Trần Thủ Độ, làm Thái Sư, ép vua Huệ Tông đi tu và nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Lý Chiêu Hoàng lên làm vua được ít lâu rồi nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, cháu của Trần Thủ Độ. Về sau Lý Huệ  Tông bị Trần Thủ Độ ép phải tự tử tại chùa. Con cháu nhà Lý bị đổi ra họ Nguyễn, nhà Lý chấm dứt từ đây, trước sau được 216 năm. 
- Đinh Tỵ (1257): Đời Trần Thái Tông (Trần Cảnh), tháng 8, có sứ nhà Nguyên sang... Tháng 9, vua ra lệnh cho các nơi chuẩn bị quân thủy bộ để giữ biên giới, chống giặc Nguyên, tất cả dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn (Hưng Đạo). Tháng 12, tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Thai (U-ry-ang-khadai) đem quân xâm phạm Bình Lệ Nguyên. Vua thân hành đốc chiến, xông pha tên đạn. Trước thế giặc quá mạnh, quan quân ta hơi nao núng, chỉ có Lê Phụ Trần một mình một ngựa ra vào trận giặc, sắc mặt bình thản như không. Lê Phụ Trần can ngăn vua nên tạm lánh ra phía sau, bấy giờ vua mới chịu lui quân về đóng ở sông Lô. Quân giặc bắn tên như mưa. Lê Phụ Trần lấy ván thuyền đỡ đạn cho vua. Thế giặc rất mạnh, vua lại lui về giữ sông Thiên Mặc. Lê Phụ Trần được gần bên vua để bàn việc cơ mật... Ngày 24 tháng 12 Đinh Tỵ, vua và thái tử lên lâu thuyền (thuyền hai tầng) tiến quân đến Đông Bộ Đầu, phá được giặc. Quân Nguyên phải rút chạy trở về..., đến trại Quy Hóa, chủ trại tập hợp dân thiểu số đánh tập kích, quân Nguyên thua to. 
- Kỷ Tỵ (1269): Dưới đời Trần Thánh Tông (tên là Trần Hoảng, con trưởng Trần Cảnh), nhà Nguyên cho sứ sang đặt vấn đề biên giới với nước ta. Vua cho Lê Đà, Đinh Củng Nguyên sang Trung Quốc thương lượng. 
- Tân Tỵ (1281): Dưới đời Trần Nhân Tông (tên húy là Khâm, con trưởng Trần Thánh Tông), vua sai chú họ là Trần Di Ái cùng phái đoàn Lê Mục, Lê Tuân qua Trung Quốc. Nhà Nguyên phong Trần Di Ái làm Lão Hầu, Lê Mục làm Hàn Lâm Học Sĩ, Lê Tuân làm Thượng Thư, sai Sài Xuân đem 1.000 quân hộ tống về nước. Thái độ Sài Xuân ngạo mạn, khiêu khích, vua cử người nào đến y cũng không tiếp. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nghe thế liền đến gặp Sài Xuân. Thấy Vương đã gọt tóc, mặc áo vải, Sài Xuân tưởng là nhà sư phương Bắc nên  đứng dậy chào. Người hầu của y đứng sau cầm cái tên nhọn chọc vào đầu Trần Hưng Đạo đến chảy máu mà ông vẫn thản nhiên, sắc mặt không hề thay đổi khiến cho sứ nhà Nguyên phải kiêng nể... 
 - Quý Tỵ (1293): Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái Tử Thuyên (Trần Anh Tông). Anh Tông tôn Nhân Tông lên làm Thái Thượng Hoàng. Nhà Nguyên sai Binh Bộ Thượng Thư là Lương Tằng gởi thư dụ vua Trần Nhân Tông qua chầu vua nhà Nguyên. Vua cáo bệnh từ chối và sai Đào Tử Kỳ mang lễ vật qua nhà Nguyên. Nhà Nguyên giữ Đào Tử Kỳ lại và chuẩn bị quân lương để sang đánh nước ta nhưng tháng Giêng năm sau, vua Thế Tổ nhà Nguyên mất, con là Thành Tông lên ngôi, ra lệnh bãi binh và tha cho Đào Tử Kỳ về nước. 
- Ất Tỵ (1305): Vua Chiêm Thành sai sứ qua nước ta dâng lễ vật cầu hôn công chúa nhà Trần. - Kỷ Tỵ (1329): Trần Minh Tông nhường ngôi cho con là Thái Tử Vượng (Trần Hiến Tông). Hiến Tông tôn Trần Minh Tông lên làm Thái Thượng Hoàng. 
- Quý Tỵ (1353): Trần Dụ Tông (tên là Hạo, con Minh Tông) tháng 6, cử binh đánh Chiêm Thành, gặp trở ngại, phải quay về.
 - Kỷ Tỵ (1389): Đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly chuyên quyền, quân Chiêm Thành vào đánh cướp Thanh Hóa. Hồ Quý Ly đem quân tinh nhuệ truy kích giặc nhưng bị mắc mưu của giặc mà thua trận, phải một mình trốn về...
 - Tân Tỵ (1401): Nhà Trần đã bị Hồ Quý Ly cướp ngôi từ năm Canh Thìn (1400), sau đó Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi bắt chước nhà Trần tự xưng là Thái Thượng Hoàng. Đầu năm Tân Tỵ (1400), tháng 2, Hồ Hán Thương đổi lịch mới, bỏ lịch nhà Trần, dùng niên hiệu nhà Hồ, ra lệnh kiểm tra dân số, từ 15 tuổi đến 60 tuổi phải đi lính, mục đích gia tăng quân số; bắt kê khai lại sổ ruộng đất trong nước, tìm cách thu lại số ruộng nhà nước đã cấp cho con cháu nhà Trần và định lại các loại thuế nhất là thuế ruộng đất... 
 - Quý Tỵ (1413): Nhà Minh mượn cớ giúp con cháu nhà Trần diệt nhà Hồ để kéo quân vào xâm lăng nước ta. Năm Tân Sửu (1409), Trần Quý Khoách là con cháu nhà Trần nổi lên kháng chiến chống Minh, xưng đế hiệu là Trần Trùng Quang. Tháng Giêng, vua Trần Trùng Quang dẫn quân cùng với Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy cướp lương thực của quân Minh đóng ở các cửa biển Vân Đồn, Hải Đông. Quân ta bị thua nhiều trận. Tháng 3, vua trở về Nghệ An, cho Nguyễn Biểu đi gặp tướng Minh là Trương Phụ để cầu hòa. Nguyễn Biểu mắng Trương Phụ, không chịu hợp tác với quân Minh nên bị Trương Phụ giết. Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung bị Trương Phụ bắt sống đem giết đi. Vua Trùng Quang trốn qua Lào về sau cũng bị bắt và bị giết. Nhà Trần bắt đầu từ năm Bính Tuất (1226) đến năm Kỷ Mão (1399) bị Hồ Quý Ly cướp ngôi, được 12 đời tổng cộng 174 năm. Hậu Trần thêm 2 đời nữa được 7 năm đến đây là hết. 
- Ất Tỵ (1425): Lê Lợi (Lê Thái Tổ) khởi nghĩa chống quân Minh tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418), đến tháng Giêng năm Ất Tỵ (1425) vua kéo quân về Nghệ An, dân chúng tranh nhau đem trâu, rượu đến khao quân, tỏ lòng hân hoan. Người thiểu số châu Ngọc Ma là Cầm Quý cũng đem 8.000 quân và 10 con voi đến giúp. Vua ra nghiêm lệnh không được cướp phá của dân. Bây giờ lính đã ba ngày chịu đói mà không dám làm điều gì trái lệnh. Dân chúng thấy vậy thì hết lòng ủng hộ vua và đem của cải ra nuôi lính. Vua đến đâu đều được mọi người theo, quân giặc không dám ra khỏi đồn, chẳng mấy chốc toàn lãnh thổ Nghệ An đều thuộc về ta. Tháng Tư năm đó, tướng giặc là Lý An đem quân từ thành Đông quan (Thanh Hóa) đến cứu bị quân ta đánh bại. Thừa thắng, vua cho các tướng đem quân vào chiếm Tân Bình, Thuận Hóa. Các tướng suy tôn Lê Lợi là “Đại thiên hành hóa” (thay mặt trời để giáo hóa dân). 
- Kỷ Tỵ (1449): Em vua Chiêm Thành giết anh mình để cướp ngôi rồi cho sứ mang cống phẩm qua nước ta..., vua Lê Thái Tông (con Lê Lợi) từ chối không nhận. Vua nói: “Tôi  giết vua, em giết anh là tội đại ác xưa nay, trẫm không nhận đồ dâng”. Vua ra lệnh tổ chức kỳ thi, ai biết chữ đều được dự thi. Vua cũng ra lệnh cho giải ngũ những lính già và tuyển tráng đinh vào lính để bổ sung.
 - Tân Tỵ (1461): Vua Lê Thánh Tông khuyến khích dân chúng lo việc làm ruộng, tăng gia sản xuất. Người nào có ruộng đất mà không chăm lo cày cấy thì quan cai trị phải bắt trình lên để trị tội. Tháng 12 năm đó, vua ra lệnh phải bảo mật các giấy tờ, lệnh truyền, tờ trình của nhà nước gởi đi, không được bóc ra xem hoặc sao chép trái phép. 
- Quý Tỵ (1473): Vua Lê Thánh Tông ra lệnh “cấm tửu sắc”. Sắc chỉ viết: “Kể từ nay, trong nhà không làm cỗ thết khách thì không được chè chén, người vợ không phạm tội thì không được ruồng bỏ. Kẻ nào dám rượu chè bừa bãi, gia đạo không nghiêm, kẻ nào không có mối lái mà dám vụng trộm tư thông thì phải trị tội”. 
- Kỷ Tỵ (1521): Vua Lê Chiêu Tông phong cho Mạc Đăng Dung làm Nhân Quốc Công, tiết chế các doanh quân thủy bộ 13 đạo; đến tháng 7 lại phong Mạc Đăng Dung làm Thái Phó, quyền hành vào bậc nhất. Từ đó, Mặc Đăng Dung âm mưu cướp ngôi nhà Lê, lập ra nhà Mạc. 
- Quý Tỵ (1533): Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ông Nguyễn Kim đem người con của vua Lê Chiêu Tông húy là Lê Duy Ninh trốn qua Lào và tôn lên làm vua để chống lại nhà Mạc vào tháng Giêng năm Quý Tỵ (1533). Nguyễn Kim nhân danh vua, cho sứ qua báo với nhà Minh việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê và gởi hịch đi khắp nơi kêu gọi trung thần nhà Lê giúp vua đánh lại nhà Mạc. 
- Ất Tỵ (1545): Tháng 5, Nguyễn Kim bị một tướng Mạc tên Trung (nguyên là một hoạn quan) trá hàng bỏ thuốc độc vào quả dưa hấu rồi mời Nguyễn Kim ăn... Trước đây tên Trung được nhà Mạc đặt kế hoạch trá hàng để tìm cách giết vua Lê nhưng không được, y bèn đầu độc Nguyễn Kim (Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược thì người đầu độc  Nguyễn Kim là Dương Chấp Nhất. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, xuất bản năm Chính Hòa thứ 18 đời nhà Lê, 1697, bản Hán Văn, thì người đầu độc Nguyễn Kim tên là Trung). Sau khi Nguyễn Kim chết, con rể là Trịnh Kiểm lên thay nắm giữ binh quyền chống với họ Mạc. Con trưởng của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông được phong Lãng Quận Công và con thứ là Nguyễn Hoàng được phong Hạ Khê Hầu, được Trịnh Kiểm cho chỉ huy quân đội đi đánh nhà Mạc.
 - Đinh Tỵ (1557): Vua Mạc sai chú là Mạc Kính Điển đem quân đánh vua Lê ở Thanh Hóa. Trịnh Kiểm hết lòng chống giữ, tướng nhà Lê là Vũ Lăng Hầu nhảy vào thuyền của Mạc Kính Điển chém người cầm dù đứt làm đôi, Mạc Kính Điển nhảy xuống sông chạy trốn, quân Mạc đại bại.
 - Kỷ Tỵ (1569): Chúa Nguyễn Hoàng từ Thuận Hóa ra yết kiến vua Lê tại hành cung Khoa Trường để trình bày tình hình chính trị, quân sự trong khu vực trách nhiệm của ông ở phương Nam.
 - Tân Tỵ (1581): Tướng Mạc là Mạc Đôn Nhượng đem quân vào đánh Trịnh Tùng ở Thanh Hóa, thua to phải chạy về.
 - Quý Tỵ (1593): Trịnh Tùng phản công tiến ra Bắc, bắt được vua Mạc là Mạc Mậu Hợp, chiếm được thành Thăng Long vào năm Nhâm Thìn (1592), năm Quý Tỵ (1593) truy lùng quân Mạc trong khu vực phía Bắc sông Hồng, bắt được Mạc Kính Chỉ và rất nhiều tướng nhà Mạc. Một số con cháu nhà Mạc còn sống sót trốn lên Cao Bằng. Năm 1592, Nguyễn Hoàng từ Thuận Hóa đem quân đội, súng ống ra Thăng Long hợp lực với Trịnh Tùng đi đánh dẹp nhà Mạc trong 8 năm. Trịnh Tùng cố ý giữ ông lại miền Bắc không cho trở về Thuận Hóa. Ông lấy cớ đi đánh giặc tại vùng Nam Định để tìm cách đưa toàn bộ lực lượng và gia đình xuống thuyền xuôi ra biển trốn về phương Nam (năm Canh Tý, 1600)... 
 - Đinh Tỵ (1617): Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) cho đặt một cơ quan mới gọi là Nhà Đồ (Đồ Gia): tức là kho chứa cất đồ đạc... Nguyên tại Thuận Hóa và Quảng Nam, nhiều  nơi dân làm nghề đãi cát tìm vàng, bạc, sắt, đồng... hoặc khi có tàu ngoại quốc từ Quảng Đông, Nhật Bản chở đồ đồng, đồ thau, đồ kim khí... đến bán thì thu mua và chứa vào kho này. Dân đãi được vàng, bạc v.v... đem nộp thuế cho nhà nước thì quan thu vào và cũng chứa vào kho Nhà Đồ. 
- Kỷ Tỵ (1629): Miền Bắc hạn hán, nạn đói lớn xảy ra vua đổi niên hiệu là Đức Long, đại xá cho thiên hạ, tha thuế đinh, thuế điền cho hai xứ Thanh Nghệ. Trịnh Tráng muốn đem quân đánh chúa Nguyễn Phúc Nguyên nhưng Nguyễn Danh Thế can ngăn rằng: “Nay phương Nam vua tôi hòa thuận, nước giàu binh mạnh, mà ta thì hàng năm đói kém, quân nhu không đủ. Chi bằng sai sứ vào tiến phong cho tước công, ủy cho trấn hai xứ, lại khiến đem quân ra đánh Cao Bằng. Nếu vâng mệnh mà đến thì ta lấy rất dễ. Nếu không nghe lệnh thì ta đem quân đánh là có danh nghĩa”. Trịnh Tráng nghe theo liền sai Lại Bộ Thượng Thư là Nguyễn Khắc Minh đem sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên làm Tiết Chế hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam tước Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Phó Quốc Công rồi ra lệnh cho chúa Nguyễn phải ra chầu vua ở Thăng Long để đem quân đi đánh dư đảng họ Mạc ở Cao Bằng. Chúa Nguyễn triệu quần thần bàn mưu đối phó, Đào Duy Từ thưa rằng: “Đây là họ Trịnh mượn sắc mệnh vua Lê để lừa ta, nếu ta nhận sắc mệnh mà không đến thì họ có cớ nói được, nếu ta không nhận sắc mệnh thì họ tất động binh. Việc hiềm khích ngoài biên đã gây thì không phải là phúc cho sinh dân. Huống chi thành quách ta chưa bền vững, quân sĩ chưa luyện tập, địch đến thì lấy gì mà chống? Chi bằng hãy tạm nhận cho họ không ngờ để ta chuyên việc phòng thủ, rồi sau dùng kế trả lại sắc, bấy giờ họ không làm gì được ta nữa”. Chúa khen phải rồi hậu đãi sứ Trịnh và bảo về. Từ đó, chúa Nguyễn dùng Đào Duy Từ xây lũy Thầy và lũy Trường Dục ở phía Nam sông Linh Giang (Quảng Bình) để chống giữ quân Trịnh.
 - Quý Tỵ (1653): Vua Chiêm Thành là Bà Thấm đem  quân đánh phá vùng đất Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền vương) sai Cai Cơ Hùng Lộc đi dánh dẹp. Bà Thấm thua phải dâng thư xin hàng, lấy sông Phan Rang làm ranh giới: phía Nam thuộc Chiêm Thành, phía Bắc thuộc Đại Việt. Từ Phan Rang trở ra lập thành phủ Thái Ninh, sau đổi là Diên Khánh (tức tỉnh Khánh Hòa và một phần Phan Rang bây giờ) đặt Hùng Lộc làm Thái thú. Nhà Lê ở ngoài Bắc đổi niên hiệu là Thịnh Đức. 
- Kỷ Tỵ (1689): Chúa Nguyễn Phúc Trăn sai Mai Vạn Long làm thống binh đem quân đi đánh Nạc Thu (vua nước Chân Lạp). Vua Chân Lạp cho người mang vàng bạc đến đút lót, vì thế Vạn Long cứ đóng quân mà không chịu tiến đánh nên bị cách chức. Chúa sai Nguyễn Hữu Hào (con Nguyễn Hữu Dật, danh tướng của nhà Nguyễn) đi đánh. Vua Chân Lạp cũng cho người mang vàng bạc đút lót nên Hào không chịu đánh, rút quân về. Chúa sai tước bỏ quan chức truất làm thứ dân. Qua năm Đinh Sửu (1697), chúa sai Nguyễn Hữu Cảnh (Kính) đem quân vào đánh, tháng Tư năm đó, vua Chân Lạp là Nặc Thu mới xin đầu hàng.
 - Tân Tỵ (1701): Chúa Nguyễn Phúc Chu mở khoa thi để tuyển chọn nhân tài, ai đỗ Giám Sinh thì được bổ làm Tri Phủ, đỗ Sinh Đồ làm Tri Huyện, đỗ Nhiêu Học được làm Huấn Đạo, đỗ Hoa Văn và Thám Phóng được bổ vào ba ty (3 cơ quan trung ương).
 - Ất Tỵ (1725): Ngày Mậu Tý, tháng Tư, chúa Nguyễn Phúc Chu mất, thọ 51 tuổi, ở ngôi 34 năm, con trai và con gái tất cả 146 người. Chúa là một người thông minh, am hiểu cả về văn hóa lẫn quân sự, đã quy y với nhà sư người Trung Hoa là Thích Đại Sán (tức Thạch Liêm Lão Hòa Thượng) tại chùa Báo Quốc. Thạch Liêm về sau qua ở tại chùa Thiên Mụ.
 - Kỷ Tỵ (1749): Người Pháp là Le Poivre đi tàu Machault vào cửa Hội An dâng quốc thư của nước Pháp và phẩm vật để xin buôn bán. Chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) trả lời đồng ý cho vào giao thương buôn bán. 
 - Tân Tỵ (1761): Nước Vạn Tượng (Lào) đến cống gồm các phẩm vật: voi đực, sáp ong, sừng tê, khăn đỏ... để tỏ tình thân hữu. Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban lại cho họ gấm vóc, sô, lụa. 
