Thứ Ba, 30 tháng 9, 2014

Tóm Tắt Luật thơ Đường - Khôi Nguyên

        Vài Hàng Tóm Tắt Về Thơ Đường Luật                                                                         

Sau 1,000 năm Bắc thuộc, nền văn hóa nước ta bị ảnh hưởng
nền văn hóa Trung Hoa một cách trầm trọng.
           Riêng về mặt thi phú, vào thời nhà Hán, Trung Hoa cũng đã tiến lắm rồi, nhưng phải đợi cho đến đời nhà Đường mới là thời cực thịnh và có thơ Đường Luật ra đời.
           Thơ Đường Luật có những luật lệ ràng buộc, đòi hỏi thi sĩ phải tuân hành nghiêm chỉnh. Nếu ai sai phạm hoặc không tuân thủ thì thơ của họ gọi là thơ cổ, thơ tự do hay Cổ Phong.
           Thơ Đường Luật thông dụng là thơ Thất Ngôn Bát Cú luât bằng vần bằng và thơ Thất Ngôn Bát Cú luật trắc vần bằng.           Thể thơ này gồm có 8 câu mỗi câu 7 chữ và 5 vần ở cuối câu 1-2-4-6-8
Tám câu phải diễn tả cho đủ nghĩa bài thơ giống như một bức tranh đã hoàn tất
           Tám câu đó được bố cục và gọi như sau:
-       Câu 1& 2 gọi là Đề (phá đề và thừa đề): mở bài.
-       Câu 3 & 4 gọi là Thực (trạng): giải thích thêm đề.
           Hai câu này phải đối nhau.
-       Câu 5 & 6 gọi là Luận: bàn rộng thêm đề.
           Hai câu này phải đối nhau.
-       Câu 7 & 8 gọi là Kết: kết thúc đề.
Khi làm xong bài thơ, ghép đề và kết lại, xem bài thơ có bị lạc đề không ? Như thế, một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú có thể tách ra 4 bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt bằng cách ghép:
                      Đề và Thực.
                      Luận và Kết.
                      Thực và Luận.
                      Đề và Kết.

Nhiều đoạn Tứ Tuyệt ghép lại thành Thất Ngôn Trường Thiên..
Mỗi đoạn thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt  phải theo luật của của của bài Thất Ngôn Bát Cú, nhưng không cần đối, nếu có đối càng hay.
Một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú gồm có 56 chữ Bằng, Trắc kết hợp nhau và được diễn tả bằng ký hiệu:
B: thanh bằng: chữ có dấu huyền hoặc không có dấu.
- T: thanh trắc: chữ có dấu sắc, dấu hỏi, dấu ngã, hoặc dấu nặng.
- V: một bài Thất Ngôn Bát Cú có 5 vần ở cuối câu 1-2-4-6-8 .
           
Sau đây hai bài thơ Đường Luật thông dụng để minh họa :
           
     Luật Bằng vần Bằng
            Anh Nói Khoác
Ta con ông Cống cháu ông Nghè           BBTTTBB ( V )
Nói có trên trời dưới đất nghe                TTBBTTB ( V )
Sức mạnh Hạng Vương cho một búng   TTBBBTT
Cờ cao Đế Thích chấp đôi xe                  BBTTTBB ( V )
Nhảy ùm xuống biển lôi tàu lại               BBTTBBT
Chạy tốc lên non cõng cọp về                 TTBBTTB ( V )
Độ nọ vào chơi trong nội phủ                 TTBBBTT
Ba ngàn công chúa phải lòng mê             BBTTTBB ( V )
           Khuyết danh
        Luật Trắc Vần Bằng
        Quốc Kêu Cảm Hứng

Khắc khoải sầu đưa giọng lửng lơ          TTBBTTB ( V )
Ấy hồn Thục Đế thác bao giờ?               BBTTTBB ( V )
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,        BBTTBBT
Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ .       TTBBTTB ( V )
Có phải tiếc Xuân mà đứng gọi              TTBBBTT
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?              BBTTTBB ( V )
Thâu đêm ròng rã kêu ai đó                    BBTTBBT
Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ .       TTBBTTB ( V )
           Nguyễn Khuyến