- Quý Tỵ (1773): Trước đây Mạc Thiên Tứ là người của nhà Minh, chống lại nhà Thanh chạy qua lập nghiệp ở đất Hà Tiên, được chúa Nguyễn thu dụng. Nhân việc quân Xiêm đến uy hiếp Hà Tiên, bắt được con trai con gái của Thiên Tứ đem về... Tháng 2 năm Quý Tỵ (1773) chúa Nguyễn Phúc Thuần mật lệnh cho Mạc Thiên Tứ cho người sang Xiêm giảng hòa để dò tình hình. Vua Xiêm liền trả lại con trai con gái cho Mạc Thiên Tứ. Anh em Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ nổi lên chống lại chúa Nguyễn, chiếm thành Quy Nhơn, thả tù ra và bắt dân vào lính. Tuần Phủ Nguyễn Khắc Tuyên bỏ chạy. Chúa Nguyễn sai Nguyễn Cửu Thống (chồng công chúa Ngọc Huyên), Nguyễn Cửu Sách (chồng công chúa Ngọc Anh), Phan Tiến, Nguyễn Vệ, Tống Sùng, Đỗ Văn Hoảng đem quân vào đánh đều thất bại. Sùng và Hoảng đều chết trận. Tập Đình và Lý Tài, nguyên là bọn cướp biển bị nhà Thanh truy lùng bèn sang nước ta làm nghề buôn bán nay theo Tây Sơn. Tập Đình có Trung Nghĩa Quân, Lý Tài có Hòa Nghĩa quân gồm những người cao lớn khỏe mạnh, đánh giặc rất hăng, quân chúa Nguyễn không ai địch nổi. Tháng 11 năm đó, chúa sai Tôn Thất Hương đem quân vào đánh, giao chiến tại núi Bích Kê (thuộc tỉnh Bình Định) bị phục binh của Tập Đình và Lý Tài giết. Từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận đều bị quân Tây Sơn chiếm đóng. Trong khi đó, tại kinh đô Phú Xuân của chúa Nguyễn, Trương Phúc Loan chuyên quyền, vơ vét của công, giết hại tôn thất nhà chúa và các trung thần nên lòng người oán giận, cơ nghiệp của chúa Nguyễn lâm nguy từ đó.
 - Ất Tỵ (1785): Sau khi ba vạn quân Xiêm (Thái Lan) do Chiêu Tăng và Chiêu Sương đến giúp chúa Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đánh bại, chúa  Nguyễn phải chạy ra đảo Thổ Châu (trong vịnh Thái Lan), rồi chạy qua đảo Cổ Cốt, may gặp được binh thuyền của cai cơ Trung cùng với quân Xiêm đến đón qua Xiêm ẩn náu. Đoàn tùy tùng của chúa hơn 200 người và 5 chiến thuyền qua tạm trú trên đất Xiêm, được vua Xiêm cấp cho ruộng để cày cấy tự túc. Trong khi đó, Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh lại đi theo Giám Mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine) đã đến thành phố Pondichéry (thuộc địa Pháp tại Ấn Độ) để đợi qua Pháp cầu viện.
 - Đinh Tỵ (1797): Chúa Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long) hoàn toàn chiếm được đất Gia Định (Miền Nam) và tổ chức lại bộ máy hành chánh, kinh tế phát triển, quân đội hùng mạnh, có một số người Pháp đến giúp huấn luyện hải quân, đóng tàu chiến bọc đồng đặt súng đại bác như Tây Phương. Các nước phía Nam trong vùng đều cho người đến giao thương buôn bán, cho sứ đến dâng lễ vật, thừa nhận chúa Nguyễn như là một ông vua đang cai trị một quốc gia hùng mạnh. Bấy giờ quân chúa Nguyễn đã chiếm được vùng Nha Trang (Diên Khánh) và chúa cũng cho người liên lạc với Nguyễn Văn Báu (Bảo), con Nguyễn Nhạc đang bị vua Quang Toản nhà Tây Sơn giam lỏng tại Bồng Sơn (gọi là Tiểu triều) và khuyên Báu làm nội ứng khi quân chúa Nguyễn tới Quy Nhơn... vì Báu có mối thù cha là Nguyễn Nhạc bị Nguyễn Quang Toản (tức Cảnh Thịnh con vua Quang Trung) trước đây đã đem quân ở Thuận Hóa vào Quy Nhơn lật đổ Nguyễn Nhạc... Với đà phát triển này, chỉ hơn 4 năm sau, Nguyễn Phúc Ánh đã đánh thắng Tây Sơn, thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long và đổi tên nước là Việt Nam cho đến bây giờ.
 - Kỷ Tỵ (1809): Vua Gia Long, cử Nguyễn Hữu Thận, Tham Tri Bộ Lại làm Chánh Sứ mang lễ vật qua nhà Thanh. Nguyễn Hữu Thận là người làng Đại Hòa, Phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị nổi tiếng rất giỏi về Toán Học và Thiên Văn, rất được người Trung Quốc kính nể. Cũng năm này, vua cử Nguyễn Huỳnh Đức và Lê Chất làm lại con đường Bắc Nam  (nay là Quốc Lộ số 1) đoạn từ Quảng Nam đến Phú Yên, chăng dây theo đường thẳng, bỏ đi những đoạn quanh co để rút ngắn lại cho tiện việc giao thông.
 - Tân Tỵ (1821): Vua Minh Mạng cho lập nhà Thái Học, cho con em trong dòng Tôn Thất vào học. Công việc đào sông An Cựu (Huế) hoàn thành, vua đặt tên là sông Lợi Nông. Vua đích thân đến hai xã An Vân (Thừa Thiên) và Cổ Vưu (Quảng Trị) để xem ruộng lúa của dân trồng xấu tốt ra sao. Vua ra lệnh cho Quốc Sử Quán biên soạn bộ sách Liệt Thánh Thực Lục, cử Nguyễn Văn Nhân làm Tổng Tài, Trịnh Hoài Đức và Phạm Văn Hưng cùng làm công tác biên soạn (Thực Lục và Liệt Truyện là hai bộ chính sử của Triều Nguyễn. Đại Nam Thực Lục Tiền Biên ghi chép công nghiệp của các chúa Nguyễn, và Đại Nam Thực Lục Chánh Biên ghi chép công việc của các vua Nguyễn và Liệt Truyện ghi chép công nghiệp của các công thần dưới thời các chúa Nguyễn. Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên, ghi chép công trạng các công thần... dưới thời các chúa Nguyễn và Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên, ghi chép công nghiệp của các công thần... dưới thời các vua Nguyễn). Sứ nhà Thanh đến Hà Nội, vua Minh Mạng đích thân ra Bắc để tiếp đón.
 - Ất Tỵ (1845): Dưới đời vua Thiệu Trị, vua Chân Lạp (Campuchia) là Nặc Ông Đôn chạy qua Xiêm (Thái Lan) dẫn quân về quấy phá, đánh lấy lại thành Nam Vang. Vua sai Võ Văn Giải đem quân vào Gia Định cùng Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị đánh lấy lại thành Nam Vang, người Chân Lạp ra hàng đến 23.000. Bắt được Giám Mục Người Pháp là Lefèbvre hoạt động truyền giáo tại miền Trung, vua ra lệnh xử tử. Thiếu Tướng Pháp là Cécile đem tàu chiến đến can thiệp, xin lãnh Giám Mục ra khỏi tù. 
- Kỷ Tỵ (1869): Dư đảng của Hồng Tú Toàn bên Trung Quốc là Ngô Côn chạy sang nước ta, đem quân đi cướp phá các nơi và chiếm thành Cao Bằng vào năm 1868 (Mậu Thìn). Vua Tự Đức sai Phạm Chi Hương đi đánh. Ông đã viết thư xin nhà Thanh giúp. Quân nhà Thanh do Phó Tướng Tạ Kế Quý hợp  với quân Việt Nam do Ông Ích Khiêm chỉ huy, mãi đến tháng 5 năm Kỷ Tỵ (1869) mới chiếm lại được thành Cao Bằng. Qua năm sau, 1870 (Canh Ngọ), Ngô Côn bị Ông Ích Khiêm bắn chết tại Bắc Ninh. Bọn đàn em Ngô Côn là Hoàng Sùng Anh (Cờ Vàng), Lưu Vĩnh Phúc (Cờ Đen) và Bành Văn Nhị (Cờ Trắng) vẫn còn đi quấy phá khắp nơi. Về sau, bọn chúng đã về hợp tác với quân triều đình để đánh Pháp. 
- Tân Tỵ (1881): Vua Tự Đức sai Phạm Bính đem 12 học sinh sang Hồng Kông cho đi học ở trường của người Anh, rồi cho người bí mật liên lạc với nước Xiêm (Thái Lan) và Trung Hoa mà không cho nước Pháp biết. Chính phủ Pháp phản đối triều đình Huế không tôn trọng Hòa Ước Giáp Tuất (1874) đã ký kết với Pháp.
 - Quý Tỵ (1893): Phan Đình Phùng lập chiến khu chống Pháp ở Ngàn Trươi, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Cao Thắng giúp chế được súng ống. Hoạt động trong vòng mười năm thì tan rã.
 - Ất Tỵ (1905): Nga-Nhật chiến tranh, Nhật thắng Nga, các nhà cách mạng Việt Nam như Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Cường Để trốn qua Trung Hoa rồi qua Nhật vận động Nhật giúp đỡ Việt Nam đánh Pháp. Một số thanh niên Việt Nam được bí mật đưa qua Nhật để du học gọi là “Phong Trào Đông Du”. Về sau Nhật bắt tay với Pháp trục xuất người Việt Nam nên các cụ Phan Bội Châu, Cường Để và anh em thanh niên Việt Nam phải lánh qua Trung Quốc... 
 - Đinh Tỵ (1917): Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra tại Âu Châu, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã tuyển mộ một số lính Việt Nam đưa qua Pháp làm lính thợ (ONS: Ouvriers non spécialisés), nhân cơ hội đó vào năm 1916 (Bính Thìn) các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân đã vận động số lính này tham gia cuộc khởi nghĩa chống Pháp và đưa vua Duy Tân trốn ra khỏi kinh thành Huế để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Việc bất thành, vua bị đày, các nhà cách mạng Thái Phiên, Trần Cao Vân v.v... bị xử tử, hàng ngàn người bị tù tội... Do ảnh hưởng của biến cố 1916 mà năm 1917, nhiều thành phần yêu nước chống Pháp và gia đình gặp cảnh đau khổ. Vua Khải Định mới lên thay thế vua Duy Tân, chính sách mềm dẻo, cầu an, hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của Pháp.
 - Kỷ Tỵ (1929): Ở miền Bắc, Việt Nam Quốc Dân Đảng hoạt động mạnh chuẩn bị khởi nghĩa vào năm Canh Ngọ (1930). Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái Học thành lập năm 1927 tại Hà Nội, chủ trương đánh Pháp giành độc lập. Sau cuộc khởi nghĩa tại Yên Báy thất bại, Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ bị xử tử, hàng trăm đảng viên bị tù... 
 - Tân Tỵ (1941): Chiến tranh Thế Giới Lần Thứ Hai bùng nổ, quân Nhật chiếm Trung Hoa và đem quân vào Đông Dương, các ông Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần và các nhà cách mạng Việt Nam lưu vong tại Trung Hoa thành lập Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội dựa vào thế lực Đồng Minh để chống Nhật. Lợi dụng lúc quân Nhật có mặt ở Đông Dương, người Pháp đang lúc yếu thế, các tổ chức yêu nước như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng (của Trương Tử Anh), Đảng Cộng Sản (của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh) hoạt động mạnh ở trong nước. Phục Quốc Quân của Trần Trung Lập theo chân quân Nhật vào Lạng Sơn..., về sau Nhật bắt tay với Pháp nên để mặc cho Pháp đem quân đội, máy bay đánh phá Phục Quốc Quân, do đó, lực lượng của Trần Trung Lập tan rã.
 - Quý Tỵ (1953): Từ 1949, Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam. Cựu hoàng Bảo Đại từ Hồng Kông về nước lập chính phủ Quốc Gia. Năm 1953 (Quý Tỵ), tình hình chiến tranh giữa Việt Minh và Pháp-Bảo Đại đến hồi gay cấn. Nhờ Trung Cộng viện trợ, Việt Minh mở các cuộc tấn công lớn ở vùng biên giới Việt-Trung, quân Pháp thua và lập căn cứ Điện Biên Phủ để quyết một trận được thua với Việt Minh (Cộng Sản) tại Đông Dương. Tại Sàigòn, Phong Trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình ra đời quy tụ các đảng phái Quốc Gia, các tôn giáo và nhân sĩ trí thức trong nước gồm 64 nhân vật tên tuổi, do ông Nguyễn Tôn  Hoàn (nhân vật Đại Việt) làm Chủ Tịch, các ông Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Ngô Đình Nhu, Trần Văn Lý, Hà Thúc Ký, Nguyễn Thành Phương, Trần Văn Ân, Nguyễn Giác Ngộ v.v… đại diện các miền Bắc, Trung, Nam... đưa ra cương lĩnh ủng hộ Quốc Trưởng Bảo Đại, chủ trương thống nhất lãnh thổ, bầu cử Quốc Hội, ban hành Hiến Pháp dân chủ... Tháng 5-1954, Việt Minh chiếm được Điện Biên Phủ. Ngày 7-7-1954, ông Ngô Đình Diệm lập chính phủ tại Sài gòn và 20-7-1954, Việt Minh và Pháp ký kết hiệp định đình chiến tại Đông Dương (họp tại Genève) chia đôi Việt Nam từ vĩ tuyến 17 ra Bắc dưới quyền Hồ Chí Minh, từ vĩ tuyến 17 vào Nam thuộc quyền Bảo Đại và Ngô Đình Diệm. Một triệu người bỏ nhà cửa, quê hương từ miền Bắc di cư vào Nam sau hiệp định này. 
- Ất Tỵ (1965): Tại Sàigòn, chính phủ Nguyễn Khánh phải rút lui và trao quyền lại cho Quân Đội do Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia tức Quốc Trưởng) và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ (Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức Thủ Tướng Chính Phủ) lãnh đạo để đối phó với tình hình chính trị và quân sự quá trầm trọng tại miền Nam. Quân Mỹ đổ bộ vào Miền Nam để giúp cứu vãn tình hình. 
- Đinh Tỵ (1977): Phần lớn sĩ quan và nhân viên hành chánh thuộc VNCH bị Cộng Sản VN đày ra miền Bắc lao động khổ sai trong các trại tù cải tạo, đồng thời chúng thi hành chính sách diệt tư sản mại bản, tịch thu nhà cửa, tài sản, bắt dân đi vùng kinh tế mới, kiểm soát lúa gạo, thực phẩm, hàng hóa khiến cho dân chúng phải khốn khổ trăm bề. Những người tìm đường vượt biên bị bắt, bị cướp, bị hãm hiếp hoặc bị chết trên sông trên biển... Hàng trăm ngàn người thoát được đến các trại tỵ nạn vùng Đông Nam Á... Các cuộc tranh đấu chống lại chế độ Cộng Sản của các tôn giáo, các lực lượng chính trị đối lập nhất là phong trào “phục quốc” nổi lên khắp nơi, nhiều người bị bắt, bị xử tử hoặc bị đối xử dã man trong các nhà tù...
 - Kỷ Tỵ (1991): Từ năm 1987, Mỹ và Cộng Sản Việt Nam  đã thỏa thuận chương trình định cư cho tù nhân chính trị sau khi được trả tự do, được định cư tại Hoa Kỳ... Chương trình HO bắt đầu thực hiện từ năm 1989-1990, một số người đầu tiên (HO-1... ) đã lên đường qua trại chuyển tiếp ở Thái Lan để qua Mỹ. Năm 1991 (Kỷ Tỵ), nhiều cựu tù nhân chính được ra đi theo chương trình HO. Các tổ chức chính trị đối lập bị bắt, bị đưa ra xét xử trong đó có Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt, Luật Sư Đoàn Thanh Liêm v.v…
 - Năm Tân Tỵ (2001): Bước vào thế kỷ 21, niềm lo sợ có tận thế vào năm 2000 đã qua nhưng tình hình thế giới và trong nước Việt Nam đang còn hứa hẹn nhiều biến cố. Từ thiên tai, bão lụt, đến các phong trào tranh đấu đòi tự do tôn giáo, đòi dân chủ và nhân quyền mỗi ngày một lớn mạnh đang là mối đe dọa cho chế độ Cộng Sản tại Việt Nam. Cộng Sản có tiếng là khôn ngoan và hiểm độc như con rắn, chắc sẽ có nhiều mưu mô quỷ quyệt... Chờ xem chúng sẽ giở trò gì trong năm Tân Tỵ này?
 - Năm Quý Tỵ (2013): Từ năm 2010, dư luận Việt Nam xôn xao sẽ có thay đổi Hiến Pháp, sẽ thực hiện các quyền tự do dân chủ cho dân. Các tôn giáo, nhân sĩ trí thức trong nước hăng hái góp ý thay đổi Hiến Pháp, với đầy tràn hy vọng… nhưng đây chỉ là trò lừa dối cố hữu của Đảng Cộng Sản Độc Tài, “Vũ Như Cẩn” là câu nói mỉa mai của người dân, nghĩa là “Vẫn Như Cũ”… 
- Năm Ất Tỵ (2025): Riêng những người sinh năm Ất Tỵ (1965), năm này là năm Tuổi, chẵn một giáp 60 năm. Qua năm Ất Tỵ (2025) là 61 tuổi ta. Tuổi Tỵ mà mệnh có sao Phục Binh là người khôn ngoan và nhiều thủ đoạn, nhất là trong lãnh vực chính trị. Thánh Kinh nói: “Hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như chim bồ câu”. Người Việt Nam chúng ta có câu: “Khẩu Phật, tâm xà” (Miệng thì nói đạo đức như Phật mà lòng thì độc ác như con rắn), lại có câu: “Cõng rắn về cắn gà nhà”... Nói chung thì loài người rất ngại con rắn, rất ghét con rắn. Trong Kinh Thánh (Cựu Ước) Rắn là loài bị chúc dữ, rắn  bị đánh đuổi khắp nơi... Ca dao có câu: “Trứng Rồng thì nở ra Rồng; Liu điu vẫn cứ một giòng liu điu” (liu điu là tên một loài rắn nhỏ bé). Ông Lê Quý Đôn, một nhà thông thái đời Lê có bài thơ về Rắn như sau. Đặc biệt trong bài thơ này, ông lấy tên các loài rắn để đặt thơ... 
 Chẳng phải “liu điu” cũng giống nhà, 
“Rắn” đầu chẳng học, quyết không tha.
 “Thẹn đèn”, “hổ lửa” đau lòng mẹ, 
Nay thét, “mai gầm” rát cổ cha. 
Tính vốn đã quen lời lếu láo,
 “Lằn” môi chém mãi vệt dăm ba. 
Từ nay Châu Lỗ xin siêng học,
 Kẻo phải mang danh tiếng thế gia. 
Những chữ trong dấu ngoặc kép là tên riêng của các loài rắn. Hiện nay ở Việt Nam đang có phong trào nuôi trăn, nuôi rắn để bán ra thị trường, xuất khẩu qua Trung Quốc. Phong trào ăn thịt rắn, lấy mật rắn hay xác rắn ngâm rượu cũng rất thịnh hành. Rắn vẫn đem lại ích lợi cho loài người, thịt ăn ngon, mật rắn chữa bệnh. Chúng ta nên chọn phần tốt, hữu ích và tránh phần xấu, bất lợi. Cầu mong may mắn đến với mọi người trong năm Tỵ và “năm tuổi” đối với CSVN vì mọi người đều ví Cộng Sản độc hại như rắn!            Tình hình Việt Nam (2024) trước khi TBT Nguyễn Phú Trọng chết, Tô Lâm đang là Chủ Tịch Nước kiêm luôn Tổng Bí Thư, tiếp tục đốt lò, loại Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ (trong tứ trụ…). Lợi dung trong lúc Tô Lâm xuất ngoại (qua Mỹ), Tập Cận Bình gọi Lương Cường (Đại Tướng) qua chầu thiên triều… Khi Tô Lâm trở về nước thì Lương Cường đã được Quốc Hội đưa lên làm Chủ Tịch Nước, chia bớt quyền của Tô Lâm… Tô Lâm tiếp tục “đốt lò” và đang xích lại gần với Mỹ… làm cho Tập Cận Bình hoảng hốt… 
    Tình hình chính trị Hoa Kỳ: Năm Giáp Thìn (2024) là năm bầu cử Tổng Thống tại Hoa Kỳ. Ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa, ông Donald Trump, Tổng Thống thứ 45 tái tranh cử và  đắc cử vẻ vang, chiếm đa số 312 phiếu cử tri đoàn, chiếm đa số phiếu phổ thông, hơn ứng cử viên Đảng Dân Chủ, đương kim Phó Tổng Thống Kamala Harris trên 5 triệu phiếu phổ thông và 86 phiếu cử tri đoàn (Harris 226 phiếu cử tri đoàn). Đảng Cộng Hòa chiếm đa số tại Lưỡng Viện Quốc Hội. Tổng Thống 47 của Hoa Kỳ là Donald Trump tuyên thệ nhậm chức (Lễ Đăng Quang) vào ngày 20/1/2025, trước Tết Ất Tỵ, mở ra một kỷ nguyên mới cho Hoa Kỳ và Thế Giới… 
   Hy vọng sẽ mang lại Hòa Bình, Thịnh Vương cho Hoa Kỳ và Thế Giới, ngăn chặn được chiến tranh thế giới lần thứ III. Đảng Dân Chủ đại bại, hứa hẹn sẽ tái đấu vào bầu cử Quốc Hội giữa nhiệm kỳ (2026) và bầu cử Tổng Thống năm 2028 sắp tới. Tình hình thế giới hiện đang căng thẳng… Hy vọng sau ngày 20/1/2025, Tổng Thống Donald Trump chính thức lãnh đạo Hoa Kỳ, sẽ ổn định được tình hình… 
Nguyễn Lý Tưởng sưu tầm








Sưu tầm: Nguyễn Lý Tưởng

Rắn, tượng trưng cho năm Tỵ, đứng hàng thứ 6 trong 12 con giáp. Rắn là con vật bị nguyền rủa trong Kinh Thánh (cựu ước) của người Do Thái. Quỷ Satan mượn hình Con Rắn để cám dỗ bà Eva là tổ tông của loài người (đặc biệt đối với người Do Thái). Người học võ hay nói đến “xà quyền” là môn võ rút từ kinh nghiệm của con rắn săn mồi hay hai con rắn tranh hùng với nhau…Ngày xưa, khi quân Tàu (quân Mông Cổ tức nhà Nguyên) và quân nhà Minh, nhà Thanh qua đánh nước ta thường đi ngựa, dùng đao, thương…Người Việt chúng ta hay sử dụng “xà quyền” nghĩa là “nằm lăn mình trên đất, dùng đao và móc câu tấn công chân ngựa của quân địch…Từ khi quân Pháp chiếm nước ta (1962, 1968…) chúng dùng súng, từ xa bắn tới…Người Việt sử dụng cung , tên, đao, kiếm…không thắng được Tây…Từ thời vua Tự Đức trở về sau, võ thuật Việt Nam thất truyền dần dần, “xà quyền “ cũng thất truyền luôn. Các “lò” dạy võ Thiếu Lâm không nghe nói đến “xà quyền” nữa… 
Sau đây là những Năm Tỵ có nhiều biến cố trong lịch sử: 
- Quý Tỵ (208 trước Công Nguyên): Sau khi Tần Thủy Hoàng, vua Trung Quốc mất, con là Hồ Hợi tức Tần Nhị Thế nối ngôi, thiên hạ nổi lên chống lại nhà Tần nên Nhâm Ngao, tướng nhà Tần cùng Triệu Đà đang thi hành chính sách “thực dân” ở miền Nam Ngũ Lĩnh, muốn tự lập để tạo nên một giang sơn riêng không thuộc nhà Tần nhưng mộng chưa thực hiện được thì Nhâm Ngao đau nặng... Trước khi chết, ông đã trao  quyền chỉ huy quân đội lại cho Triệu Đà và khuyên Triệu Đà đóng cửa biên giới, phòng bị nghiêm mật, không cho người của phương Bắc (nhà Tần) đến liên lạc. Triệu Đà đã thực hiện đúng như kế hoạch của Nhâm Ngao đề ra và tự tuyên bố độc lập, đặt tên nước là Nam Việt.
 - Ất Tỵ (196 trước Công Nguyên): Cao Tổ nhà Hán là Lưu Bang diệt được nhà Tần, thống nhất Trung Quốc được 11 năm rồi, nghe tin Triệu Đà xưng vương, lập ra nước Nam Việt, liền cho sứ là Lục Giả qua phong cho Triệu Đà làm Nam Việt Vương để chiêu dụ Triệu Đà về thần phục nhà Hán. Lục Giả nói với Triệu Đà: “Vương vốn là người Hán, họ hàng, mồ mả đều ở nước Hán, nay lại làm trái tục nước mình, muốn chiếm đất này làm kẻ địch chống chọi với nhà Hán, há chẳng lầm hay sao?...”. Triệu Đà nói: “Tôi ở đất này lâu ngày quên mất cả lễ nghĩa”. Rồi ông lại hỏi Lục Giả: “Tôi với Tiêu Hà, Tào Tham ai hơn?”. Lục Giả nói: “Vương hơn chứ”. Triệu Đà lại hỏi: “Tôi với vua Hán ai hơn?”. Lục Giả nói: “Hán đế nối nghiệp của Ngũ Đế Tam Vương, thống trị người Hán kể hàng ức vạn người, đất rộng hàng muôn đặm, vật thịnh dân giàu, quyền chính chỉ do một nhà, từ khi trời đất mở mang đến nay chưa từng có. Nay dân của vương, chẳng qua mười vạn, ở xen khoảng núi biển, chỉ ví như một quận của nhà Hán, ví với Hán đế sao được?”. Triệu Đà cười: “Tôi lấy làm giận không được nổi dậy ở bên ấy, biết đâu chẳng bằng nhà Hán?”. 
- Đinh Tỵ (184 trước Công Nguyên): Hán Cao Tổ Lưu bang mất, nội bộ nhà Hán rối loạn, bà Cao Hậu lên nắm quyền, năm đó là năm 24 nhà Hán, Trung Quốc ra lệnh cấm không được bán các đồ kim khí như sắt, đồng... ở biên giới. Từ đó giữa N
am Việt và nhà Hán có sự xích mích. Sau khi Triệu Đà mất, nhà Hán âm mưu chiếm Nam Việt của nhà Triệu.
 - Đinh Tỵ (124 trước Công Nguyên): Lữ Gia là tướng của Nam Việt được nhà Triệu đưa lên làm Thái Phó, giúp vua điều khiển việc nước. 
- Kỷ Tỵ (112 trước Công Nguyên): Vua nhà Hán là Nguyên Đỉnh năm thứ 5, cho sứ giả qua mời cháu của Triệu Đà là Triệu Ai Vương và mẹ là Cù Thị Thái Hậu qua Trung Quốc chầu vua Hán. Cù Thị vốn là người Hán lại tư thông với sứ của nhà Hán và muốn dâng nước Nam Việt cho vua Hán. Lữ Gia can ngăn không được bèn cùng các tướng sĩ làm đảo chánh, giết Cù Thị và Ai Vương và cả sứ nhà Hán nữa rồi lập con của Triệu Minh Vương là Thuật Dương Hầu Kiến Đức lên làm vua, quyết bảo vệ giang sơn, chống lại nhà Hán. Năm sau, Canh Ngọ (111 trước Công Nguyên), vua Hán sai tướng là Dương Bộc và Lộ Bác Đức đem quân qua đánh chiếm Nam Việt, bắt được Lữ Gia. Các tướng của ta ở địa phương cũng không địch nổi với quân Tàu nên phải xin hàng. Từ đó nhà Hán chia nước ta thành quận huyện trực thuộc Trung Quốc và đặt quan Thứ Sử để cai trị. 
- Tân Tỵ (381 sau Công Nguyên, đời nhà Tấn bên Trung Quốc): Nguyên vào năm trước là Canh Thìn, 380, Thái Thú quận Cửu Chân là Lý Tốn chiếm đất châu quận chống lại vua nhà Tấn (Trung Quốc) nên vua Tấn sai Thái Thú Giao Châu là Đỗ Viện đem quân đi đánh Lý Tốn. Đỗ Viện nguyên là người huyện Châu Diên cùng quê với Thi chồng Trưng Trắc, được nhà Tấn cho làm Thái Thú Giao Châu. Lý Tốn thua và bị Đỗ Viện chém đầu. 
- Ất Tỵ (945): Dương Tam Kha là em vợ của Ngô Quyền, cướp ngôi của cháu là Ngô Xương Ngập (con trưởng của Ngô Quyền). Ngô Xương Ngập chạy về nương tựa nhà Phạm Lệnh Công ở Nam Sách Giang (nay thuộc tỉnh Hải Hưng). Dương Tam Kha chọn con thứ hai của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi của mình, các con của Ngô Quyền là Ngô Nam Hưng, Ngô Càn Hưng còn nhỏ, chưa biết gì đều theo Dương Tam Kha (theo bên mẹ). Dương Tam Kha nhiều lần đem quân đánh Phạm Lệnh Công để bắt Ngô Xương Ngập nhưng không được. Anh hùng trong nước nổi lên chống lại Dương Tam Kha và từ đó sinh ra loạn “Thập Nhị Sứ Quân”. 
 - Tân Tỵ (981): Năm thứ hai triều đại nhà Tiền Lê, vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) nguyên là Thập Đạo Tướng Quân nhà Đinh (Đinh Bộ Lĩnh). Sau khi Đinh Tiên Hoàng mất, nhà Tống (Trung Quốc) đem quân đánh nước Đại Việt của ta. Thái hậu nhà Đinh là Dương Vân Nga cùng các quan tôn Lê Hoàn lên làm vua để chống xâm lăng. Năm Tân Tỵ, 981, vua đem quân chống với các tướng của nhà Tống là Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng. Vua sai đóng cọc ngăn sông Bạch Đằng để chống giặc và sai quân sĩ trá hàng để dụ Hầu Nhân Bảo. Hầu Nhân Bảo thua trận, bị bắt và bị chém, các tướng của nhà Tống bèn lui quân. Vua Lê đem quân đánh đuổi. Quân của Khâm Tộ thua to, chết quá nửa, thây chết đầy đồng. Tướng giặc là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân bị bắt đem về Hoa Lư. Từ đó trong nước được yên
- Quý Tỵ (995): Nhà Tống sai Vương Thế Tắc và Lý Cư Giản sang phong cho vua Lê Đại Hành làm Giao Chỉ Quận Vương (Đinh Bộ Lĩnh, là người đầu tiên được Trung Quốc phong Vương sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị nhà Hán đánh chiếm...).
 - Ất Tỵ (1005): Tháng ba, mùa Xuân năm Ất Tỵ (1005) vua Lê Đại Hành mất. Ngài tên húy là Lê Hoàn, người Ái Châu, cha của ngài là Lê Mịch, mẹ là người họ Đặng. Lê Hoàn làm quan Thập Đạo Tướng Quân nhà Đinh, được quân sĩ tôn lên ngôi vua để chống quân Tống xâm lăng. Làm vua được 24 năm, thọ 65 tuổi (941-1005) tính theo âm lịch, chôn tại châu Trường Yên. Vua mất năm 1005 nhưng một năm sau mới báo cáo cho vua Tống biết, do đó sử sách ghi là năm 1006.
 - Tân Tỵ (1041): Đời nhà Lý, Nùng Trí Cao chiếm châu Thắng Do, đổi làm nước Đại Lịch. Vua sai tướng đi đánh, bắt sống được Nùng Trí Cao đem về kinh đô Thăng Long. Vì cha của Cao là Nùng Tồn Phúc và anh là Nùng Trí Thông đã bị giết nên vua tha tội giết và cho trở về giữ châu Quảng Nguyên như cũ lại còn cho thêm bốn động Lôi Hỏa, Bình, An, Bà và thêm châu Tư Lang nữa. Thấy vua Lý Thái Tông đối xử với Nùng  Trí Cao như vậy, sử gia Lê Văn Hưu đã chép vào Đại Việt Sử Ký lời nhận xét sau đây: “Thái Tông say đắm cái lòng nhân nhỏ nhặt của nhà Phật mà quên mất cái nghĩa lớn của người làm vua”
- Quý Tỵ (1053): Tướng Địch Thanh của nhà Tống cùng 3 tướng thuộc hạ đem quân chiếm phố Quy Nhân thuộc Ung Châu. Nùng Trí Cao đem quân chống bị Địch Thanh đánh bại. Tướng tâm phúc của Trí Cao là Hoàng Sư Mật cùng 57 thuộc hạ bị chết tại trận. Quân Tống đánh đuổi giết hơn 2.200 người. Trí Cao ban đêm bỏ thành trốn đi. Mấy tháng sau, Trí Cao sai người thân tín là Lương Châu đến xin vua nhà Lý cho quân cứu viện. Vua sai Vũ Nhị đem quân đi cứu Nùng Trí Cao. Bị Địch Thanh đánh đuổi, Trí Cao chạy vào nước Đại Lý (Vân Nam). Người nước Đại Lý chém đầu Trí Cao rồi đem nộp cho quân Tống. Mẹ Trí Cao là A Nùng cũng bị quân Tống giết. Từ đó, họ Nùng bị diệt.
 - Đinh Tỵ (1077): Đời Lý Nhân Tông (húy Càn Đức, con Lý Thánh Tông), Lý Thường Kiệt đem quân đánh hai châu Khâm và châu Liêm nước Tống, nói rằng nhà Tống thi hành phép thanh miêu (một biện pháp kinh tế do Vương An Thạch đề xướng), tàn hại dân Trung Quốc, cho nên đem quân sang hỏi tội để cứu giúp nhau. Theo lời kể của các nhà cách mạng Việt Nam đã từng trốn qua Trung Quốc thời Pháp thì hiện nay trên lãnh thổ Trung Quốc vẫn còn một vùng toàn người Việt qua đây từ thời Lý Thường Kiệt, họ vẫn giữ phong tục Việt Nam như ăn trầu...
 - Tân Tỵ (1101): Vua Lý Nhân Tông đổi niên hiệu mới là Long Phù năm thứ nhất, phong cho Thái Úy Lý Thường Kiệt kiêm chức nội thị phán thủ đô áp nha hành điện nội ngoại đô tri sự, quyền thế lớn nhất trong nước. Năm đó, vua cũng sai trùng tu chùa Diên Hựu. 
- Đinh Tỵ (1137): Tháng Giêng, tướng Phá Tô Lăng nước Chân Lạp đem quân vào đánh phá Nghệ An, vua sai Thái Úy Lý Công Bình đem quân đi đánh. Chân Lạp bị thua. Tháng 2  Nghệ An bị động đất, nước sông đỏ như máu. 
- Kỷ Tỵ (1149): Thuyền buôn các nước Java (Indonesia), Lộ Lạc (Thái Lan), Xiêm La vào Hải Đông (gần Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay) để xin cư trú buôn bán. Vua cho cất nhà ở hải đảo (Vân Đồn) để buôn bán hàng hóa quý và dâng tiến đặc sản địa phương.
 - Kỷ Tỵ (1209): Một biến cố rất quan trọng khởi đi từ năm này, về sau làm cho nhà Lý bị mất quyền về tay nhà Trần. Nguyên vào năm trước (Mậu Thìn, 1208), Phạm Du coi việc quân ở Nghệ An làm phản, quy tụ bọn lưu manh, du đảng chia nhau đi cướp phá, chặn đường các nơi. Vua Cao Tông nhà Lý sai quan Thượng Phẩm Phụng Ngự Phạm Bỉnh Di đem quân ở châu Đằng, châu Khoái (nay thuộc tỉnh Hải Hưng) đến đánh. Du thua trận chạy sang châu Hồng. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt đi. Du cho người đem vàng bạc đến kinh đô tâu vua rằng: Bỉnh Di tàn ác, giết người vô tội. Vua bèn ra lệnh gọi Bỉnh Di về kinh. Khi Phạm Bỉnh Di và con là Phu đến, vua sai bắt cả hai cha con đem giam. Tướng dưới quyền của Phạm Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân đến giải vây cho Bỉnh Di. Vua thấy nguy, ra lệnh giết cha con Bỉnh Di, lập Hoàng Tử Thầm lên làm vua, rồi trốn ra khỏi cung đến miền Quy Hóa Giang (sông Thao, tỉnh Vĩnh Phú). Trong khi đó, Hoàng Thái Tử (Hạo Sảm) trốn đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp (Hải Dương), nghe tiếng con gái của Trần Lý có nhan sắc bèn lấy làm vợ. Trần Lý quy tụ dân trong vùng thành một lực lượng bảo vệ Thái Tử Hạo Sảm (con trưởng vua Cao Tông) trở về kinh đô. Trần Lý về sau bị giặc giết, con thứ Trần Lý là Trần Tự Khánh tiếp tục phò Thái Tử Hạo Sảm về kinh lên làm vua là Lý Huệ Tông. Trần Tự Khánh được phong Thuận Lưu Bá. Con gái Trần Lý lấy vua Huệ Tông sinh ra Lý Chiêu Hoàng. Trần Thủ Độ, làm Thái Sư, ép vua Huệ Tông đi tu và nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Lý Chiêu Hoàng lên làm vua được ít lâu rồi nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, cháu của Trần Thủ Độ. Về sau Lý Huệ  Tông bị Trần Thủ Độ ép phải tự tử tại chùa. Con cháu nhà Lý bị đổi ra họ Nguyễn, nhà Lý chấm dứt từ đây, trước sau được 216 năm. 
- Đinh Tỵ (1257): Đời Trần Thái Tông (Trần Cảnh), tháng 8, có sứ nhà Nguyên sang... Tháng 9, vua ra lệnh cho các nơi chuẩn bị quân thủy bộ để giữ biên giới, chống giặc Nguyên, tất cả dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn (Hưng Đạo). Tháng 12, tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Thai (U-ry-ang-khadai) đem quân xâm phạm Bình Lệ Nguyên. Vua thân hành đốc chiến, xông pha tên đạn. Trước thế giặc quá mạnh, quan quân ta hơi nao núng, chỉ có Lê Phụ Trần một mình một ngựa ra vào trận giặc, sắc mặt bình thản như không. Lê Phụ Trần can ngăn vua nên tạm lánh ra phía sau, bấy giờ vua mới chịu lui quân về đóng ở sông Lô. Quân giặc bắn tên như mưa. Lê Phụ Trần lấy ván thuyền đỡ đạn cho vua. Thế giặc rất mạnh, vua lại lui về giữ sông Thiên Mặc. Lê Phụ Trần được gần bên vua để bàn việc cơ mật... Ngày 24 tháng 12 Đinh Tỵ, vua và thái tử lên lâu thuyền (thuyền hai tầng) tiến quân đến Đông Bộ Đầu, phá được giặc. Quân Nguyên phải rút chạy trở về..., đến trại Quy Hóa, chủ trại tập hợp dân thiểu số đánh tập kích, quân Nguyên thua to. 