Luật Bằng Trắc cho phép  1-3-5 Bất Luận ,
Nhưng vì ảnh hưởng Âm Điệu của bài thơ,
Chữ thứ 5 trước các câu có vần (1-2-4-6-8) nên dùng T thì hơn. Còn chữ thứ 5 câu không có vần (3-5-7) B mà lỗi ra T thì bị phạm luật “Khổ Độc)
                                           2- 4- 6 Phân Minh

Niêm Luật

Những câu trong bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật mà có chữ thứ 2 giống nhau về Luật hoặc cùng Bằng hoặc cùng Trắc thì được gọi là “Những câu niêm với nhau.” Niêm là giữ cứng, nối chặt lại. Nếu tác giả làm bài thơ bị lỗi về niêm luật thì bài thơ được gọi là “Thất Niêm”
 Xin lưu ý Luật bài thơ Luật Bằng Vần Bằng dưới đây:

Câu 1 :           _B_T_B B
        2  :          _T_B_T B
        3:            _T_B_T T
        4:            _B_T_B B
        5:            _B_T_B T
        6 :           _T_B_T B

        7:            _T_B_T -T
        8:            _B_T_B B

  
Ta thấy câu 1 niêm với 8 (vì chữ thứ 2 cùng Bằng)
                     2   niêm với   3  (vì chữ thứ 2 cùng Trắc)
                     4   niêm với   5  (vì chữ thứ 2 cùng Bằng)
                     6   niêm với   7  (vì chữ thứ 2 cùng Trắc)
                         
 Luật Đối

Một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú phải đối nhau ở câu 3 & 4, 5 & 6. Có 3 cách đối:
-       Đối thanh:  BT
-       Đối ý: Thuận, nghịch  hoặc khác ý với tác giả
-       Đối từ: danh từ, động từ, tĩnh từ, trạng từ… đối với nhau.
Đối ở Thực và Luận là tinh hoa của bài thơ,
Nó giúp đo lường trình độ làm thơ Đường
Luật của tác giả. Bài thơ thất đối, dù có nội
dung hay thế mấy cũng chỉ là bài thơ tự do
hay Cổ Phong.
 Luật Xướng Họa
        - Nếu bài Xướng theo Luật Trắc thì bài Họa thứ nhất phải
theo Luật Bằng và ngược lại. Những bài Họa thứ hai trở về sau được Bất Luận.  Kẹt lắm, bài Họa mới dùng cùng Luật với bài
Xướng, nhưng sẽ bị giảm giá đi.
         - Họa là vẽ hình của bài Xướng; vì vậy phải trung thực về ý cũng như về vần
         - 
Tránh dùng lại các chữ trong bài Xướng, ngoại trừ bất khả kháng.


          - Không được xài lại chữ thứ 6 của nhưng câu có vần của
bài Xướng (câu 1-2-4-6-8). Nếu dùng trùng thì phạm "
Khắc Lục."
          
 - Không được dùng Đồng Âm Dị Nghĩa 5 chữ Vần.
           - Bài Họa phải cùng tựa và cùng ý với bài Xướng. Họa sai ý
là không đạt.           - Thí dụ minh họa "Tôn Phu Nhân Qui Thục"

 
                  Xướng                                                  Họa

Cật ngựa, thanh gươm vẹn chữ tòng     Cài trâm sửa áo vẹn câu                                                                      tòng
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông        Mặt ngả trời chiều biệt cõi                                                                   Đông.
Lìa Ngô  bịn rịn chòm mây bạc,             Khói (1) tỏa đồi Ngô ùn sắc                                                                 trắng,
Về Hán trau tria mảnh má hồng.             Duyên về đất Thục đượm                                                                    màu hồng.
Son phấn thà cam giầy gió bụi,               Hai vai tơ tóc bền son sắt,
                
Đá vàng chi để thẹn non sông                 Một gánh cương thương                                                                     nặng núi sông.
Ai về nhắn với Chu Công Cẩn                Anh hỡi Tôn Quyền! Anh                                                                    có biết?
Thà mất lòng anh, đặng bụng chồng.     Trai ngay thờ Chúa, gái                                                                        thờ chồng.