- Kỷ Tỵ (1269): Dưới đời Trần Thánh Tông (tên là Trần Hoảng, con trưởng Trần Cảnh), nhà Nguyên cho sứ sang đặt vấn đề biên giới với nước ta. Vua cho Lê Đà, Đinh Củng Nguyên sang Trung Quốc thương lượng. 
- Tân Tỵ (1281): Dưới đời Trần Nhân Tông (tên húy là Khâm, con trưởng Trần Thánh Tông), vua sai chú họ là Trần Di Ái cùng phái đoàn Lê Mục, Lê Tuân qua Trung Quốc. Nhà Nguyên phong Trần Di Ái làm Lão Hầu, Lê Mục làm Hàn Lâm Học Sĩ, Lê Tuân làm Thượng Thư, sai Sài Xuân đem 1.000 quân hộ tống về nước. Thái độ Sài Xuân ngạo mạn, khiêu khích, vua cử người nào đến y cũng không tiếp. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nghe thế liền đến gặp Sài Xuân. Thấy Vương đã gọt tóc, mặc áo vải, Sài Xuân tưởng là nhà sư phương Bắc nên  đứng dậy chào. Người hầu của y đứng sau cầm cái tên nhọn chọc vào đầu Trần Hưng Đạo đến chảy máu mà ông vẫn thản nhiên, sắc mặt không hề thay đổi khiến cho sứ nhà Nguyên phải kiêng nể... 
 - Quý Tỵ (1293): Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái Tử Thuyên (Trần Anh Tông). Anh Tông tôn Nhân Tông lên làm Thái Thượng Hoàng. Nhà Nguyên sai Binh Bộ Thượng Thư là Lương Tằng gởi thư dụ vua Trần Nhân Tông qua chầu vua nhà Nguyên. Vua cáo bệnh từ chối và sai Đào Tử Kỳ mang lễ vật qua nhà Nguyên. Nhà Nguyên giữ Đào Tử Kỳ lại và chuẩn bị quân lương để sang đánh nước ta nhưng tháng Giêng năm sau, vua Thế Tổ nhà Nguyên mất, con là Thành Tông lên ngôi, ra lệnh bãi binh và tha cho Đào Tử Kỳ về nước. 
- Ất Tỵ (1305): Vua Chiêm Thành sai sứ qua nước ta dâng lễ vật cầu hôn công chúa nhà Trần. - Kỷ Tỵ (1329): Trần Minh Tông nhường ngôi cho con là Thái Tử Vượng (Trần Hiến Tông). Hiến Tông tôn Trần Minh Tông lên làm Thái Thượng Hoàng. 
- Quý Tỵ (1353): Trần Dụ Tông (tên là Hạo, con Minh Tông) tháng 6, cử binh đánh Chiêm Thành, gặp trở ngại, phải quay về.
 - Kỷ Tỵ (1389): Đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly chuyên quyền, quân Chiêm Thành vào đánh cướp Thanh Hóa. Hồ Quý Ly đem quân tinh nhuệ truy kích giặc nhưng bị mắc mưu của giặc mà thua trận, phải một mình trốn về...
 - Tân Tỵ (1401): Nhà Trần đã bị Hồ Quý Ly cướp ngôi từ năm Canh Thìn (1400), sau đó Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi bắt chước nhà Trần tự xưng là Thái Thượng Hoàng. Đầu năm Tân Tỵ (1400), tháng 2, Hồ Hán Thương đổi lịch mới, bỏ lịch nhà Trần, dùng niên hiệu nhà Hồ, ra lệnh kiểm tra dân số, từ 15 tuổi đến 60 tuổi phải đi lính, mục đích gia tăng quân số; bắt kê khai lại sổ ruộng đất trong nước, tìm cách thu lại số ruộng nhà nước đã cấp cho con cháu nhà Trần và định lại các loại thuế nhất là thuế ruộng đất... 
 - Quý Tỵ (1413): Nhà Minh mượn cớ giúp con cháu nhà Trần diệt nhà Hồ để kéo quân vào xâm lăng nước ta. Năm Tân Sửu (1409), Trần Quý Khoách là con cháu nhà Trần nổi lên kháng chiến chống Minh, xưng đế hiệu là Trần Trùng Quang. Tháng Giêng, vua Trần Trùng Quang dẫn quân cùng với Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy cướp lương thực của quân Minh đóng ở các cửa biển Vân Đồn, Hải Đông. Quân ta bị thua nhiều trận. Tháng 3, vua trở về Nghệ An, cho Nguyễn Biểu đi gặp tướng Minh là Trương Phụ để cầu hòa. Nguyễn Biểu mắng Trương Phụ, không chịu hợp tác với quân Minh nên bị Trương Phụ giết. Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung bị Trương Phụ bắt sống đem giết đi. Vua Trùng Quang trốn qua Lào về sau cũng bị bắt và bị giết. Nhà Trần bắt đầu từ năm Bính Tuất (1226) đến năm Kỷ Mão (1399) bị Hồ Quý Ly cướp ngôi, được 12 đời tổng cộng 174 năm. Hậu Trần thêm 2 đời nữa được 7 năm đến đây là hết. 
- Ất Tỵ (1425): Lê Lợi (Lê Thái Tổ) khởi nghĩa chống quân Minh tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418), đến tháng Giêng năm Ất Tỵ (1425) vua kéo quân về Nghệ An, dân chúng tranh nhau đem trâu, rượu đến khao quân, tỏ lòng hân hoan. Người thiểu số châu Ngọc Ma là Cầm Quý cũng đem 8.000 quân và 10 con voi đến giúp. Vua ra nghiêm lệnh không được cướp phá của dân. Bây giờ lính đã ba ngày chịu đói mà không dám làm điều gì trái lệnh. Dân chúng thấy vậy thì hết lòng ủng hộ vua và đem của cải ra nuôi lính. Vua đến đâu đều được mọi người theo, quân giặc không dám ra khỏi đồn, chẳng mấy chốc toàn lãnh thổ Nghệ An đều thuộc về ta. Tháng Tư năm đó, tướng giặc là Lý An đem quân từ thành Đông quan (Thanh Hóa) đến cứu bị quân ta đánh bại. Thừa thắng, vua cho các tướng đem quân vào chiếm Tân Bình, Thuận Hóa. Các tướng suy tôn Lê Lợi là “Đại thiên hành hóa” (thay mặt trời để giáo hóa dân). 
- Kỷ Tỵ (1449): Em vua Chiêm Thành giết anh mình để cướp ngôi rồi cho sứ mang cống phẩm qua nước ta..., vua Lê Thái Tông (con Lê Lợi) từ chối không nhận. Vua nói: “Tôi  giết vua, em giết anh là tội đại ác xưa nay, trẫm không nhận đồ dâng”. Vua ra lệnh tổ chức kỳ thi, ai biết chữ đều được dự thi. Vua cũng ra lệnh cho giải ngũ những lính già và tuyển tráng đinh vào lính để bổ sung.
 - Tân Tỵ (1461): Vua Lê Thánh Tông khuyến khích dân chúng lo việc làm ruộng, tăng gia sản xuất. Người nào có ruộng đất mà không chăm lo cày cấy thì quan cai trị phải bắt trình lên để trị tội. Tháng 12 năm đó, vua ra lệnh phải bảo mật các giấy tờ, lệnh truyền, tờ trình của nhà nước gởi đi, không được bóc ra xem hoặc sao chép trái phép. 
- Quý Tỵ (1473): Vua Lê Thánh Tông ra lệnh “cấm tửu sắc”. Sắc chỉ viết: “Kể từ nay, trong nhà không làm cỗ thết khách thì không được chè chén, người vợ không phạm tội thì không được ruồng bỏ. Kẻ nào dám rượu chè bừa bãi, gia đạo không nghiêm, kẻ nào không có mối lái mà dám vụng trộm tư thông thì phải trị tội”. 
- Kỷ Tỵ (1521): Vua Lê Chiêu Tông phong cho Mạc Đăng Dung làm Nhân Quốc Công, tiết chế các doanh quân thủy bộ 13 đạo; đến tháng 7 lại phong Mạc Đăng Dung làm Thái Phó, quyền hành vào bậc nhất. Từ đó, Mặc Đăng Dung âm mưu cướp ngôi nhà Lê, lập ra nhà Mạc. 
- Quý Tỵ (1533): Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ông Nguyễn Kim đem người con của vua Lê Chiêu Tông húy là Lê Duy Ninh trốn qua Lào và tôn lên làm vua để chống lại nhà Mạc vào tháng Giêng năm Quý Tỵ (1533). Nguyễn Kim nhân danh vua, cho sứ qua báo với nhà Minh việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê và gởi hịch đi khắp nơi kêu gọi trung thần nhà Lê giúp vua đánh lại nhà Mạc. 
- Ất Tỵ (1545): Tháng 5, Nguyễn Kim bị một tướng Mạc tên Trung (nguyên là một hoạn quan) trá hàng bỏ thuốc độc vào quả dưa hấu rồi mời Nguyễn Kim ăn... Trước đây tên Trung được nhà Mạc đặt kế hoạch trá hàng để tìm cách giết vua Lê nhưng không được, y bèn đầu độc Nguyễn Kim (Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược thì người đầu độc  Nguyễn Kim là Dương Chấp Nhất. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, xuất bản năm Chính Hòa thứ 18 đời nhà Lê, 1697, bản Hán Văn, thì người đầu độc Nguyễn Kim tên là Trung). Sau khi Nguyễn Kim chết, con rể là Trịnh Kiểm lên thay nắm giữ binh quyền chống với họ Mạc. Con trưởng của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông được phong Lãng Quận Công và con thứ là Nguyễn Hoàng được phong Hạ Khê Hầu, được Trịnh Kiểm cho chỉ huy quân đội đi đánh nhà Mạc.
 - Đinh Tỵ (1557): Vua Mạc sai chú là Mạc Kính Điển đem quân đánh vua Lê ở Thanh Hóa. Trịnh Kiểm hết lòng chống giữ, tướng nhà Lê là Vũ Lăng Hầu nhảy vào thuyền của Mạc Kính Điển chém người cầm dù đứt làm đôi, Mạc Kính Điển nhảy xuống sông chạy trốn, quân Mạc đại bại.
 - Kỷ Tỵ (1569): Chúa Nguyễn Hoàng từ Thuận Hóa ra yết kiến vua Lê tại hành cung Khoa Trường để trình bày tình hình chính trị, quân sự trong khu vực trách nhiệm của ông ở phương Nam.
 - Tân Tỵ (1581): Tướng Mạc là Mạc Đôn Nhượng đem quân vào đánh Trịnh Tùng ở Thanh Hóa, thua to phải chạy về.
 - Quý Tỵ (1593): Trịnh Tùng phản công tiến ra Bắc, bắt được vua Mạc là Mạc Mậu Hợp, chiếm được thành Thăng Long vào năm Nhâm Thìn (1592), năm Quý Tỵ (1593) truy lùng quân Mạc trong khu vực phía Bắc sông Hồng, bắt được Mạc Kính Chỉ và rất nhiều tướng nhà Mạc. Một số con cháu nhà Mạc còn sống sót trốn lên Cao Bằng. Năm 1592, Nguyễn Hoàng từ Thuận Hóa đem quân đội, súng ống ra Thăng Long hợp lực với Trịnh Tùng đi đánh dẹp nhà Mạc trong 8 năm. Trịnh Tùng cố ý giữ ông lại miền Bắc không cho trở về Thuận Hóa. Ông lấy cớ đi đánh giặc tại vùng Nam Định để tìm cách đưa toàn bộ lực lượng và gia đình xuống thuyền xuôi ra biển trốn về phương Nam (năm Canh Tý, 1600)... 
 - Đinh Tỵ (1617): Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) cho đặt một cơ quan mới gọi là Nhà Đồ (Đồ Gia): tức là kho chứa cất đồ đạc... Nguyên tại Thuận Hóa và Quảng Nam, nhiều  nơi dân làm nghề đãi cát tìm vàng, bạc, sắt, đồng... hoặc khi có tàu ngoại quốc từ Quảng Đông, Nhật Bản chở đồ đồng, đồ thau, đồ kim khí... đến bán thì thu mua và chứa vào kho này. Dân đãi được vàng, bạc v.v... đem nộp thuế cho nhà nước thì quan thu vào và cũng chứa vào kho Nhà Đồ. 
- Kỷ Tỵ (1629): Miền Bắc hạn hán, nạn đói lớn xảy ra vua đổi niên hiệu là Đức Long, đại xá cho thiên hạ, tha thuế đinh, thuế điền cho hai xứ Thanh Nghệ. Trịnh Tráng muốn đem quân đánh chúa Nguyễn Phúc Nguyên nhưng Nguyễn Danh Thế can ngăn rằng: “Nay phương Nam vua tôi hòa thuận, nước giàu binh mạnh, mà ta thì hàng năm đói kém, quân nhu không đủ. Chi bằng sai sứ vào tiến phong cho tước công, ủy cho trấn hai xứ, lại khiến đem quân ra đánh Cao Bằng. Nếu vâng mệnh mà đến thì ta lấy rất dễ. Nếu không nghe lệnh thì ta đem quân đánh là có danh nghĩa”. Trịnh Tráng nghe theo liền sai Lại Bộ Thượng Thư là Nguyễn Khắc Minh đem sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên làm Tiết Chế hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam tước Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Phó Quốc Công rồi ra lệnh cho chúa Nguyễn phải ra chầu vua ở Thăng Long để đem quân đi đánh dư đảng họ Mạc ở Cao Bằng. Chúa Nguyễn triệu quần thần bàn mưu đối phó, Đào Duy Từ thưa rằng: “Đây là họ Trịnh mượn sắc mệnh vua Lê để lừa ta, nếu ta nhận sắc mệnh mà không đến thì họ có cớ nói được, nếu ta không nhận sắc mệnh thì họ tất động binh. Việc hiềm khích ngoài biên đã gây thì không phải là phúc cho sinh dân. Huống chi thành quách ta chưa bền vững, quân sĩ chưa luyện tập, địch đến thì lấy gì mà chống? Chi bằng hãy tạm nhận cho họ không ngờ để ta chuyên việc phòng thủ, rồi sau dùng kế trả lại sắc, bấy giờ họ không làm gì được ta nữa”. Chúa khen phải rồi hậu đãi sứ Trịnh và bảo về. Từ đó, chúa Nguyễn dùng Đào Duy Từ xây lũy Thầy và lũy Trường Dục ở phía Nam sông Linh Giang (Quảng Bình) để chống giữ quân Trịnh.
 - Quý Tỵ (1653): Vua Chiêm Thành là Bà Thấm đem  quân đánh phá vùng đất Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền vương) sai Cai Cơ Hùng Lộc đi dánh dẹp. Bà Thấm thua phải dâng thư xin hàng, lấy sông Phan Rang làm ranh giới: phía Nam thuộc Chiêm Thành, phía Bắc thuộc Đại Việt. Từ Phan Rang trở ra lập thành phủ Thái Ninh, sau đổi là Diên Khánh (tức tỉnh Khánh Hòa và một phần Phan Rang bây giờ) đặt Hùng Lộc làm Thái thú. Nhà Lê ở ngoài Bắc đổi niên hiệu là Thịnh Đức. 
- Kỷ Tỵ (1689): Chúa Nguyễn Phúc Trăn sai Mai Vạn Long làm thống binh đem quân đi đánh Nạc Thu (vua nước Chân Lạp). Vua Chân Lạp cho người mang vàng bạc đến đút lót, vì thế Vạn Long cứ đóng quân mà không chịu tiến đánh nên bị cách chức. Chúa sai Nguyễn Hữu Hào (con Nguyễn Hữu Dật, danh tướng của nhà Nguyễn) đi đánh. Vua Chân Lạp cũng cho người mang vàng bạc đút lót nên Hào không chịu đánh, rút quân về. Chúa sai tước bỏ quan chức truất làm thứ dân. Qua năm Đinh Sửu (1697), chúa sai Nguyễn Hữu Cảnh (Kính) đem quân vào đánh, tháng Tư năm đó, vua Chân Lạp là Nặc Thu mới xin đầu hàng.
 - Tân Tỵ (1701): Chúa Nguyễn Phúc Chu mở khoa thi để tuyển chọn nhân tài, ai đỗ Giám Sinh thì được bổ làm Tri Phủ, đỗ Sinh Đồ làm Tri Huyện, đỗ Nhiêu Học được làm Huấn Đạo, đỗ Hoa Văn và Thám Phóng được bổ vào ba ty (3 cơ quan trung ương).
 - Ất Tỵ (1725): Ngày Mậu Tý, tháng Tư, chúa Nguyễn Phúc Chu mất, thọ 51 tuổi, ở ngôi 34 năm, con trai và con gái tất cả 146 người. Chúa là một người thông minh, am hiểu cả về văn hóa lẫn quân sự, đã quy y với nhà sư người Trung Hoa là Thích Đại Sán (tức Thạch Liêm Lão Hòa Thượng) tại chùa Báo Quốc. Thạch Liêm về sau qua ở tại chùa Thiên Mụ.
 - Kỷ Tỵ (1749): Người Pháp là Le Poivre đi tàu Machault vào cửa Hội An dâng quốc thư của nước Pháp và phẩm vật để xin buôn bán. Chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) trả lời đồng ý cho vào giao thương buôn bán. 
 - Tân Tỵ (1761): Nước Vạn Tượng (Lào) đến cống gồm các phẩm vật: voi đực, sáp ong, sừng tê, khăn đỏ... để tỏ tình thân hữu. Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban lại cho họ gấm vóc, sô, lụa. 
- Quý Tỵ (1773): Trước đây Mạc Thiên Tứ là người của nhà Minh, chống lại nhà Thanh chạy qua lập nghiệp ở đất Hà Tiên, được chúa Nguyễn thu dụng. Nhân việc quân Xiêm đến uy hiếp Hà Tiên, bắt được con trai con gái của Thiên Tứ đem về... Tháng 2 năm Quý Tỵ (1773) chúa Nguyễn Phúc Thuần mật lệnh cho Mạc Thiên Tứ cho người sang Xiêm giảng hòa để dò tình hình. Vua Xiêm liền trả lại con trai con gái cho Mạc Thiên Tứ. Anh em Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ nổi lên chống lại chúa Nguyễn, chiếm thành Quy Nhơn, thả tù ra và bắt dân vào lính. Tuần Phủ Nguyễn Khắc Tuyên bỏ chạy. Chúa Nguyễn sai Nguyễn Cửu Thống (chồng công chúa Ngọc Huyên), Nguyễn Cửu Sách (chồng công chúa Ngọc Anh), Phan Tiến, Nguyễn Vệ, Tống Sùng, Đỗ Văn Hoảng đem quân vào đánh đều thất bại. Sùng và Hoảng đều chết trận. Tập Đình và Lý Tài, nguyên là bọn cướp biển bị nhà Thanh truy lùng bèn sang nước ta làm nghề buôn bán nay theo Tây Sơn. Tập Đình có Trung Nghĩa Quân, Lý Tài có Hòa Nghĩa quân gồm những người cao lớn khỏe mạnh, đánh giặc rất hăng, quân chúa Nguyễn không ai địch nổi. Tháng 11 năm đó, chúa sai Tôn Thất Hương đem quân vào đánh, giao chiến tại núi Bích Kê (thuộc tỉnh Bình Định) bị phục binh của Tập Đình và Lý Tài giết. Từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận đều bị quân Tây Sơn chiếm đóng. Trong khi đó, tại kinh đô Phú Xuân của chúa Nguyễn, Trương Phúc Loan chuyên quyền, vơ vét của công, giết hại tôn thất nhà chúa và các trung thần nên lòng người oán giận, cơ nghiệp của chúa Nguyễn lâm nguy từ đó.