           (1) Có bài viết Ngút, Ngát (trạng từ)
              Tôn Thọ Tường                               Phan Văn Trị
            
 Điệu Thơ

           - Nhịp Điệu: Cách ngắt giọng 2-2-3 hoặc 4-3 khi đọc câu thơ.

- Âm Điệu:  Cách xếp âm theo luật B T để nghe êm tai.

- Vần Điệu: Gieo vần ở cuối các câu 1-2-4-6-8 chữ không dấu
   và chữ có dấu huyền xen nhau.
                          Khôi Nguyên Sưu Tầm và Biên Soạn

                      Kinh thưa quý Anh, quý Chị,
               Từ thời Chính Phủ Trần Trọng Kim, các Học Giả, Nhân Sĩ như Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Vĩnh, Trần Dần ...v v xướng lên Phong Trào Thơ Mới và đã được Trí Thức ủng hộ rất đông.
                Tưởng thế là Thơ Đường sẽ bị xuống dốc và mai một. Nào ngờ thơ Đường vẫn tồn tại và mãi phát triển cho đến ngày hôm nay. Giờ này thơ Đường chẳng những được quý Cụ yêu thích mà các bạn trẻ cũng hưởng ứng Xướng Họa với nhau nữa. 
                  Phụ lực và để giải trí tuổi già, tôi xin được phép sưu tầm và tóm tắt một số nhỏ luật cơ bản hướng dẫn cách làm Thơ Đường để giúp các bạn Trẻ dễ dàng tham khảo.
                  Tôi đã gửi bản tóm tắt này đến quý Anh, quý Chị, nếu có thể được, xin cho lên Blog.  Xin chân thành đa tạ. Trân trọng kính chào!  

Khôi Nguyên 



Thứ Hai, 29 tháng 9, 2014

Cái Khó Khi Làm Thơ Đường - Nguyễn Cang

          Cái Khó Khi Làm Thơ Đường
                                  Nguyễn Cang        

 Mở bài:  Hiện tại, có nhiều người trong nước cũng như hải ngoại làm thơ Đường. Bỗng dưng nó trở thành cái mốt, mà có mới mẻ gì đâu thể loại thơ nầy? Nó được các vua quan nước ta đưa vào quy chế trong các cuộc thi tuyển lựa nhân tài ra giúp nước từ mấy thế kỷ trước.  Ở hải ngoại cũng như trong nước nhiều câu lạc bộ, hội thơ Đường được thành lập, nhỏ hơn một chút thì có vườn thơ Đường, góc thơ Đường, chùm thơ Đường v.v.  Đặc biệt có sự tham gia của các bạn trẻ làm thành phong trào giống như phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1945 vậy. Tôi không rõ do đâu mà phong trào lên nhanh, có thể do nhàn hạ sau khi "tang bồng trang trắng vỗ tay reo" thì các cụ muốn tìm thú vui giải trí vừa thanh tao vừa luyện cho trí não khỏi bị suy thoái.  Bạn mình làm được bài thơ hay bèn khoe cho bạn khác biết tạo  thành luồng điện lan nhanh.  Còn các bạn trẻ thấy cha mẹ làm thơ cũng bắt chước làm thử, đọc lên nghe được bèn làm tiếp, nhưng cũng có thể do bế tắc trong cuộc sồng nên tìm quên lãng trong tiếng thơ.  
Có thể nói bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật là thể thơ khó làm nhất vì nó có nhiều luật lệ ràng buộc mà nếu ta không nắm vững thì sẽ bị thất luật, thất niêm, biến thành thơ cổ phong hay thơ tự do và bị xếp vào loại non nớt, ấu trĩ.  Bài thơ hạn định trong 8 câu, mỗi câu 7 chữ, nghĩa là có tất cả 56 chữ thôi nhưng mỗi chữ phải được đặt ở một vị trí nhất định theo đúng luật bằng trắc.  Có thể sánh những chữ trong bài như một quân cờ trong bàn cờ thế.  Quả thực nó khó làm, nhưng khó nhất là điểm nào?