 - Ất Tỵ (1785): Sau khi ba vạn quân Xiêm (Thái Lan) do Chiêu Tăng và Chiêu Sương đến giúp chúa Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đánh bại, chúa  Nguyễn phải chạy ra đảo Thổ Châu (trong vịnh Thái Lan), rồi chạy qua đảo Cổ Cốt, may gặp được binh thuyền của cai cơ Trung cùng với quân Xiêm đến đón qua Xiêm ẩn náu. Đoàn tùy tùng của chúa hơn 200 người và 5 chiến thuyền qua tạm trú trên đất Xiêm, được vua Xiêm cấp cho ruộng để cày cấy tự túc. Trong khi đó, Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh lại đi theo Giám Mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine) đã đến thành phố Pondichéry (thuộc địa Pháp tại Ấn Độ) để đợi qua Pháp cầu viện.
 - Đinh Tỵ (1797): Chúa Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long) hoàn toàn chiếm được đất Gia Định (Miền Nam) và tổ chức lại bộ máy hành chánh, kinh tế phát triển, quân đội hùng mạnh, có một số người Pháp đến giúp huấn luyện hải quân, đóng tàu chiến bọc đồng đặt súng đại bác như Tây Phương. Các nước phía Nam trong vùng đều cho người đến giao thương buôn bán, cho sứ đến dâng lễ vật, thừa nhận chúa Nguyễn như là một ông vua đang cai trị một quốc gia hùng mạnh. Bấy giờ quân chúa Nguyễn đã chiếm được vùng Nha Trang (Diên Khánh) và chúa cũng cho người liên lạc với Nguyễn Văn Báu (Bảo), con Nguyễn Nhạc đang bị vua Quang Toản nhà Tây Sơn giam lỏng tại Bồng Sơn (gọi là Tiểu triều) và khuyên Báu làm nội ứng khi quân chúa Nguyễn tới Quy Nhơn... vì Báu có mối thù cha là Nguyễn Nhạc bị Nguyễn Quang Toản (tức Cảnh Thịnh con vua Quang Trung) trước đây đã đem quân ở Thuận Hóa vào Quy Nhơn lật đổ Nguyễn Nhạc... Với đà phát triển này, chỉ hơn 4 năm sau, Nguyễn Phúc Ánh đã đánh thắng Tây Sơn, thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long và đổi tên nước là Việt Nam cho đến bây giờ.
 - Kỷ Tỵ (1809): Vua Gia Long, cử Nguyễn Hữu Thận, Tham Tri Bộ Lại làm Chánh Sứ mang lễ vật qua nhà Thanh. Nguyễn Hữu Thận là người làng Đại Hòa, Phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị nổi tiếng rất giỏi về Toán Học và Thiên Văn, rất được người Trung Quốc kính nể. Cũng năm này, vua cử Nguyễn Huỳnh Đức và Lê Chất làm lại con đường Bắc Nam  (nay là Quốc Lộ số 1) đoạn từ Quảng Nam đến Phú Yên, chăng dây theo đường thẳng, bỏ đi những đoạn quanh co để rút ngắn lại cho tiện việc giao thông.
 - Tân Tỵ (1821): Vua Minh Mạng cho lập nhà Thái Học, cho con em trong dòng Tôn Thất vào học. Công việc đào sông An Cựu (Huế) hoàn thành, vua đặt tên là sông Lợi Nông. Vua đích thân đến hai xã An Vân (Thừa Thiên) và Cổ Vưu (Quảng Trị) để xem ruộng lúa của dân trồng xấu tốt ra sao. Vua ra lệnh cho Quốc Sử Quán biên soạn bộ sách Liệt Thánh Thực Lục, cử Nguyễn Văn Nhân làm Tổng Tài, Trịnh Hoài Đức và Phạm Văn Hưng cùng làm công tác biên soạn (Thực Lục và Liệt Truyện là hai bộ chính sử của Triều Nguyễn. Đại Nam Thực Lục Tiền Biên ghi chép công nghiệp của các chúa Nguyễn, và Đại Nam Thực Lục Chánh Biên ghi chép công việc của các vua Nguyễn và Liệt Truyện ghi chép công nghiệp của các công thần dưới thời các chúa Nguyễn. Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên, ghi chép công trạng các công thần... dưới thời các chúa Nguyễn và Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên, ghi chép công nghiệp của các công thần... dưới thời các vua Nguyễn). Sứ nhà Thanh đến Hà Nội, vua Minh Mạng đích thân ra Bắc để tiếp đón.
 - Ất Tỵ (1845): Dưới đời vua Thiệu Trị, vua Chân Lạp (Campuchia) là Nặc Ông Đôn chạy qua Xiêm (Thái Lan) dẫn quân về quấy phá, đánh lấy lại thành Nam Vang. Vua sai Võ Văn Giải đem quân vào Gia Định cùng Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị đánh lấy lại thành Nam Vang, người Chân Lạp ra hàng đến 23.000. Bắt được Giám Mục Người Pháp là Lefèbvre hoạt động truyền giáo tại miền Trung, vua ra lệnh xử tử. Thiếu Tướng Pháp là Cécile đem tàu chiến đến can thiệp, xin lãnh Giám Mục ra khỏi tù. 
- Kỷ Tỵ (1869): Dư đảng của Hồng Tú Toàn bên Trung Quốc là Ngô Côn chạy sang nước ta, đem quân đi cướp phá các nơi và chiếm thành Cao Bằng vào năm 1868 (Mậu Thìn). Vua Tự Đức sai Phạm Chi Hương đi đánh. Ông đã viết thư xin nhà Thanh giúp. Quân nhà Thanh do Phó Tướng Tạ Kế Quý hợp  với quân Việt Nam do Ông Ích Khiêm chỉ huy, mãi đến tháng 5 năm Kỷ Tỵ (1869) mới chiếm lại được thành Cao Bằng. Qua năm sau, 1870 (Canh Ngọ), Ngô Côn bị Ông Ích Khiêm bắn chết tại Bắc Ninh. Bọn đàn em Ngô Côn là Hoàng Sùng Anh (Cờ Vàng), Lưu Vĩnh Phúc (Cờ Đen) và Bành Văn Nhị (Cờ Trắng) vẫn còn đi quấy phá khắp nơi. Về sau, bọn chúng đã về hợp tác với quân triều đình để đánh Pháp. 
- Tân Tỵ (1881): Vua Tự Đức sai Phạm Bính đem 12 học sinh sang Hồng Kông cho đi học ở trường của người Anh, rồi cho người bí mật liên lạc với nước Xiêm (Thái Lan) và Trung Hoa mà không cho nước Pháp biết. Chính phủ Pháp phản đối triều đình Huế không tôn trọng Hòa Ước Giáp Tuất (1874) đã ký kết với Pháp.
 - Quý Tỵ (1893): Phan Đình Phùng lập chiến khu chống Pháp ở Ngàn Trươi, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Cao Thắng giúp chế được súng ống. Hoạt động trong vòng mười năm thì tan rã.
 - Ất Tỵ (1905): Nga-Nhật chiến tranh, Nhật thắng Nga, các nhà cách mạng Việt Nam như Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Cường Để trốn qua Trung Hoa rồi qua Nhật vận động Nhật giúp đỡ Việt Nam đánh Pháp. Một số thanh niên Việt Nam được bí mật đưa qua Nhật để du học gọi là “Phong Trào Đông Du”. Về sau Nhật bắt tay với Pháp trục xuất người Việt Nam nên các cụ Phan Bội Châu, Cường Để và anh em thanh niên Việt Nam phải lánh qua Trung Quốc... 
 - Đinh Tỵ (1917): Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra tại Âu Châu, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã tuyển mộ một số lính Việt Nam đưa qua Pháp làm lính thợ (ONS: Ouvriers non spécialisés), nhân cơ hội đó vào năm 1916 (Bính Thìn) các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân đã vận động số lính này tham gia cuộc khởi nghĩa chống Pháp và đưa vua Duy Tân trốn ra khỏi kinh thành Huế để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Việc bất thành, vua bị đày, các nhà cách mạng Thái Phiên, Trần Cao Vân v.v... bị xử tử, hàng ngàn người bị tù tội... Do ảnh hưởng của biến cố 1916 mà năm 1917, nhiều thành phần yêu nước chống Pháp và gia đình gặp cảnh đau khổ. Vua Khải Định mới lên thay thế vua Duy Tân, chính sách mềm dẻo, cầu an, hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của Pháp.
 - Kỷ Tỵ (1929): Ở miền Bắc, Việt Nam Quốc Dân Đảng hoạt động mạnh chuẩn bị khởi nghĩa vào năm Canh Ngọ (1930). Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái Học thành lập năm 1927 tại Hà Nội, chủ trương đánh Pháp giành độc lập. Sau cuộc khởi nghĩa tại Yên Báy thất bại, Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ bị xử tử, hàng trăm đảng viên bị tù... 
 - Tân Tỵ (1941): Chiến tranh Thế Giới Lần Thứ Hai bùng nổ, quân Nhật chiếm Trung Hoa và đem quân vào Đông Dương, các ông Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần và các nhà cách mạng Việt Nam lưu vong tại Trung Hoa thành lập Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội dựa vào thế lực Đồng Minh để chống Nhật. Lợi dụng lúc quân Nhật có mặt ở Đông Dương, người Pháp đang lúc yếu thế, các tổ chức yêu nước như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng (của Trương Tử Anh), Đảng Cộng Sản (của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh) hoạt động mạnh ở trong nước. Phục Quốc Quân của Trần Trung Lập theo chân quân Nhật vào Lạng Sơn..., về sau Nhật bắt tay với Pháp nên để mặc cho Pháp đem quân đội, máy bay đánh phá Phục Quốc Quân, do đó, lực lượng của Trần Trung Lập tan rã.
 - Quý Tỵ (1953): Từ 1949, Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam. Cựu hoàng Bảo Đại từ Hồng Kông về nước lập chính phủ Quốc Gia. Năm 1953 (Quý Tỵ), tình hình chiến tranh giữa Việt NHỮNG NĂM TỴ TRONG LỊCH SỬ 
Sưu tầm: Nguyễn Lý Tưởng

Rắn, tượng trưng cho năm Tỵ, đứng hàng thứ 6 trong 12 con giáp. Rắn là con vật bị nguyền rủa trong Kinh Thánh (cựu ước) của người Do Thái. Quỷ Satan mượn hình Con Rắn để cám dỗ bà Eva là tổ tông của loài người (đặc biệt đối với người Do Thái). Người học võ hay nói đến “xà quyền” là môn võ rút từ kinh nghiệm của con rắn săn mồi hay hai con rắn tranh hùng với nhau…Ngày xưa, khi quân Tàu (quân Mông Cổ tức nhà Nguyên) và quân nhà Minh, nhà Thanh qua đánh nước ta thường đi ngựa, dùng đao, thương…Người Việt chúng ta hay sử dụng “xà quyền” nghĩa là “nằm lăn mình trên đất, dùng đao và móc câu tấn công chân ngựa của quân địch…Từ khi quân Pháp chiếm nước ta (1962, 1968…) chúng dùng súng, từ xa bắn tới…Người Việt sử dụng cung , tên, đao, kiếm…không thắng được Tây…Từ thời vua Tự Đức trở về sau, võ thuật Việt Nam thất truyền dần dần, “xà quyền “ cũng thất truyền luôn. Các “lò” dạy võ Thiếu Lâm không nghe nói đến “xà quyền” nữa… 
Sau đây là những Năm Tỵ có nhiều biến cố trong lịch sử: 
- Quý Tỵ (208 trước Công Nguyên): Sau khi Tần Thủy Hoàng, vua Trung Quốc mất, con là Hồ Hợi tức Tần Nhị Thế nối ngôi, thiên hạ nổi lên chống lại nhà Tần nên Nhâm Ngao, tướng nhà Tần cùng Triệu Đà đang thi hành chính sách “thực dân” ở miền Nam Ngũ Lĩnh, muốn tự lập để tạo nên một giang sơn riêng không thuộc nhà Tần nhưng mộng chưa thực hiện được thì Nhâm Ngao đau nặng... Trước khi chết, ông đã trao  quyền chỉ huy quân đội lại cho Triệu Đà và khuyên Triệu Đà đóng cửa biên giới, phòng bị nghiêm mật, không cho người của phương Bắc (nhà Tần) đến liên lạc. Triệu Đà đã thực hiện đúng như kế hoạch của Nhâm Ngao đề ra và tự tuyên bố độc lập, đặt tên nước là Nam Việt.
 - Ất Tỵ (196 trước Công Nguyên): Cao Tổ nhà Hán là Lưu Bang diệt được nhà Tần, thống nhất Trung Quốc được 11 năm rồi, nghe tin Triệu Đà xưng vương, lập ra nước Nam Việt, liền cho sứ là Lục Giả qua phong cho Triệu Đà làm Nam Việt Vương để chiêu dụ Triệu Đà về thần phục nhà Hán. Lục Giả nói với Triệu Đà: “Vương vốn là người Hán, họ hàng, mồ mả đều ở nước Hán, nay lại làm trái tục nước mình, muốn chiếm đất này làm kẻ địch chống chọi với nhà Hán, há chẳng lầm hay sao?...”. Triệu Đà nói: “Tôi ở đất này lâu ngày quên mất cả lễ nghĩa”. Rồi ông lại hỏi Lục Giả: “Tôi với Tiêu Hà, Tào Tham ai hơn?”. Lục Giả nói: “Vương hơn chứ”. Triệu Đà lại hỏi: “Tôi với vua Hán ai hơn?”. Lục Giả nói: “Hán đế nối nghiệp của Ngũ Đế Tam Vương, thống trị người Hán kể hàng ức vạn người, đất rộng hàng muôn đặm, vật thịnh dân giàu, quyền chính chỉ do một nhà, từ khi trời đất mở mang đến nay chưa từng có. Nay dân của vương, chẳng qua mười vạn, ở xen khoảng núi biển, chỉ ví như một quận của nhà Hán, ví với Hán đế sao được?”. Triệu Đà cười: “Tôi lấy làm giận không được nổi dậy ở bên ấy, biết đâu chẳng bằng nhà Hán?”. 
- Đinh Tỵ (184 trước Công Nguyên): Hán Cao Tổ Lưu bang mất, nội bộ nhà Hán rối loạn, bà Cao Hậu lên nắm quyền, năm đó là năm 24 nhà Hán, Trung Quốc ra lệnh cấm không được bán các đồ kim khí như sắt, đồng... ở biên giới. Từ đó giữa N
am Việt và nhà Hán có sự xích mích. Sau khi Triệu Đà mất, nhà Hán âm mưu chiếm Nam Việt của nhà Triệu.
 - Đinh Tỵ (124 trước Công Nguyên): Lữ Gia là tướng của Nam Việt được nhà Triệu đưa lên làm Thái Phó, giúp vua điều khiển việc nước. 
- Kỷ Tỵ (112 trước Công Nguyên): Vua nhà Hán là Nguyên Đỉnh năm thứ 5, cho sứ giả qua mời cháu của Triệu Đà là Triệu Ai Vương và mẹ là Cù Thị Thái Hậu qua Trung Quốc chầu vua Hán. Cù Thị vốn là người Hán lại tư thông với sứ của nhà Hán và muốn dâng nước Nam Việt cho vua Hán. Lữ Gia can ngăn không được bèn cùng các tướng sĩ làm đảo chánh, giết Cù Thị và Ai Vương và cả sứ nhà Hán nữa rồi lập con của Triệu Minh Vương là Thuật Dương Hầu Kiến Đức lên làm vua, quyết bảo vệ giang sơn, chống lại nhà Hán. Năm sau, Canh Ngọ (111 trước Công Nguyên), vua Hán sai tướng là Dương Bộc và Lộ Bác Đức đem quân qua đánh chiếm Nam Việt, bắt được Lữ Gia. Các tướng của ta ở địa phương cũng không địch nổi với quân Tàu nên phải xin hàng. Từ đó nhà Hán chia nước ta thành quận huyện trực thuộc Trung Quốc và đặt quan Thứ Sử để cai trị. 
- Tân Tỵ (381 sau Công Nguyên, đời nhà Tấn bên Trung Quốc): Nguyên vào năm trước là Canh Thìn, 380, Thái Thú quận Cửu Chân là Lý Tốn chiếm đất châu quận chống lại vua nhà Tấn (Trung Quốc) nên vua Tấn sai Thái Thú Giao Châu là Đỗ Viện đem quân đi đánh Lý Tốn. Đỗ Viện nguyên là người huyện Châu Diên cùng quê với Thi chồng Trưng Trắc, được nhà Tấn cho làm Thái Thú Giao Châu. Lý Tốn thua và bị Đỗ Viện chém đầu. 
- Ất Tỵ (945): Dương Tam Kha là em vợ của Ngô Quyền, cướp ngôi của cháu là Ngô Xương Ngập (con trưởng của Ngô Quyền). Ngô Xương Ngập chạy về nương tựa nhà Phạm Lệnh Công ở Nam Sách Giang (nay thuộc tỉnh Hải Hưng). Dương Tam Kha chọn con thứ hai của Ngô Quyền là Ngô Xương Văn làm con nuôi của mình, các con của Ngô Quyền là Ngô Nam Hưng, Ngô Càn Hưng còn nhỏ, chưa biết gì đều theo Dương Tam Kha (theo bên mẹ). Dương Tam Kha nhiều lần đem quân đánh Phạm Lệnh Công để bắt Ngô Xương Ngập nhưng không được. Anh hùng trong nước nổi lên chống lại Dương Tam Kha và từ đó sinh ra loạn “Thập Nhị Sứ Quân”. 
 - Tân Tỵ (981): Năm thứ hai triều đại nhà Tiền Lê, vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) nguyên là Thập Đạo Tướng Quân nhà Đinh (Đinh Bộ Lĩnh). Sau khi Đinh Tiên Hoàng mất, nhà Tống (Trung Quốc) đem quân đánh nước Đại Việt của ta. Thái hậu nhà Đinh là Dương Vân Nga cùng các quan tôn Lê Hoàn lên làm vua để chống xâm lăng. Năm Tân Tỵ, 981, vua đem quân chống với các tướng của nhà Tống là Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần Khâm Tộ, Lưu Trừng. Vua sai đóng cọc ngăn sông Bạch Đằng để chống giặc và sai quân sĩ trá hàng để dụ Hầu Nhân Bảo. Hầu Nhân Bảo thua trận, bị bắt và bị chém, các tướng của nhà Tống bèn lui quân. Vua Lê đem quân đánh đuổi. Quân của Khâm Tộ thua to, chết quá nửa, thây chết đầy đồng. Tướng giặc là Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân bị bắt đem về Hoa Lư. Từ đó trong nước được yên
- Quý Tỵ (995): Nhà Tống sai Vương Thế Tắc và Lý Cư Giản sang phong cho vua Lê Đại Hành làm Giao Chỉ Quận Vương (Đinh Bộ Lĩnh, là người đầu tiên được Trung Quốc phong Vương sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị nhà Hán đánh chiếm...).
 - Ất Tỵ (1005): Tháng ba, mùa Xuân năm Ất Tỵ (1005) vua Lê Đại Hành mất. Ngài tên húy là Lê Hoàn, người Ái Châu, cha của ngài là Lê Mịch, mẹ là người họ Đặng. Lê Hoàn làm quan Thập Đạo Tướng Quân nhà Đinh, được quân sĩ tôn lên ngôi vua để chống quân Tống xâm lăng. Làm vua được 24 năm, thọ 65 tuổi (941-1005) tính theo âm lịch, chôn tại châu Trường Yên. Vua mất năm 1005 nhưng một năm sau mới báo cáo cho vua Tống biết, do đó sử sách ghi là năm 1006.
 - Tân Tỵ (1041): Đời nhà Lý, Nùng Trí Cao chiếm châu Thắng Do, đổi làm nước Đại Lịch. Vua sai tướng đi đánh, bắt sống được Nùng Trí Cao đem về kinh đô Thăng Long. Vì cha của Cao là Nùng Tồn Phúc và anh là Nùng Trí Thông đã bị giết nên vua tha tội giết và cho trở về giữ châu Quảng Nguyên như cũ lại còn cho thêm bốn động Lôi Hỏa, Bình, An, Bà và thêm châu Tư Lang nữa. Thấy vua Lý Thái Tông đối xử với Nùng  Trí Cao như vậy, sử gia Lê Văn Hưu đã chép vào Đại Việt Sử Ký lời nhận xét sau đây: “Thái Tông say đắm cái lòng nhân nhỏ nhặt của nhà Phật mà quên mất cái nghĩa lớn của người làm vua”
- Quý Tỵ (1053): Tướng Địch Thanh của nhà Tống cùng 3 tướng thuộc hạ đem quân chiếm phố Quy Nhân thuộc Ung Châu. Nùng Trí Cao đem quân chống bị Địch Thanh đánh bại. Tướng tâm phúc của Trí Cao là Hoàng Sư Mật cùng 57 thuộc hạ bị chết tại trận. Quân Tống đánh đuổi giết hơn 2.200 người. Trí Cao ban đêm bỏ thành trốn đi. Mấy tháng sau, Trí Cao sai người thân tín là Lương Châu đến xin vua nhà Lý cho quân cứu viện. Vua sai Vũ Nhị đem quân đi cứu Nùng Trí Cao. Bị Địch Thanh đánh đuổi, Trí Cao chạy vào nước Đại Lý (Vân Nam). Người nước Đại Lý chém đầu Trí Cao rồi đem nộp cho quân Tống. Mẹ Trí Cao là A Nùng cũng bị quân Tống giết. Từ đó, họ Nùng bị diệt.
 - Đinh Tỵ (1077): Đời Lý Nhân Tông (húy Càn Đức, con Lý Thánh Tông), Lý Thường Kiệt đem quân đánh hai châu Khâm và châu Liêm nước Tống, nói rằng nhà Tống thi hành phép thanh miêu (một biện pháp kinh tế do Vương An Thạch đề xướng), tàn hại dân Trung Quốc, cho nên đem quân sang hỏi tội để cứu giúp nhau. Theo lời kể của các nhà cách mạng Việt Nam đã từng trốn qua Trung Quốc thời Pháp thì hiện nay trên lãnh thổ Trung Quốc vẫn còn một vùng toàn người Việt qua đây từ thời Lý Thường Kiệt, họ vẫn giữ phong tục Việt Nam như ăn trầu...
 - Tân Tỵ (1101): Vua Lý Nhân Tông đổi niên hiệu mới là Long Phù năm thứ nhất, phong cho Thái Úy Lý Thường Kiệt kiêm chức nội thị phán thủ đô áp nha hành điện nội ngoại đô tri sự, quyền thế lớn nhất trong nước. Năm đó, vua cũng sai trùng tu chùa Diên Hựu. 
- Đinh Tỵ (1137): Tháng Giêng, tướng Phá Tô Lăng nước Chân Lạp đem quân vào đánh phá Nghệ An, vua sai Thái Úy Lý Công Bình đem quân đi đánh. Chân Lạp bị thua. Tháng 2  Nghệ An bị động đất, nước sông đỏ như máu. 
- Kỷ Tỵ (1149): Thuyền buôn các nước Java (Indonesia), Lộ Lạc (Thái Lan), Xiêm La vào Hải Đông (gần Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh ngày nay) để xin cư trú buôn bán. Vua cho cất nhà ở hải đảo (Vân Đồn) để buôn bán hàng hóa quý và dâng tiến đặc sản địa phương.
 - Kỷ Tỵ (1209): Một biến cố rất quan trọng khởi đi từ năm này, về sau làm cho nhà Lý bị mất quyền về tay nhà Trần. Nguyên vào năm trước (Mậu Thìn, 1208), Phạm Du coi việc quân ở Nghệ An làm phản, quy tụ bọn lưu manh, du đảng chia nhau đi cướp phá, chặn đường các nơi. Vua Cao Tông nhà Lý sai quan Thượng Phẩm Phụng Ngự Phạm Bỉnh Di đem quân ở châu Đằng, châu Khoái (nay thuộc tỉnh Hải Hưng) đến đánh. Du thua trận chạy sang châu Hồng. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt đi. Du cho người đem vàng bạc đến kinh đô tâu vua rằng: Bỉnh Di tàn ác, giết người vô tội. Vua bèn ra lệnh gọi Bỉnh Di về kinh. Khi Phạm Bỉnh Di và con là Phu đến, vua sai bắt cả hai cha con đem giam. Tướng dưới quyền của Phạm Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân đến giải vây cho Bỉnh Di. Vua thấy nguy, ra lệnh giết cha con Bỉnh Di, lập Hoàng Tử Thầm lên làm vua, rồi trốn ra khỏi cung đến miền Quy Hóa Giang (sông Thao, tỉnh Vĩnh Phú). Trong khi đó, Hoàng Thái Tử (Hạo Sảm) trốn đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp (Hải Dương), nghe tiếng con gái của Trần Lý có nhan sắc bèn lấy làm vợ. Trần Lý quy tụ dân trong vùng thành một lực lượng bảo vệ Thái Tử Hạo Sảm (con trưởng vua Cao Tông) trở về kinh đô. Trần Lý về sau bị giặc giết, con thứ Trần Lý là Trần Tự Khánh tiếp tục phò Thái Tử Hạo Sảm về kinh lên làm vua là Lý Huệ Tông. Trần Tự Khánh được phong Thuận Lưu Bá. Con gái Trần Lý lấy vua Huệ Tông sinh ra Lý Chiêu Hoàng. Trần Thủ Độ, làm Thái Sư, ép vua Huệ Tông đi tu và nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Lý Chiêu Hoàng lên làm vua được ít lâu rồi nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, cháu của Trần Thủ Độ. Về sau Lý Huệ  Tông bị Trần Thủ Độ ép phải tự tử tại chùa. Con cháu nhà Lý bị đổi ra họ Nguyễn, nhà Lý chấm dứt từ đây, trước sau được 216 năm. 
- Đinh Tỵ (1257): Đời Trần Thái Tông (Trần Cảnh), tháng 8, có sứ nhà Nguyên sang... Tháng 9, vua ra lệnh cho các nơi chuẩn bị quân thủy bộ để giữ biên giới, chống giặc Nguyên, tất cả dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Tuấn (Hưng Đạo). Tháng 12, tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Thai (U-ry-ang-khadai) đem quân xâm phạm Bình Lệ Nguyên. Vua thân hành đốc chiến, xông pha tên đạn. Trước thế giặc quá mạnh, quan quân ta hơi nao núng, chỉ có Lê Phụ Trần một mình một ngựa ra vào trận giặc, sắc mặt bình thản như không. Lê Phụ Trần can ngăn vua nên tạm lánh ra phía sau, bấy giờ vua mới chịu lui quân về đóng ở sông Lô. Quân giặc bắn tên như mưa. Lê Phụ Trần lấy ván thuyền đỡ đạn cho vua. Thế giặc rất mạnh, vua lại lui về giữ sông Thiên Mặc. Lê Phụ Trần được gần bên vua để bàn việc cơ mật... Ngày 24 tháng 12 Đinh Tỵ, vua và thái tử lên lâu thuyền (thuyền hai tầng) tiến quân đến Đông Bộ Đầu, phá được giặc. Quân Nguyên phải rút chạy trở về..., đến trại Quy Hóa, chủ trại tập hợp dân thiểu số đánh tập kích, quân Nguyên thua to. 
- Kỷ Tỵ (1269): Dưới đời Trần Thánh Tông (tên là Trần Hoảng, con trưởng Trần Cảnh), nhà Nguyên cho sứ sang đặt vấn đề biên giới với nước ta. Vua cho Lê Đà, Đinh Củng Nguyên sang Trung Quốc thương lượng. 
- Tân Tỵ (1281): Dưới đời Trần Nhân Tông (tên húy là Khâm, con trưởng Trần Thánh Tông), vua sai chú họ là Trần Di Ái cùng phái đoàn Lê Mục, Lê Tuân qua Trung Quốc. Nhà Nguyên phong Trần Di Ái làm Lão Hầu, Lê Mục làm Hàn Lâm Học Sĩ, Lê Tuân làm Thượng Thư, sai Sài Xuân đem 1.000 quân hộ tống về nước. Thái độ Sài Xuân ngạo mạn, khiêu khích, vua cử người nào đến y cũng không tiếp. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nghe thế liền đến gặp Sài Xuân. Thấy Vương đã gọt tóc, mặc áo vải, Sài Xuân tưởng là nhà sư phương Bắc nên  đứng dậy chào. Người hầu của y đứng sau cầm cái tên nhọn chọc vào đầu Trần Hưng Đạo đến chảy máu mà ông vẫn thản nhiên, sắc mặt không hề thay đổi khiến cho sứ nhà Nguyên phải kiêng nể... 
 - Quý Tỵ (1293): Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Thái Tử Thuyên (Trần Anh Tông). Anh Tông tôn Nhân Tông lên làm Thái Thượng Hoàng. Nhà Nguyên sai Binh Bộ Thượng Thư là Lương Tằng gởi thư dụ vua Trần Nhân Tông qua chầu vua nhà Nguyên. Vua cáo bệnh từ chối và sai Đào Tử Kỳ mang lễ vật qua nhà Nguyên. Nhà Nguyên giữ Đào Tử Kỳ lại và chuẩn bị quân lương để sang đánh nước ta nhưng tháng Giêng năm sau, vua Thế Tổ nhà Nguyên mất, con là Thành Tông lên ngôi, ra lệnh bãi binh và tha cho Đào Tử Kỳ về nước. 
- Ất Tỵ (1305): Vua Chiêm Thành sai sứ qua nước ta dâng lễ vật cầu hôn công chúa nhà Trần. - Kỷ Tỵ (1329): Trần Minh Tông nhường ngôi cho con là Thái Tử Vượng (Trần Hiến Tông). Hiến Tông tôn Trần Minh Tông lên làm Thái Thượng Hoàng. 
- Quý Tỵ (1353): Trần Dụ Tông (tên là Hạo, con Minh Tông) tháng 6, cử binh đánh Chiêm Thành, gặp trở ngại, phải quay về.
 - Kỷ Tỵ (1389): Đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly chuyên quyền, quân Chiêm Thành vào đánh cướp Thanh Hóa. Hồ Quý Ly đem quân tinh nhuệ truy kích giặc nhưng bị mắc mưu của giặc mà thua trận, phải một mình trốn về...
 - Tân Tỵ (1401): Nhà Trần đã bị Hồ Quý Ly cướp ngôi từ năm Canh Thìn (1400), sau đó Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương rồi bắt chước nhà Trần tự xưng là Thái Thượng Hoàng. Đầu năm Tân Tỵ (1400), tháng 2, Hồ Hán Thương đổi lịch mới, bỏ lịch nhà Trần, dùng niên hiệu nhà Hồ, ra lệnh kiểm tra dân số, từ 15 tuổi đến 60 tuổi phải đi lính, mục đích gia tăng quân số; bắt kê khai lại sổ ruộng đất trong nước, tìm cách thu lại số ruộng nhà nước đã cấp cho con cháu nhà Trần và định lại các loại thuế nhất là thuế ruộng đất... 
 - Quý Tỵ (1413): Nhà Minh mượn cớ giúp con cháu nhà Trần diệt nhà Hồ để kéo quân vào xâm lăng nước ta. Năm Tân Sửu (1409), Trần Quý Khoách là con cháu nhà Trần nổi lên kháng chiến chống Minh, xưng đế hiệu là Trần Trùng Quang. Tháng Giêng, vua Trần Trùng Quang dẫn quân cùng với Nguyễn Cảnh Dị, Nguyễn Súy cướp lương thực của quân Minh đóng ở các cửa biển Vân Đồn, Hải Đông. Quân ta bị thua nhiều trận. Tháng 3, vua trở về Nghệ An, cho Nguyễn Biểu đi gặp tướng Minh là Trương Phụ để cầu hòa. Nguyễn Biểu mắng Trương Phụ, không chịu hợp tác với quân Minh nên bị Trương Phụ giết. Nguyễn Cảnh Dị và Đặng Dung bị Trương Phụ bắt sống đem giết đi. Vua Trùng Quang trốn qua Lào về sau cũng bị bắt và bị giết. Nhà Trần bắt đầu từ năm Bính Tuất (1226) đến năm Kỷ Mão (1399) bị Hồ Quý Ly cướp ngôi, được 12 đời tổng cộng 174 năm. Hậu Trần thêm 2 đời nữa được 7 năm đến đây là hết. 
- Ất Tỵ (1425): Lê Lợi (Lê Thái Tổ) khởi nghĩa chống quân Minh tháng Giêng năm Mậu Tuất (1418), đến tháng Giêng năm Ất Tỵ (1425) vua kéo quân về Nghệ An, dân chúng tranh nhau đem trâu, rượu đến khao quân, tỏ lòng hân hoan. Người thiểu số châu Ngọc Ma là Cầm Quý cũng đem 8.000 quân và 10 con voi đến giúp. Vua ra nghiêm lệnh không được cướp phá của dân. Bây giờ lính đã ba ngày chịu đói mà không dám làm điều gì trái lệnh. Dân chúng thấy vậy thì hết lòng ủng hộ vua và đem của cải ra nuôi lính. Vua đến đâu đều được mọi người theo, quân giặc không dám ra khỏi đồn, chẳng mấy chốc toàn lãnh thổ Nghệ An đều thuộc về ta. Tháng Tư năm đó, tướng giặc là Lý An đem quân từ thành Đông quan (Thanh Hóa) đến cứu bị quân ta đánh bại. Thừa thắng, vua cho các tướng đem quân vào chiếm Tân Bình, Thuận Hóa. Các tướng suy tôn Lê Lợi là “Đại thiên hành hóa” (thay mặt trời để giáo hóa dân). 
- Kỷ Tỵ (1449): Em vua Chiêm Thành giết anh mình để cướp ngôi rồi cho sứ mang cống phẩm qua nước ta..., vua Lê Thái Tông (con Lê Lợi) từ chối không nhận. Vua nói: “Tôi  giết vua, em giết anh là tội đại ác xưa nay, trẫm không nhận đồ dâng”. Vua ra lệnh tổ chức kỳ thi, ai biết chữ đều được dự thi. Vua cũng ra lệnh cho giải ngũ những lính già và tuyển tráng đinh vào lính để bổ sung.
 - Tân Tỵ (1461): Vua Lê Thánh Tông khuyến khích dân chúng lo việc làm ruộng, tăng gia sản xuất. Người nào có ruộng đất mà không chăm lo cày cấy thì quan cai trị phải bắt trình lên để trị tội. Tháng 12 năm đó, vua ra lệnh phải bảo mật các giấy tờ, lệnh truyền, tờ trình của nhà nước gởi đi, không được bóc ra xem hoặc sao chép trái phép. 
- Quý Tỵ (1473): Vua Lê Thánh Tông ra lệnh “cấm tửu sắc”. Sắc chỉ viết: “Kể từ nay, trong nhà không làm cỗ thết khách thì không được chè chén, người vợ không phạm tội thì không được ruồng bỏ. Kẻ nào dám rượu chè bừa bãi, gia đạo không nghiêm, kẻ nào không có mối lái mà dám vụng trộm tư thông thì phải trị tội”. 
- Kỷ Tỵ (1521): Vua Lê Chiêu Tông phong cho Mạc Đăng Dung làm Nhân Quốc Công, tiết chế các doanh quân thủy bộ 13 đạo; đến tháng 7 lại phong Mạc Đăng Dung làm Thái Phó, quyền hành vào bậc nhất. Từ đó, Mặc Đăng Dung âm mưu cướp ngôi nhà Lê, lập ra nhà Mạc. 
- Quý Tỵ (1533): Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ông Nguyễn Kim đem người con của vua Lê Chiêu Tông húy là Lê Duy Ninh trốn qua Lào và tôn lên làm vua để chống lại nhà Mạc vào tháng Giêng năm Quý Tỵ (1533). Nguyễn Kim nhân danh vua, cho sứ qua báo với nhà Minh việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê và gởi hịch đi khắp nơi kêu gọi trung thần nhà Lê giúp vua đánh lại nhà Mạc. 
- Ất Tỵ (1545): Tháng 5, Nguyễn Kim bị một tướng Mạc tên Trung (nguyên là một hoạn quan) trá hàng bỏ thuốc độc vào quả dưa hấu rồi mời Nguyễn Kim ăn... Trước đây tên Trung được nhà Mạc đặt kế hoạch trá hàng để tìm cách giết vua Lê nhưng không được, y bèn đầu độc Nguyễn Kim (Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược thì người đầu độc  Nguyễn Kim là Dương Chấp Nhất. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, xuất bản năm Chính Hòa thứ 18 đời nhà Lê, 1697, bản Hán Văn, thì người đầu độc Nguyễn Kim tên là Trung). Sau khi Nguyễn Kim chết, con rể là Trịnh Kiểm lên thay nắm giữ binh quyền chống với họ Mạc. Con trưởng của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông được phong Lãng Quận Công và con thứ là Nguyễn Hoàng được phong Hạ Khê Hầu, được Trịnh Kiểm cho chỉ huy quân đội đi đánh nhà Mạc.
 - Đinh Tỵ (1557): Vua Mạc sai chú là Mạc Kính Điển đem quân đánh vua Lê ở Thanh Hóa. Trịnh Kiểm hết lòng chống giữ, tướng nhà Lê là Vũ Lăng Hầu nhảy vào thuyền của Mạc Kính Điển chém người cầm dù đứt làm đôi, Mạc Kính Điển nhảy xuống sông chạy trốn, quân Mạc đại bại.
 - Kỷ Tỵ (1569): Chúa Nguyễn Hoàng từ Thuận Hóa ra yết kiến vua Lê tại hành cung Khoa Trường để trình bày tình hình chính trị, quân sự trong khu vực trách nhiệm của ông ở phương Nam.
 - Tân Tỵ (1581): Tướng Mạc là Mạc Đôn Nhượng đem quân vào đánh Trịnh Tùng ở Thanh Hóa, thua to phải chạy về.
 - Quý Tỵ (1593): Trịnh Tùng phản công tiến ra Bắc, bắt được vua Mạc là Mạc Mậu Hợp, chiếm được thành Thăng Long vào năm Nhâm Thìn (1592), năm Quý Tỵ (1593) truy lùng quân Mạc trong khu vực phía Bắc sông Hồng, bắt được Mạc Kính Chỉ và rất nhiều tướng nhà Mạc. Một số con cháu nhà Mạc còn sống sót trốn lên Cao Bằng. Năm 1592, Nguyễn Hoàng từ Thuận Hóa đem quân đội, súng ống ra Thăng Long hợp lực với Trịnh Tùng đi đánh dẹp nhà Mạc trong 8 năm. Trịnh Tùng cố ý giữ ông lại miền Bắc không cho trở về Thuận Hóa. Ông lấy cớ đi đánh giặc tại vùng Nam Định để tìm cách đưa toàn bộ lực lượng và gia đình xuống thuyền xuôi ra biển trốn về phương Nam (năm Canh Tý, 1600)... 