Vài Điều Căn Bản:  
Có những điều căn bản sau đây mà ta cần nắm vững trước khi giải quyết vấn đề. Trong thể loại thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật có thể nói là một sự kết tinh thống nhất kỳ diệu giữa ngôn  ngữ và âm nhạc, giữa tình và lý, giữa nghệ thuật và khoa học thể hiện đồng thời trong năm yệú tố sau đây: niêm, luật, vần, đối, và kết cấu. Trong 5 yếu tố đó thì "đối" là quan trọng nhất. 

* Mỗi âm tiết đều mang dấu giọng cao thấp nên người ta chia ra hai loại là thanh trắc và thanh bằng. Thanh trắc là những tiếng có dấu sắc (hỏi, ngã, nặng). Thanh bằng là những tiếng có dấu dấu huyền (gọi là trầm bình thanh) hoặc không dấu (gọi là phù bình thanh). 
* Vần là những chữ có cách phát âm gần giống nhau (gọi là vần thông) hoặc giống nhau (gọi là vần chính). Vần thông , thí dụ: nga, moa, sà... Vần chính, thí dụ: lính, tính, dính.. hoặc: la, ba, nga... Một cách tổng quát, vần có thể gieo ở cuối câu (cước vận) hoặc giữa câu (yêu vận). Trong bài thơ thất ngôn bát cú, vần được gieo ở cuối câu. Khi chữ gieo vần mà mang dấu sắc, hoặc hỏi, ngã, nặng thì ta gọi nó là vần trắc; còn nếu nó mang dấu huyền hoặc không dấu thì  gọi là vần bằng.
    Niêm, luật, vần là ba yếu tố căn bản quy định phép tắc làm thơ ta chỉ cần nắm vững là được.  Còn "đối" và "kết cấu" mới là quan trọng, nó đòi hỏi khả nămg trí tuệ, kiến thức cao để làm cho nghệ thuật thăng hoa, giàu tính biểu cảm.

* Khảo Sát Về Phép Đối
Bây giờ xin đi vào vấn đề chính là phép đối ngẫu trong bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật.  Vậy định nghĩa đối là gì? Đối là những câu văn đi sóng đôi với nhau từng cặp.  Xét 3 phép đối căn bản được áp dụng hiện hành, những cách  phân loại khác khá phức tạp như: liên châu đối, song nghĩ đối, sự đối v.v. ta không bàn ở đây, các bạn có thể tham khảo ở sách báo hay trên internet. Ba phép đối căn bản là đối thanh , đối ý, và đối từ. Cái khó khi làm bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật là bạn phải đạt 3 yếu tố cơ bản trên đồng thời phải giữ đúng luật bằng trắc theo quy định của thơ Đường trong mỗi câu mỗi chữ của bàì thơ.  Việc chọn ý, lựa vần đã là khó huống chi phải sắp xếp như thế nào để có đối nữa. Nhưng một khi bạn quen tay rồi thì nó trở nên dễ dàng, đó là điều chắc chắn!
  Trong bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật thì 2 câu thực (3&4) và 2 câu luận (5&6) bắt buộc phải đối, còn cặp đề (1&2) và kết (7&8) không bắt buộc. Quy định như vậy ta phải theo để có một bài thơ Đường đúng luật, còn hay hay dở là vấn đề khác. Một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật mà không có đối thì kể như hỏng, dù bài thơ đó ý có hay cỡ nào cũng bị loại chẳng khác nào ăn phở mà thiếu ngò gai!
Tóm lại đối là đặc điểm để nhân biết một bài thơ Đường luật, cũng là  tinh hoa của thơ Đường và sau cùng là tiêu chuẩn để đo trình độ làm thơ Đường của tác giả.
Xin lưu ý trong hai câu đối thì câu trên câu dưới phải có số chữ  bằng nhau, nghĩa là câu trên có 7 chữ thì câu dưới cũng phải 7 chữ, chứ không thể câu nầy 7 chữ câu kia 6 chữ được.

Đối thanh: tức đối về luật bằng trắc, thì mỗi chữ tương ứng với vị trí câu trước và câu sau, nếu chữ của câu trên mà bằng thì chữ của câu dưới phải trắc, và ngược lại.Ví dụ:     
       Có phải thuyền em e bến lạ
       Hay là trần thế vắng người quen.
*"phải" ( trắc) câu trên, đối với" là"(bằng) câu dưới.
*"em" (bằng) câu trên, đối với "thế" (trắc) câu dưới
*"bến lạ" (trắc) câu trên, đối với "người quen" (bằng) câu dưới...
v.v...
Trong câu đối 7 chữ, chữ cuối vế trên là thanh trắc thì chữ cuối vế dưới phải là thanh bằng. Như vậy câu đối 7 chữ cũng có 2 bảng luật trắc và bằng như sau:
           * Bảng luật trắc:      
           T-T-B-B-B-T-T
           B-B-T-T-T-B-B
Thí dụ:
          Ngũ phụng thư danh lưu sử sách
         Thập cơ bát thạch giúp giang sơn
           *Bảng luật bằng:
          B-B-T-T-B-B-T
          T-T-B-B-T-T-B
Thí dụ:
          Sau nhà chậu cúc vừa đơm nụ
          Trước ngõ cành mai mới trổ hoa.

Chú thích :
+ Các chữ 2,4,6,7 phải theo đúng luật bằng trắc. Nếu tiếng thứ 2,4,6 câu trên mà bố trí B-T-B thì chữ thứ 2,4,6 tương ứng câu dưới phải làT-B-T và ngược lại, nếu chữ 2,4,6 câu trên được bố trí T-B-T thì chữ tương ứng của câu dưới phải là B-T-B. 
+ Còn chữ thứ 1,3,5 thì sao?  Chữ thứ 1,3 nói bất luận thì được chứ chữ thứ 5 mà nói bất luận thì dễ rơi vào khổ độc (khó đọc). Do đó nếu tiếng thứ 7 thuộc nhóm trắc thì tiếng thứ 5 phải thuộc nhóm bằng và ngược lại để cho lúc nào tiếng thứ 5 và 7 cũng phải đối nhau qua tiếng thứ 6.  Chỉ khi nào đối mà làm hại cả câu thơ thì lúc đó ta mới sử dụng luật "bất luận" chữ thứ 5 nầy, nghĩa là bằng trắc gì cũng được, nhưng  những  tiếng đáng trắc (chữ thứ 5  của  những câu có vần)  mà đổi ra bằng thì được, còn những tiếng đáng bằng (chữ thứ 5 của những câu 3,5,7) mà đổi ra trắc thì không nên vì dễ bị rơi vào khổ độc như đã nói ở trên. Thí dụ cho trường hợp thứ nhứt nói trên: "Giữa núi non nầy ai cố tri?"
    [(chữ "tri"( bằng) đối với "ai" (bằng) qua chữ thứ 6 là "cố". Chữ "ai" là chữ thứ 5  (câu có vần) theo lẽ thanh trắc mới đúng, nhưng ở đây áp dụng luật "bất luận", biến trắc thành bằng].
      [Tới đây tôi xin mở dấu ngoặc để giải thích thêm về trường hợp thứ hai nói trên.  Chữ thứ 5  (câu khôngcó vần) là thanh bằng thì không nên (chớ không phạm luật vì chữ 1, 3,5 cho phép tùy chọn) đổi sang thanh trắc. Tại sao luật "bất luận" cho phép mà bảo là không nên? Vì đổi như thế sẽ dễ  rơi vào khổ độc (khó đọc).  Vài bạn làm thơ Đường lâu năm mà vẫn lấn cấn chỗ nầy. Bạn cho rằng thanh bằng nầy không thể chuyển sang trắc vì chuyển như vậy là phạm luật!  Phạm sao được khi luật "bất luận" cho phép thì tự nó hóa giải được rồi.  Khi rơi vào khổ khổ độc thì khó đọc nhưng vẫn chấp nhận được. Trường hợp nào cho phép ta làm như vậy? Đó là khi gặp tên riêng, hoặc địa  danh v.v.  Xin đưa ra một ví dụ để minh hoạ cho trường hợp nầy.
                         Mùa Xuân Mới
                 1. Mậu Thân đón Tết chốn quê nhà             (v)
                 2. Đất nước Thanh bình ước hiện ra            (v)
                 3. Cửa cửa chưa mời Hạnh phúc đến
                 4.  Đường đường đã thấy chiến chinh qua   (v)
                 5.  Pháo xuân thưa tiếng đì đùng nổ
                 6. "Pháo chuột" mở mùa tành tạch ca            (v)
                 7. Xuân mới cái chi? Xuân mới lạ
                 8. Bao giờ Xuân mới thật đơm hoa                   (v)
                                                      ( HD)
   Trên đây là bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật, luật bằng vần bằng.
     Xét chữ thứ 5 câu 3 (câu không có vần): "Cửa cửa chưa mời Hạnh phúc đến," chữ "Hạnh" theo lẽ phải thanh bằng nhưng ở đây tác giả đổi thành trắc (sử dụng luật "bất luận") vì muốn nhấn mạnh Hạnh phúc thì không thể nói "Hành" phúc được.
      Xét chữ thứ 5 câu 5 (câu không có vần): "Pháo Xuân thưa tiếng đì đùng nổ," chữ "đì" thanh bằng tác giả giữ nguyên.
      Xét chữ thứ 5 câu 6 (câu có vần): "Pháo chuột mở mùa tành tạch ca", chữ "tành" theo lẽ thanh trắc nhưng đổi thành bằng (áp dụng luật "bất luận"), vì tác giả không muốn dùng điệp từ "tạch tạch," mà dùng từ láy "tành tạch," đọc lên, âm điệu nghe hay hơn.
  Kết luận bài thơ nầy không sai luật.]
  
Đối ý : nghĩa là ý câu trên và ý câu dưới hoặc là chống đối nhau hoặc bổ sung ý nghĩa cho nhau, hoặc  khác nhau . Ví dụ:
     *Ý chống nhau:
                Đi đầu năm chốt bò từng bước
                Cản hậu hai xe tiến tới sang
       *Ý bổ sung nhau:
                Tường rào nghiêm gác chòi dăm trạm
                 Bờ lũy giăng gai thép mấy vòng 
          *Ý khác nhau:
              Lìa Ngô bịn rịn còm mây bạc
              Về Hán trau tria mảnh má hồng
                (Trích bài xướng của Tôn Thọ Tường)

Đối từ loại:
 Danh từ đối  với danh từ: danh từ riêng - từ riêng, danh từ chung - danh từ chung; tính từ đối với tinh từ; động từ - động từ; trạng từ - trạng từ; số lượng - số lượng; tên người - tên người; tên nước - tên nước; từ Hán Việt - từ Hán Việt; từ nôm - từ nôm v.v...
           Ví dụ danh từ riêng đối với danh từ riêng:
                  Liễu Thăng tặc tướng, đầu sa ngựa
                  Phương Chính hàng quân, lũ mất hồn
    Đối từ loại, thoạt trông có vẻ đơn giản nhưng thực tế nó rất phức tạp và khó làm. Cần nhớ nếu mỗi chữ câu trên là danh từ thì câu dưới, tương ứng với vị trí, cũng phải danh từ (không thể tỉnh từ hay động từ), thông thường là chiếu thẳng từng từ, từ ngữ, trên xuống dưới.  Một vài trường hợp đặc biệt ta sẽ nói sau.
    Lấy ví dụ 2 câu đối của Bà Huyện Thanh Quan:
        Lom khom dưới núi tiều vài chú
        Lác đác bên sông rợ mấy nhà
"Lom khom" đối với "Lác đác" ; "dưới" - "trên" ; "núi"- "sông" ; "tiều" - "rợ" ; " vài" - "mấy" ; "chú" - "nhà."
Đối như vậy thật chỉnh và điêu luyện.

**Vài trường hợp đặc biệt:
    *Chữ đồng âm dị nghĩa:
 Ví dụ:
                Hai mái trống tung đành chịu dột
                Tám giờ chuông đánh phải nằm co
                          (Tú Xương/ Hà Nam Tức Sự)
Câu trên chữ "trống"nghĩa là trống trải, đồng âm với "trống" là cái trống để đối với chữ "chuông" ở câu dưới.
      
     *Phép đối lưu thủy:
 Ví dụ:
                Còn chăng lời hẹn bên trang sách
                Hay đã tàn theo ánh lữa đèn
Nếu theo cách chiếu chữ thì hai câu nầy bất đối, nhưng xét về cấu trúc ngữ pháp thì 2 câu trên đều có cấu trúc giống nhau, và nghĩa câu trên chảy một mạch tràn xuống câu dưới làm trọn nghĩa ý câu trên nên đối được.
    Vậy nếu câu trên là : còn chăng, nếu biết..., và câu dưới tương ứng là: hay đã, trời ơi... thì liên thơ đó đã theo phép đối trên.
     
      *Phép "cú trung đối":
      Ví dụ:
          Màn trời chiếu đất con người khổ
          Nước vật thuyền xơ cá biển nghèo 
Nếu lấy câu trên câu dưới chiếu từng chữ lên nhau thì hai câu nầy không có đối.  Nhưng xét nội bộ từng câu thì ta thấy từ ngữ "màn trời" đối với "chiếu đất", "nước vật" đối với "thuyền xơ," nhóm từ ngữ "con người khổ" đối với "cà biển nghèo" Như vậy lấy câu có nội đối để đối nhau thì rất cân bằng. Vậy chấp nhận có đối.
  
    * Phép đối chéo.
        Ví dụ:
             Chân bước vững, đường chiều khấp khểnh
             Rừng cây rậm rạp, trúc vươn cao
  Nếu lấy câu trên câu dưới chiếu từng chữ lên nhau thì hai câu nầy bất đối, nhưng ta thấy nhóm từ ngữ "Chân bước vững" lại đối chéo  với "trúc vươn cao"; và "vườn cây rậm rạp" đối chéo với "đường chiều khấp khểnh." Kết luận cặp nầy đối nhau.
Cuối cùng xin trích ra hai bài thơ của bạn hữu để so sánh về phép đối, từ đó rút kinh nghiệm khi làm bài thơ Đường Luật sao cho có được một bài thơ hay.


                         Hạnh Phúc Tuổi Thọ
               "Nhân sinh thất thập cổ lai hy"
               Thấm thoát nào hay tuổi quá thì*
                Mái tóc chòm xanh chòm trắng bạc
                Hàm răng cái rụng cái đen chì
                Ngày hai buổi hết ăn rồi ngủ
                Đêm chín giờ ôn phú tác thi**
                Ví phỏng cuộc đời như thế mãi
                Trăm năm hưởng thọ khó khăn gì!  
                                    Khánh Trần
Chú thích
*thì: thời, 
**tác thi: làm thơ 

                                                
                        
                            
                          Nam Giới Thì Thầm
                  Con cà chưa hết, tới con kê,
                  Lớn tuổi, lắm lời sợ bị chê.
                  Chức Nữ đòi chồng, xin xuất giá,
                  Ngưu Lang muốn vợ, cưới đem về.
                  Thấy bông không hái, người cho dốt,
                  Gặp gáí làm ngơ, họ bảo quê.
                  Bảy bó xuân tình đâu đã hết,
                  Làm sao tránh khỏi thú đam mê.
                                ( Nguyên Khôi)

**Nhận xét phép đối trong bài thơ của Khánh Trần:
          *xét 2 câu thực :              
                Mái tóc chòm xanh chòm trắng bạc
                Hàm răng cái rụng cái đen xì
 "Mái tóc" đối với "hàm răng" (rất chỉnh: danh từ đối với danh từ); "chòm" đối với "cái" (danh từ đối với danh từ, chú ý "cái" là đại danh từ thay thế  "răng"); "xanh" đối với " rụng "(xanh: tĩnh từ, rụng: động từ nên hai tứ nầy không đối với nhau được); từ ngữ "trắng bạc" đối với  "đen chì" (rất chỉnh về ý và từ).
   Hai câu trên đối nhau rất chỉnh, nếu như không có sai sót, bất đối ở hai từ "xanh" (danh từ) và "rụng" (động từ).
         *Xét hai câu luận:
                Ngày hai buổi hết ăn rồi ngủ
                Đêm chín giờ ôn phú tác thi
"Ngày" đối với "Đêm " (anh từ đối với danh từ); "hai"....."chín" (số từ đối với số từ); "buổi" ...."giờ" (danh từ đối với danh từ); từ "hết"/"ôn" (không đối về từ loại); "ăn"/ "phú"( không đối về từ loại);  "rồi"/ "tác"( không đối được về từ loại); "ngủ "/ "thi" (không đối được về từ loại). Kết luận cặp nầy không đối.

    Tóm lại 2 câu thực, có đối nhưng không chỉnh. Hai câu luận hoàn toàn hỏng, đưa đến suy ỵếu cả bài thơ, khác với ý định ban đầu của tác giả là muốn phác họa ra một khoảnh khắc nhàn nhã hạnh phúc của một người cao tuổi, nay chính cách đối không chỉnh và sự dùng từ ngữ không khéo đã làm bài thơ trở nên nhợt nhạt, bịnh hoạn, thiếu sinh khí, thật đáng tiếc.
          
Nhận xét về phép đối trong bài họa của Nguyên Khôi:
   Xét 2 câu thực:
             Chức Nữ đòi chồng, xin xuất giá,
             Ngưu Lang muốn vợ, cưới đem về.
"Chức Nữ" đốí với "Ngưu Lang" rất chỉnh (danh từ riêng đối với danh từ riêng); "đòi" (động từ) đối với "muốn"(động từ); "chồng" đối với "vợ" (danh từ); "xin xuất giá" đối với "cưới đem về" (rất chỉnh).
 Tóm lại 2 câu nầy đối rất chỉnh về thanh, ý, từ.  Hai câu thơ tình gợi tả nhưng lại đằm thắm mà không sỗ sàng.  Khôi Nguyên sử dụng phép đối rất nghiêm để được hiệu quả.
Xét 2 câu luận:
              Thấy bông không hái, người cho dốt,
              Gặp gáí làm ngơ, họ bảo quê.
"Thấy"(động từ) đối với "gặp" (động từ); "bông" (danh từ, chỉ người con gái đẹp) đối với "gái" (danh từ); "không hái" đối với "làm ngơ" (từ ngữ ) rất chỉnh;  "họ bảo quê" đối với "người cho dốt" (nhóm từ) rất chỉnh.
  Hai câu nầy đối nhau ư rất chỉnh về thanh, ý, từ.  Cặp đối chính danh nầy rất chặt chẽ như thấy bóng dáng chàng trai đang chinh phục cảm tình cô gái vậy.
    Tóm lại Nguyên Khôi sử dụng phép đối khá điêu luyện: đối chan chát, đứt khoát, tự tin .
    Một chút thô thiển bài viết, hy vọng sẽ đóng góp vào tài liệu tham khảo để các bạn nghiên cứu thêm hầu sáng tác được nhiều bài thơ hay về Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật.  Mong thay!!!
                        
Nguyễn Cang
(Cám ơn bạn Khôi Nguyên đã góp thêm ý để tôi hoàn tất bài viết nầy)
                  .




.