 - Đinh Tỵ (1617): Chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) cho đặt một cơ quan mới gọi là Nhà Đồ (Đồ Gia): tức là kho chứa cất đồ đạc... Nguyên tại Thuận Hóa và Quảng Nam, nhiều  nơi dân làm nghề đãi cát tìm vàng, bạc, sắt, đồng... hoặc khi có tàu ngoại quốc từ Quảng Đông, Nhật Bản chở đồ đồng, đồ thau, đồ kim khí... đến bán thì thu mua và chứa vào kho này. Dân đãi được vàng, bạc v.v... đem nộp thuế cho nhà nước thì quan thu vào và cũng chứa vào kho Nhà Đồ. 
- Kỷ Tỵ (1629): Miền Bắc hạn hán, nạn đói lớn xảy ra vua đổi niên hiệu là Đức Long, đại xá cho thiên hạ, tha thuế đinh, thuế điền cho hai xứ Thanh Nghệ. Trịnh Tráng muốn đem quân đánh chúa Nguyễn Phúc Nguyên nhưng Nguyễn Danh Thế can ngăn rằng: “Nay phương Nam vua tôi hòa thuận, nước giàu binh mạnh, mà ta thì hàng năm đói kém, quân nhu không đủ. Chi bằng sai sứ vào tiến phong cho tước công, ủy cho trấn hai xứ, lại khiến đem quân ra đánh Cao Bằng. Nếu vâng mệnh mà đến thì ta lấy rất dễ. Nếu không nghe lệnh thì ta đem quân đánh là có danh nghĩa”. Trịnh Tráng nghe theo liền sai Lại Bộ Thượng Thư là Nguyễn Khắc Minh đem sắc vua Lê vào phong cho Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên làm Tiết Chế hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam tước Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Phó Quốc Công rồi ra lệnh cho chúa Nguyễn phải ra chầu vua ở Thăng Long để đem quân đi đánh dư đảng họ Mạc ở Cao Bằng. Chúa Nguyễn triệu quần thần bàn mưu đối phó, Đào Duy Từ thưa rằng: “Đây là họ Trịnh mượn sắc mệnh vua Lê để lừa ta, nếu ta nhận sắc mệnh mà không đến thì họ có cớ nói được, nếu ta không nhận sắc mệnh thì họ tất động binh. Việc hiềm khích ngoài biên đã gây thì không phải là phúc cho sinh dân. Huống chi thành quách ta chưa bền vững, quân sĩ chưa luyện tập, địch đến thì lấy gì mà chống? Chi bằng hãy tạm nhận cho họ không ngờ để ta chuyên việc phòng thủ, rồi sau dùng kế trả lại sắc, bấy giờ họ không làm gì được ta nữa”. Chúa khen phải rồi hậu đãi sứ Trịnh và bảo về. Từ đó, chúa Nguyễn dùng Đào Duy Từ xây lũy Thầy và lũy Trường Dục ở phía Nam sông Linh Giang (Quảng Bình) để chống giữ quân Trịnh.
 - Quý Tỵ (1653): Vua Chiêm Thành là Bà Thấm đem  quân đánh phá vùng đất Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền vương) sai Cai Cơ Hùng Lộc đi dánh dẹp. Bà Thấm thua phải dâng thư xin hàng, lấy sông Phan Rang làm ranh giới: phía Nam thuộc Chiêm Thành, phía Bắc thuộc Đại Việt. Từ Phan Rang trở ra lập thành phủ Thái Ninh, sau đổi là Diên Khánh (tức tỉnh Khánh Hòa và một phần Phan Rang bây giờ) đặt Hùng Lộc làm Thái thú. Nhà Lê ở ngoài Bắc đổi niên hiệu là Thịnh Đức. 
- Kỷ Tỵ (1689): Chúa Nguyễn Phúc Trăn sai Mai Vạn Long làm thống binh đem quân đi đánh Nạc Thu (vua nước Chân Lạp). Vua Chân Lạp cho người mang vàng bạc đến đút lót, vì thế Vạn Long cứ đóng quân mà không chịu tiến đánh nên bị cách chức. Chúa sai Nguyễn Hữu Hào (con Nguyễn Hữu Dật, danh tướng của nhà Nguyễn) đi đánh. Vua Chân Lạp cũng cho người mang vàng bạc đút lót nên Hào không chịu đánh, rút quân về. Chúa sai tước bỏ quan chức truất làm thứ dân. Qua năm Đinh Sửu (1697), chúa sai Nguyễn Hữu Cảnh (Kính) đem quân vào đánh, tháng Tư năm đó, vua Chân Lạp là Nặc Thu mới xin đầu hàng.
 - Tân Tỵ (1701): Chúa Nguyễn Phúc Chu mở khoa thi để tuyển chọn nhân tài, ai đỗ Giám Sinh thì được bổ làm Tri Phủ, đỗ Sinh Đồ làm Tri Huyện, đỗ Nhiêu Học được làm Huấn Đạo, đỗ Hoa Văn và Thám Phóng được bổ vào ba ty (3 cơ quan trung ương).
 - Ất Tỵ (1725): Ngày Mậu Tý, tháng Tư, chúa Nguyễn Phúc Chu mất, thọ 51 tuổi, ở ngôi 34 năm, con trai và con gái tất cả 146 người. Chúa là một người thông minh, am hiểu cả về văn hóa lẫn quân sự, đã quy y với nhà sư người Trung Hoa là Thích Đại Sán (tức Thạch Liêm Lão Hòa Thượng) tại chùa Báo Quốc. Thạch Liêm về sau qua ở tại chùa Thiên Mụ.
 - Kỷ Tỵ (1749): Người Pháp là Le Poivre đi tàu Machault vào cửa Hội An dâng quốc thư của nước Pháp và phẩm vật để xin buôn bán. Chúa Nguyễn Phúc Khoát (Võ Vương) trả lời đồng ý cho vào giao thương buôn bán. 
 - Tân Tỵ (1761): Nước Vạn Tượng (Lào) đến cống gồm các phẩm vật: voi đực, sáp ong, sừng tê, khăn đỏ... để tỏ tình thân hữu. Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban lại cho họ gấm vóc, sô, lụa. 
- Quý Tỵ (1773): Trước đây Mạc Thiên Tứ là người của nhà Minh, chống lại nhà Thanh chạy qua lập nghiệp ở đất Hà Tiên, được chúa Nguyễn thu dụng. Nhân việc quân Xiêm đến uy hiếp Hà Tiên, bắt được con trai con gái của Thiên Tứ đem về... Tháng 2 năm Quý Tỵ (1773) chúa Nguyễn Phúc Thuần mật lệnh cho Mạc Thiên Tứ cho người sang Xiêm giảng hòa để dò tình hình. Vua Xiêm liền trả lại con trai con gái cho Mạc Thiên Tứ. Anh em Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ, Nguyễn Huệ nổi lên chống lại chúa Nguyễn, chiếm thành Quy Nhơn, thả tù ra và bắt dân vào lính. Tuần Phủ Nguyễn Khắc Tuyên bỏ chạy. Chúa Nguyễn sai Nguyễn Cửu Thống (chồng công chúa Ngọc Huyên), Nguyễn Cửu Sách (chồng công chúa Ngọc Anh), Phan Tiến, Nguyễn Vệ, Tống Sùng, Đỗ Văn Hoảng đem quân vào đánh đều thất bại. Sùng và Hoảng đều chết trận. Tập Đình và Lý Tài, nguyên là bọn cướp biển bị nhà Thanh truy lùng bèn sang nước ta làm nghề buôn bán nay theo Tây Sơn. Tập Đình có Trung Nghĩa Quân, Lý Tài có Hòa Nghĩa quân gồm những người cao lớn khỏe mạnh, đánh giặc rất hăng, quân chúa Nguyễn không ai địch nổi. Tháng 11 năm đó, chúa sai Tôn Thất Hương đem quân vào đánh, giao chiến tại núi Bích Kê (thuộc tỉnh Bình Định) bị phục binh của Tập Đình và Lý Tài giết. Từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận đều bị quân Tây Sơn chiếm đóng. Trong khi đó, tại kinh đô Phú Xuân của chúa Nguyễn, Trương Phúc Loan chuyên quyền, vơ vét của công, giết hại tôn thất nhà chúa và các trung thần nên lòng người oán giận, cơ nghiệp của chúa Nguyễn lâm nguy từ đó.
 - Ất Tỵ (1785): Sau khi ba vạn quân Xiêm (Thái Lan) do Chiêu Tăng và Chiêu Sương đến giúp chúa Nguyễn Phúc Ánh bị quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đánh bại, chúa  Nguyễn phải chạy ra đảo Thổ Châu (trong vịnh Thái Lan), rồi chạy qua đảo Cổ Cốt, may gặp được binh thuyền của cai cơ Trung cùng với quân Xiêm đến đón qua Xiêm ẩn náu. Đoàn tùy tùng của chúa hơn 200 người và 5 chiến thuyền qua tạm trú trên đất Xiêm, được vua Xiêm cấp cho ruộng để cày cấy tự túc. Trong khi đó, Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh lại đi theo Giám Mục Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine) đã đến thành phố Pondichéry (thuộc địa Pháp tại Ấn Độ) để đợi qua Pháp cầu viện.
 - Đinh Tỵ (1797): Chúa Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long) hoàn toàn chiếm được đất Gia Định (Miền Nam) và tổ chức lại bộ máy hành chánh, kinh tế phát triển, quân đội hùng mạnh, có một số người Pháp đến giúp huấn luyện hải quân, đóng tàu chiến bọc đồng đặt súng đại bác như Tây Phương. Các nước phía Nam trong vùng đều cho người đến giao thương buôn bán, cho sứ đến dâng lễ vật, thừa nhận chúa Nguyễn như là một ông vua đang cai trị một quốc gia hùng mạnh. Bấy giờ quân chúa Nguyễn đã chiếm được vùng Nha Trang (Diên Khánh) và chúa cũng cho người liên lạc với Nguyễn Văn Báu (Bảo), con Nguyễn Nhạc đang bị vua Quang Toản nhà Tây Sơn giam lỏng tại Bồng Sơn (gọi là Tiểu triều) và khuyên Báu làm nội ứng khi quân chúa Nguyễn tới Quy Nhơn... vì Báu có mối thù cha là Nguyễn Nhạc bị Nguyễn Quang Toản (tức Cảnh Thịnh con vua Quang Trung) trước đây đã đem quân ở Thuận Hóa vào Quy Nhơn lật đổ Nguyễn Nhạc... Với đà phát triển này, chỉ hơn 4 năm sau, Nguyễn Phúc Ánh đã đánh thắng Tây Sơn, thống nhất đất nước, lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Gia Long và đổi tên nước là Việt Nam cho đến bây giờ.
 - Kỷ Tỵ (1809): Vua Gia Long, cử Nguyễn Hữu Thận, Tham Tri Bộ Lại làm Chánh Sứ mang lễ vật qua nhà Thanh. Nguyễn Hữu Thận là người làng Đại Hòa, Phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị nổi tiếng rất giỏi về Toán Học và Thiên Văn, rất được người Trung Quốc kính nể. Cũng năm này, vua cử Nguyễn Huỳnh Đức và Lê Chất làm lại con đường Bắc Nam  (nay là Quốc Lộ số 1) đoạn từ Quảng Nam đến Phú Yên, chăng dây theo đường thẳng, bỏ đi những đoạn quanh co để rút ngắn lại cho tiện việc giao thông.
 - Tân Tỵ (1821): Vua Minh Mạng cho lập nhà Thái Học, cho con em trong dòng Tôn Thất vào học. Công việc đào sông An Cựu (Huế) hoàn thành, vua đặt tên là sông Lợi Nông. Vua đích thân đến hai xã An Vân (Thừa Thiên) và Cổ Vưu (Quảng Trị) để xem ruộng lúa của dân trồng xấu tốt ra sao. Vua ra lệnh cho Quốc Sử Quán biên soạn bộ sách Liệt Thánh Thực Lục, cử Nguyễn Văn Nhân làm Tổng Tài, Trịnh Hoài Đức và Phạm Văn Hưng cùng làm công tác biên soạn (Thực Lục và Liệt Truyện là hai bộ chính sử của Triều Nguyễn. Đại Nam Thực Lục Tiền Biên ghi chép công nghiệp của các chúa Nguyễn, và Đại Nam Thực Lục Chánh Biên ghi chép công việc của các vua Nguyễn và Liệt Truyện ghi chép công nghiệp của các công thần dưới thời các chúa Nguyễn. Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên, ghi chép công trạng các công thần... dưới thời các chúa Nguyễn và Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên, ghi chép công nghiệp của các công thần... dưới thời các vua Nguyễn). Sứ nhà Thanh đến Hà Nội, vua Minh Mạng đích thân ra Bắc để tiếp đón.
 - Ất Tỵ (1845): Dưới đời vua Thiệu Trị, vua Chân Lạp (Campuchia) là Nặc Ông Đôn chạy qua Xiêm (Thái Lan) dẫn quân về quấy phá, đánh lấy lại thành Nam Vang. Vua sai Võ Văn Giải đem quân vào Gia Định cùng Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị đánh lấy lại thành Nam Vang, người Chân Lạp ra hàng đến 23.000. Bắt được Giám Mục Người Pháp là Lefèbvre hoạt động truyền giáo tại miền Trung, vua ra lệnh xử tử. Thiếu Tướng Pháp là Cécile đem tàu chiến đến can thiệp, xin lãnh Giám Mục ra khỏi tù. 
- Kỷ Tỵ (1869): Dư đảng của Hồng Tú Toàn bên Trung Quốc là Ngô Côn chạy sang nước ta, đem quân đi cướp phá các nơi và chiếm thành Cao Bằng vào năm 1868 (Mậu Thìn). Vua Tự Đức sai Phạm Chi Hương đi đánh. Ông đã viết thư xin nhà Thanh giúp. Quân nhà Thanh do Phó Tướng Tạ Kế Quý hợp  với quân Việt Nam do Ông Ích Khiêm chỉ huy, mãi đến tháng 5 năm Kỷ Tỵ (1869) mới chiếm lại được thành Cao Bằng. Qua năm sau, 1870 (Canh Ngọ), Ngô Côn bị Ông Ích Khiêm bắn chết tại Bắc Ninh. Bọn đàn em Ngô Côn là Hoàng Sùng Anh (Cờ Vàng), Lưu Vĩnh Phúc (Cờ Đen) và Bành Văn Nhị (Cờ Trắng) vẫn còn đi quấy phá khắp nơi. Về sau, bọn chúng đã về hợp tác với quân triều đình để đánh Pháp. 
- Tân Tỵ (1881): Vua Tự Đức sai Phạm Bính đem 12 học sinh sang Hồng Kông cho đi học ở trường của người Anh, rồi cho người bí mật liên lạc với nước Xiêm (Thái Lan) và Trung Hoa mà không cho nước Pháp biết. Chính phủ Pháp phản đối triều đình Huế không tôn trọng Hòa Ước Giáp Tuất (1874) đã ký kết với Pháp.
 - Quý Tỵ (1893): Phan Đình Phùng lập chiến khu chống Pháp ở Ngàn Trươi, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Cao Thắng giúp chế được súng ống. Hoạt động trong vòng mười năm thì tan rã.
 - Ất Tỵ (1905): Nga-Nhật chiến tranh, Nhật thắng Nga, các nhà cách mạng Việt Nam như Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Cường Để trốn qua Trung Hoa rồi qua Nhật vận động Nhật giúp đỡ Việt Nam đánh Pháp. Một số thanh niên Việt Nam được bí mật đưa qua Nhật để du học gọi là “Phong Trào Đông Du”. Về sau Nhật bắt tay với Pháp trục xuất người Việt Nam nên các cụ Phan Bội Châu, Cường Để và anh em thanh niên Việt Nam phải lánh qua Trung Quốc... 
 - Đinh Tỵ (1917): Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra tại Âu Châu, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã tuyển mộ một số lính Việt Nam đưa qua Pháp làm lính thợ (ONS: Ouvriers non spécialisés), nhân cơ hội đó vào năm 1916 (Bính Thìn) các ông Thái Phiên, Trần Cao Vân đã vận động số lính này tham gia cuộc khởi nghĩa chống Pháp và đưa vua Duy Tân trốn ra khỏi kinh thành Huế để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Việc bất thành, vua bị đày, các nhà cách mạng Thái Phiên, Trần Cao Vân v.v... bị xử tử, hàng ngàn người bị tù tội... Do ảnh hưởng của biến cố 1916 mà năm 1917, nhiều thành phần yêu nước chống Pháp và gia đình gặp cảnh đau khổ. Vua Khải Định mới lên thay thế vua Duy Tân, chính sách mềm dẻo, cầu an, hoàn toàn tuân theo mệnh lệnh của Pháp.
 - Kỷ Tỵ (1929): Ở miền Bắc, Việt Nam Quốc Dân Đảng hoạt động mạnh chuẩn bị khởi nghĩa vào năm Canh Ngọ (1930). Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái Học thành lập năm 1927 tại Hà Nội, chủ trương đánh Pháp giành độc lập. Sau cuộc khởi nghĩa tại Yên Báy thất bại, Nguyễn Thái Học và 12 liệt sĩ bị xử tử, hàng trăm đảng viên bị tù... 
 - Tân Tỵ (1941): Chiến tranh Thế Giới Lần Thứ Hai bùng nổ, quân Nhật chiếm Trung Hoa và đem quân vào Đông Dương, các ông Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần và các nhà cách mạng Việt Nam lưu vong tại Trung Hoa thành lập Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội dựa vào thế lực Đồng Minh để chống Nhật. Lợi dụng lúc quân Nhật có mặt ở Đông Dương, người Pháp đang lúc yếu thế, các tổ chức yêu nước như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt Quốc Dân Đảng (của Trương Tử Anh), Đảng Cộng Sản (của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh) hoạt động mạnh ở trong nước. Phục Quốc Quân của Trần Trung Lập theo chân quân Nhật vào Lạng Sơn..., về sau Nhật bắt tay với Pháp nên để mặc cho Pháp đem quân đội, máy bay đánh phá Phục Quốc Quân, do đó, lực lượng của Trần Trung Lập tan rã.
 - Quý Tỵ (1953): Từ 1949, Pháp trao trả độc lập cho Việt Nam. Cựu hoàng Bảo Đại từ Hồng Kông về nước lập chính phủ Quốc Gia. Năm 1953 (Quý Tỵ), tình hình chiến tranh giữa Việt Minh và Pháp-Bảo Đại đến hồi gay cấn. Nhờ Trung Cộng viện trợ, Việt Minh mở các cuộc tấn công lớn ở vùng biên giới Việt-Trung, quân Pháp thua và lập căn cứ Điện Biên Phủ để quyết một trận được thua với Việt Minh (Cộng Sản) tại Đông Dương. Tại Sàigòn, Phong Trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình ra đời quy tụ các đảng phái Quốc Gia, các tôn giáo và nhân sĩ trí thức trong nước gồm 64 nhân vật tên tuổi, do ông Nguyễn Tôn  Hoàn (nhân vật Đại Việt) làm Chủ Tịch, các ông Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Ngô Đình Nhu, Trần Văn Lý, Hà Thúc Ký, Nguyễn Thành Phương, Trần Văn Ân, Nguyễn Giác Ngộ v.v… đại diện các miền Bắc, Trung, Nam... đưa ra cương lĩnh ủng hộ Quốc Trưởng Bảo Đại, chủ trương thống nhất lãnh thổ, bầu cử Quốc Hội, ban hành Hiến Pháp dân chủ... Tháng 5-1954, Việt Minh chiếm được Điện Biên Phủ. Ngày 7-7-1954, ông Ngô Đình Diệm lập chính phủ tại Sài gòn và 20-7-1954, Việt Minh và Pháp ký kết hiệp định đình chiến tại Đông Dương (họp tại Genève) chia đôi Việt Nam từ vĩ tuyến 17 ra Bắc dưới quyền Hồ Chí Minh, từ vĩ tuyến 17 vào Nam thuộc quyền Bảo Đại và Ngô Đình Diệm. Một triệu người bỏ nhà cửa, quê hương từ miền Bắc di cư vào Nam sau hiệp định này. 
- Ất Tỵ (1965): Tại Sàigòn, chính phủ Nguyễn Khánh phải rút lui và trao quyền lại cho Quân Đội do Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia tức Quốc Trưởng) và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ (Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức Thủ Tướng Chính Phủ) lãnh đạo để đối phó với tình hình chính trị và quân sự quá trầm trọng tại miền Nam. Quân Mỹ đổ bộ vào Miền Nam để giúp cứu vãn tình hình. 
- Đinh Tỵ (1977): Phần lớn sĩ quan và nhân viên hành chánh thuộc VNCH bị Cộng Sản VN đày ra miền Bắc lao động khổ sai trong các trại tù cải tạo, đồng thời chúng thi hành chính sách diệt tư sản mại bản, tịch thu nhà cửa, tài sản, bắt dân đi vùng kinh tế mới, kiểm soát lúa gạo, thực phẩm, hàng hóa khiến cho dân chúng phải khốn khổ trăm bề. Những người tìm đường vượt biên bị bắt, bị cướp, bị hãm hiếp hoặc bị chết trên sông trên biển... Hàng trăm ngàn người thoát được đến các trại tỵ nạn vùng Đông Nam Á... Các cuộc tranh đấu chống lại chế độ Cộng Sản của các tôn giáo, các lực lượng chính trị đối lập nhất là phong trào “phục quốc” nổi lên khắp nơi, nhiều người bị bắt, bị xử tử hoặc bị đối xử dã man trong các nhà tù...
 - Kỷ Tỵ (1991): Từ năm 1987, Mỹ và Cộng Sản Việt Nam  đã thỏa thuận chương trình định cư cho tù nhân chính trị sau khi được trả tự do, được định cư tại Hoa Kỳ... Chương trình HO bắt đầu thực hiện từ năm 1989-1990, một số người đầu tiên (HO-1... ) đã lên đường qua trại chuyển tiếp ở Thái Lan để qua Mỹ. Năm 1991 (Kỷ Tỵ), nhiều cựu tù nhân chính được ra đi theo chương trình HO. Các tổ chức chính trị đối lập bị bắt, bị đưa ra xét xử trong đó có Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt, Luật Sư Đoàn Thanh Liêm v.v…
 - Năm Tân Tỵ (2001): Bước vào thế kỷ 21, niềm lo sợ có tận thế vào năm 2000 đã qua nhưng tình hình thế giới và trong nước Việt Nam đang còn hứa hẹn nhiều biến cố. Từ thiên tai, bão lụt, đến các phong trào tranh đấu đòi tự do tôn giáo, đòi dân chủ và nhân quyền mỗi ngày một lớn mạnh đang là mối đe dọa cho chế độ Cộng Sản tại Việt Nam. Cộng Sản có tiếng là khôn ngoan và hiểm độc như con rắn, chắc sẽ có nhiều mưu mô quỷ quyệt... Chờ xem chúng sẽ giở trò gì trong năm Tân Tỵ này?
 - Năm Quý Tỵ (2013): Từ năm 2010, dư luận Việt Nam xôn xao sẽ có thay đổi Hiến Pháp, sẽ thực hiện các quyền tự do dân chủ cho dân. Các tôn giáo, nhân sĩ trí thức trong nước hăng hái góp ý thay đổi Hiến Pháp, với đầy tràn hy vọng… nhưng đây chỉ là trò lừa dối cố hữu của Đảng Cộng Sản Độc Tài, “Vũ Như Cẩn” là câu nói mỉa mai của người dân, nghĩa là “Vẫn Như Cũ”… 
- Năm Ất Tỵ (2025): Riêng những người sinh năm Ất Tỵ (1965), năm này là năm Tuổi, chẵn một giáp 60 năm. Qua năm Ất Tỵ (2025) là 61 tuổi ta. Tuổi Tỵ mà mệnh có sao Phục Binh là người khôn ngoan và nhiều thủ đoạn, nhất là trong lãnh vực chính trị. Thánh Kinh nói: “Hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như chim bồ câu”. Người Việt Nam chúng ta có câu: “Khẩu Phật, tâm xà” (Miệng thì nói đạo đức như Phật mà lòng thì độc ác như con rắn), lại có câu: “Cõng rắn về cắn gà nhà”... Nói chung thì loài người rất ngại con rắn, rất ghét con rắn. Trong Kinh Thánh (Cựu Ước) Rắn là loài bị chúc dữ, rắn  bị đánh đuổi khắp nơi... Ca dao có câu: “Trứng Rồng thì nở ra Rồng; Liu điu vẫn cứ một giòng liu điu” (liu điu là tên một loài rắn nhỏ bé). Ông Lê Quý Đôn, một nhà thông thái đời Lê có bài thơ về Rắn như sau. Đặc biệt trong bài thơ này, ông lấy tên các loài rắn để đặt thơ... 
 Chẳng phải “liu điu” cũng giống nhà, 
“Rắn” đầu chẳng học, quyết không tha.
 “Thẹn đèn”, “hổ lửa” đau lòng mẹ, 
Nay thét, “mai gầm” rát cổ cha. 
Tính vốn đã quen lời lếu láo,
 “Lằn” môi chém mãi vệt dăm ba. 
Từ nay Châu Lỗ xin siêng học,
 Kẻo phải mang danh tiếng thế gia. 
Những chữ trong dấu ngoặc kép là tên riêng của các loài rắn. Hiện nay ở Việt Nam đang có phong trào nuôi trăn, nuôi rắn để bán ra thị trường, xuất khẩu qua Trung Quốc. Phong trào ăn thịt rắn, lấy mật rắn hay xác rắn ngâm rượu cũng rất thịnh hành. Rắn vẫn đem lại ích lợi cho loài người, thịt ăn ngon, mật rắn chữa bệnh. Chúng ta nên chọn phần tốt, hữu ích và tránh phần xấu, bất lợi. Cầu mong may mắn đến với mọi người trong năm Tỵ và “năm tuổi” đối với CSVN vì mọi người đều ví Cộng Sản độc hại như rắn!            Tình hình Việt Nam (2024) trước khi TBT Nguyễn Phú Trọng chết, Tô Lâm đang là Chủ Tịch Nước kiêm luôn Tổng Bí Thư, tiếp tục đốt lò, loại Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ (trong tứ trụ…). Lợi dung trong lúc Tô Lâm xuất ngoại (qua Mỹ), Tập Cận Bình gọi Lương Cường (Đại Tướng) qua chầu thiên triều… Khi Tô Lâm trở về nước thì Lương Cường đã được Quốc Hội đưa lên làm Chủ Tịch Nước, chia bớt quyền của Tô Lâm… Tô Lâm tiếp tục “đốt lò” và đang xích lại gần với Mỹ… làm cho Tập Cận Bình hoảng hốt… 
    Tình hình chính trị Hoa Kỳ: Năm Giáp Thìn (2024) là năm bầu cử Tổng Thống tại Hoa Kỳ. Ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa, ông Donald Trump, Tổng Thống thứ 45 tái tranh cử và  đắc cử vẻ vang, chiếm đa số 312 phiếu cử tri đoàn, chiếm đa số phiếu phổ thông, hơn ứng cử viên Đảng Dân Chủ, đương kim Phó Tổng Thống Kamala Harris trên 5 triệu phiếu phổ thông và 86 phiếu cử tri đoàn (Harris 226 phiếu cử tri đoàn). Đảng Cộng Hòa chiếm đa số tại Lưỡng Viện Quốc Hội. Tổng Thống 47 của Hoa Kỳ là Donald Trump tuyên thệ nhậm chức (Lễ Đăng Quang) vào ngày 20/1/2025, trước Tết Ất Tỵ, mở ra một kỷ nguyên mới cho Hoa Kỳ và Thế Giới… 
   Hy vọng sẽ mang lại Hòa Bình, Thịnh Vương cho Hoa Kỳ và Thế Giới, ngăn chặn được chiến tranh thế giới lần thứ III. Đảng Dân Chủ đại bại, hứa hẹn sẽ tái đấu vào bầu cử Quốc Hội giữa nhiệm kỳ (2026) và bầu cử Tổng Thống năm 2028 sắp tới. Tình hình thế giới hiện đang căng thẳng… Hy vọng sau ngày 20/1/2025, Tổng Thống Donald Trump chính thức lãnh đạo Hoa Kỳ, sẽ ổn định được tình hình… 
Nguyễn Lý Tưởng sưu tầmMinh và Pháp-Bảo Đại đến hồi gay cấn. Nhờ Trung Cộng viện trợ, Việt Minh mở các cuộc tấn công lớn ở vùng biên giới Việt-Trung, quân Pháp thua và lập căn cứ Điện Biên Phủ để quyết một trận được thua với Việt Minh (Cộng Sản) tại Đông Dương. Tại Sàigòn, Phong Trào Đại Đoàn Kết và Hòa Bình ra đời quy tụ các đảng phái Quốc Gia, các tôn giáo và nhân sĩ trí thức trong nước gồm 64 nhân vật tên tuổi, do ông Nguyễn Tôn  Hoàn (nhân vật Đại Việt) làm Chủ Tịch, các ông Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Ngô Đình Nhu, Trần Văn Lý, Hà Thúc Ký, Nguyễn Thành Phương, Trần Văn Ân, Nguyễn Giác Ngộ v.v… đại diện các miền Bắc, Trung, Nam... đưa ra cương lĩnh ủng hộ Quốc Trưởng Bảo Đại, chủ trương thống nhất lãnh thổ, bầu cử Quốc Hội, ban hành Hiến Pháp dân chủ... Tháng 5-1954, Việt Minh chiếm được Điện Biên Phủ. Ngày 7-7-1954, ông Ngô Đình Diệm lập chính phủ tại Sài gòn và 20-7-1954, Việt Minh và Pháp ký kết hiệp định đình chiến tại Đông Dương (họp tại Genève) chia đôi Việt Nam từ vĩ tuyến 17 ra Bắc dưới quyền Hồ Chí Minh, từ vĩ tuyến 17 vào Nam thuộc quyền Bảo Đại và Ngô Đình Diệm. Một triệu người bỏ nhà cửa, quê hương từ miền Bắc di cư vào Nam sau hiệp định này. 
- Ất Tỵ (1965): Tại Sàigòn, chính phủ Nguyễn Khánh phải rút lui và trao quyền lại cho Quân Đội do Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia tức Quốc Trưởng) và Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ (Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương tức Thủ Tướng Chính Phủ) lãnh đạo để đối phó với tình hình chính trị và quân sự quá trầm trọng tại miền Nam. Quân Mỹ đổ bộ vào Miền Nam để giúp cứu vãn tình hình. 
- Đinh Tỵ (1977): Phần lớn sĩ quan và nhân viên hành chánh thuộc VNCH bị Cộng Sản VN đày ra miền Bắc lao động khổ sai trong các trại tù cải tạo, đồng thời chúng thi hành chính sách diệt tư sản mại bản, tịch thu nhà cửa, tài sản, bắt dân đi vùng kinh tế mới, kiểm soát lúa gạo, thực phẩm, hàng hóa khiến cho dân chúng phải khốn khổ trăm bề. Những người tìm đường vượt biên bị bắt, bị cướp, bị hãm hiếp hoặc bị chết trên sông trên biển... Hàng trăm ngàn người thoát được đến các trại tỵ nạn vùng Đông Nam Á... Các cuộc tranh đấu chống lại chế độ Cộng Sản của các tôn giáo, các lực lượng chính trị đối lập nhất là phong trào “phục quốc” nổi lên khắp nơi, nhiều người bị bắt, bị xử tử hoặc bị đối xử dã man trong các nhà tù...
 - Kỷ Tỵ (1991): Từ năm 1987, Mỹ và Cộng Sản Việt Nam  đã thỏa thuận chương trình định cư cho tù nhân chính trị sau khi được trả tự do, được định cư tại Hoa Kỳ... Chương trình HO bắt đầu thực hiện từ năm 1989-1990, một số người đầu tiên (HO-1... ) đã lên đường qua trại chuyển tiếp ở Thái Lan để qua Mỹ. Năm 1991 (Kỷ Tỵ), nhiều cựu tù nhân chính được ra đi theo chương trình HO. Các tổ chức chính trị đối lập bị bắt, bị đưa ra xét xử trong đó có Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế, Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt, Luật Sư Đoàn Thanh Liêm v.v…
 - Năm Tân Tỵ (2001): Bước vào thế kỷ 21, niềm lo sợ có tận thế vào năm 2000 đã qua nhưng tình hình thế giới và trong nước Việt Nam đang còn hứa hẹn nhiều biến cố. Từ thiên tai, bão lụt, đến các phong trào tranh đấu đòi tự do tôn giáo, đòi dân chủ và nhân quyền mỗi ngày một lớn mạnh đang là mối đe dọa cho chế độ Cộng Sản tại Việt Nam. Cộng Sản có tiếng là khôn ngoan và hiểm độc như con rắn, chắc sẽ có nhiều mưu mô quỷ quyệt... Chờ xem chúng sẽ giở trò gì trong năm Tân Tỵ này?
 - Năm Quý Tỵ (2013): Từ năm 2010, dư luận Việt Nam xôn xao sẽ có thay đổi Hiến Pháp, sẽ thực hiện các quyền tự do dân chủ cho dân. Các tôn giáo, nhân sĩ trí thức trong nước hăng hái góp ý thay đổi Hiến Pháp, với đầy tràn hy vọng… nhưng đây chỉ là trò lừa dối cố hữu của Đảng Cộng Sản Độc Tài, “Vũ Như Cẩn” là câu nói mỉa mai của người dân, nghĩa là “Vẫn Như Cũ”… 
- Năm Ất Tỵ (2025): Riêng những người sinh năm Ất Tỵ (1965), năm này là năm Tuổi, chẵn một giáp 60 năm. Qua năm Ất Tỵ (2025) là 61 tuổi ta. Tuổi Tỵ mà mệnh có sao Phục Binh là người khôn ngoan và nhiều thủ đoạn, nhất là trong lãnh vực chính trị. Thánh Kinh nói: “Hãy khôn ngoan như con rắn và hiền lành như chim bồ câu”. Người Việt Nam chúng ta có câu: “Khẩu Phật, tâm xà” (Miệng thì nói đạo đức như Phật mà lòng thì độc ác như con rắn), lại có câu: “Cõng rắn về cắn gà nhà”... Nói chung thì loài người rất ngại con rắn, rất ghét con rắn. Trong Kinh Thánh (Cựu Ước) Rắn là loài bị chúc dữ, rắn  bị đánh đuổi khắp nơi... Ca dao có câu: “Trứng Rồng thì nở ra Rồng; Liu điu vẫn cứ một giòng liu điu” (liu điu là tên một loài rắn nhỏ bé). Ông Lê Quý Đôn, một nhà thông thái đời Lê có bài thơ về Rắn như sau. Đặc biệt trong bài thơ này, ông lấy tên các loài rắn để đặt thơ... 
 Chẳng phải “liu điu” cũng giống nhà, 
“Rắn” đầu chẳng học, quyết không tha.
 “Thẹn đèn”, “hổ lửa” đau lòng mẹ, 
Nay thét, “mai gầm” rát cổ cha. 
Tính vốn đã quen lời lếu láo,
 “Lằn” môi chém mãi vệt dăm ba. 
Từ nay Châu Lỗ xin siêng học,
 Kẻo phải mang danh tiếng thế gia. 
Những chữ trong dấu ngoặc kép là tên riêng của các loài rắn. Hiện nay ở Việt Nam đang có phong trào nuôi trăn, nuôi rắn để bán ra thị trường, xuất khẩu qua Trung Quốc. Phong trào ăn thịt rắn, lấy mật rắn hay xác rắn ngâm rượu cũng rất thịnh hành. Rắn vẫn đem lại ích lợi cho loài người, thịt ăn ngon, mật rắn chữa bệnh. Chúng ta nên chọn phần tốt, hữu ích và tránh phần xấu, bất lợi. Cầu mong may mắn đến với mọi người trong năm Tỵ và “năm tuổi” đối với CSVN vì mọi người đều ví Cộng Sản độc hại như rắn!            Tình hình Việt Nam (2024) trước khi TBT Nguyễn Phú Trọng chết, Tô Lâm đang là Chủ Tịch Nước kiêm luôn Tổng Bí Thư, tiếp tục đốt lò, loại Nguyễn Xuân Phúc, Võ Văn Thưởng, Vương Đình Huệ (trong tứ trụ…). Lợi dung trong lúc Tô Lâm xuất ngoại (qua Mỹ), Tập Cận Bình gọi Lương Cường (Đại Tướng) qua chầu thiên triều… Khi Tô Lâm trở về nước thì Lương Cường đã được Quốc Hội đưa lên làm Chủ Tịch Nước, chia bớt quyền của Tô Lâm… Tô Lâm tiếp tục “đốt lò” và đang xích lại gần với Mỹ… làm cho Tập Cận Bình hoảng hốt… 
    Tình hình chính trị Hoa Kỳ: Năm Giáp Thìn (2024) là năm bầu cử Tổng Thống tại Hoa Kỳ. Ứng cử viên của Đảng Cộng Hòa, ông Donald Trump, Tổng Thống thứ 45 tái tranh cử và  đắc cử vẻ vang, chiếm đa số 312 phiếu cử tri đoàn, chiếm đa số phiếu phổ thông, hơn ứng cử viên Đảng Dân Chủ, đương kim Phó Tổng Thống Kamala Harris trên 5 triệu phiếu phổ thông và 86 phiếu cử tri đoàn (Harris 226 phiếu cử tri đoàn). Đảng Cộng Hòa chiếm đa số tại Lưỡng Viện Quốc Hội. Tổng Thống 47 của Hoa Kỳ là Donald Trump tuyên thệ nhậm chức (Lễ Đăng Quang) vào ngày 20/1/2025, trước Tết Ất Tỵ, mở ra một kỷ nguyên mới cho Hoa Kỳ và Thế Giới… 
   Hy vọng sẽ mang lại Hòa Bh, Thịnh Vương cho Hoa Kỳ và Thế Giới, ngăn chặn được chiến tranh thế giới lần thứ III. Đảng Dân Chủ đại bại, hứa hẹn sẽ tái đấu vào bầuHội giữa nhiệm kỳ (2026) và bầu cử Tổng Thống năm 2028 sắp tới. Tình hình thế giới hiện đang căng thẳng… Hy vọng sau ngày 20/1/2025, Tổng Thống Donald Trump chính thức lãnh đạo Hoa Kỳ, sẽ ổn định được tình hình… 
Nguyễn Lý Tưởng sưu tầm

Không có nhận xét nào: