Cái Khó Khi Làm Thơ Đường
Nguyễn Cang
Mở bài: Hiện tại, có
nhiều người trong nước cũng như hải ngoại làm thơ Đường. Bỗng dưng
nó trở thành cái mốt, mà có mới mẻ gì đâu thể loại thơ nầy? Nó
được các vua quan nước ta đưa vào quy chế trong các cuộc thi tuyển lựa
nhân tài ra giúp nước từ mấy thế kỷ trước. Ở hải ngoại cũng như
trong nước nhiều câu lạc bộ, hội thơ Đường được thành lập, nhỏ hơn một chút thì có vườn thơ
Đường, góc thơ Đường, chùm thơ Đường v.v.
Đặc biệt có sự tham gia của các bạn trẻ làm thành phong trào
giống như phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1945 vậy. Tôi không rõ do đâu
mà phong trào lên nhanh, có thể do nhàn hạ sau khi "tang bồng trang
trắng vỗ tay reo" thì các cụ muốn tìm thú vui giải trí vừa
thanh tao vừa luyện cho trí não khỏi bị suy thoái. Bạn mình làm được
bài thơ hay bèn khoe cho bạn khác biết tạo thành luồng điện lan nhanh. Còn các bạn
trẻ thấy cha mẹ làm thơ cũng bắt chước làm thử, đọc lên nghe được
bèn làm tiếp, nhưng cũng có thể do bế tắc trong cuộc sồng nên tìm
quên lãng trong tiếng thơ.
Có thể nói bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật là thể thơ khó làm nhất vì nó có nhiều luật lệ ràng buộc mà
nếu ta không nắm vững thì sẽ bị thất luật, thất niêm, biến thành
thơ cổ phong hay thơ tự do và bị xếp vào loại non nớt, ấu trĩ. Bài
thơ hạn định trong 8 câu, mỗi câu 7 chữ, nghĩa là có tất cả 56 chữ
thôi nhưng mỗi chữ phải được đặt ở một vị trí nhất định theo đúng
luật bằng trắc. Có thể sánh những chữ trong bài như một quân cờ
trong bàn cờ thế. Quả thực nó khó làm, nhưng khó nhất là điểm
nào?
Vài Điều Căn Bản:
Có những điều căn bản sau đây mà
ta cần nắm vững trước khi giải quyết vấn đề. Trong thể loại thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật có thể nói là một sự kết tinh thống nhất
kỳ diệu giữa ngôn ngữ và âm nhạc,
giữa tình và lý, giữa nghệ thuật và khoa học thể hiện đồng thời
trong năm yệú tố sau đây: niêm, luật, vần, đối, và kết cấu. Trong 5 yếu
tố đó thì "đối" là quan trọng nhất.
* Mỗi âm tiết đều mang
dấu giọng cao thấp nên người ta chia ra hai loại là thanh trắc và thanh
bằng. Thanh trắc là những tiếng có dấu sắc (hỏi, ngã, nặng). Thanh
bằng là những tiếng có dấu dấu huyền (gọi là trầm bình thanh) hoặc
không dấu (gọi là phù bình thanh).
* Vần là những chữ có cách phát âm
gần giống nhau (gọi là vần thông)
hoặc giống nhau (gọi là vần chính). Vần thông , thí dụ: nga, moa,
sà... Vần chính, thí dụ: lính, tính, dính.. hoặc: la, ba, nga... Một
cách tổng quát, vần có thể gieo ở cuối câu (cước vận) hoặc giữa câu (yêu vận). Trong bài
thơ thất ngôn bát cú, vần được gieo ở cuối câu. Khi chữ gieo vần mà
mang dấu sắc, hoặc hỏi, ngã, nặng thì ta gọi nó là vần trắc; còn nếu nó mang dấu huyền hoặc không dấu thì gọi là vần bằng.
Niêm, luật, vần là ba yếu tố căn bản quy định phép tắc làm thơ ta chỉ cần nắm
vững là được. Còn "đối" và "kết cấu" mới là quan
trọng, nó đòi hỏi khả nămg trí tuệ, kiến thức cao để làm cho nghệ
thuật thăng hoa, giàu tính biểu cảm.
* Khảo Sát Về Phép Đối
Bây giờ xin đi vào vấn đề
chính là phép đối ngẫu trong bài
thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật. Vậy định nghĩa đối là gì? Đối là
những câu văn đi sóng đôi với nhau từng cặp. Xét 3 phép đối căn bản
được áp dụng hiện hành, những cách phân loại khác khá phức tạp như: liên châu
đối, song nghĩ đối, sự đối v.v. ta không bàn ở đây, các bạn có thể
tham khảo ở sách báo hay trên internet. Ba phép đối căn bản là đối
thanh , đối ý, và đối từ. Cái khó khi làm bài thơ Thất Ngôn Bát Cú
Đường Luật là bạn phải đạt 3 yếu tố cơ bản trên đồng thời phải giữ
đúng luật bằng trắc theo quy định của thơ Đường trong mỗi câu mỗi chữ
của bàì thơ. Việc chọn ý, lựa vần đã là khó huống chi phải sắp
xếp như thế nào để có đối nữa. Nhưng một khi bạn quen tay rồi thì
nó trở nên dễ dàng, đó là điều chắc chắn!
Trong bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật thì 2 câu
thực (3&4) và 2 câu luận (5&6) bắt buộc phải đối, còn cặp đề
(1&2) và kết (7&8) không bắt buộc. Quy định như vậy ta phải theo
để có một bài thơ Đường đúng luật, còn hay hay dở là vấn đề khác.
Một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật mà không có đối thì kể như
hỏng, dù bài thơ đó ý có hay cỡ nào cũng bị loại chẳng khác nào
ăn phở mà thiếu ngò gai!
Tóm lại đối là đặc điểm để nhân biết một bài thơ
Đường luật, cũng là tinh hoa của
thơ Đường và sau cùng là tiêu chuẩn để đo trình độ làm thơ Đường của
tác giả.
Xin lưu ý trong hai câu đối thì câu trên câu dưới phải có số chữ bằng nhau, nghĩa là câu trên có 7 chữ
thì câu dưới cũng phải 7 chữ, chứ không thể câu nầy 7 chữ câu kia 6 chữ được.
Đối thanh: tức đối về
luật bằng trắc, thì mỗi chữ tương ứng với vị trí câu trước và câu
sau, nếu chữ của câu trên mà bằng thì chữ của câu dưới phải trắc,
và ngược lại.Ví dụ:
Có phải
thuyền em e bến lạ
Hay là trần
thế vắng người quen.
*"phải" ( trắc) câu trên, đối với" là"(bằng)
câu dưới.
*"em" (bằng) câu trên, đối với "thế"
(trắc) câu dưới
*"bến lạ" (trắc) câu trên, đối với "người
quen" (bằng) câu dưới...
v.v...
Trong câu đối 7 chữ, chữ cuối vế trên là thanh trắc
thì chữ cuối vế dưới phải là thanh bằng. Như vậy câu đối 7 chữ cũng
có 2 bảng luật trắc và bằng như sau:
* Bảng
luật trắc:
T-T-B-B-B-T-T
B-B-T-T-T-B-B
Thí dụ:
Ngũ phụng
thư danh lưu sử sách
Thập cơ bát
thạch giúp giang sơn
*Bảng
luật bằng:
B-B-T-T-B-B-T
T-T-B-B-T-T-B
Thí dụ:
Sau nhà
chậu cúc vừa đơm nụ
Trước ngõ
cành mai mới trổ hoa.
Chú thích :
+ Các
chữ 2,4,6,7 phải theo đúng luật bằng trắc. Nếu tiếng thứ 2,4,6 câu
trên mà bố trí B-T-B thì chữ thứ 2,4,6 tương ứng câu dưới phải
làT-B-T và ngược lại, nếu chữ 2,4,6 câu trên được bố trí T-B-T thì
chữ tương ứng của câu dưới phải là B-T-B.
+ Còn chữ thứ 1,3,5 thì sao? Chữ thứ 1,3 nói bất luận thì được chứ chữ thứ 5 mà nói bất luận
thì dễ rơi vào khổ độc (khó
đọc). Do đó nếu tiếng thứ 7 thuộc nhóm trắc thì tiếng thứ 5 phải
thuộc nhóm bằng và ngược lại để cho lúc nào tiếng thứ 5 và 7 cũng
phải đối nhau qua tiếng thứ 6. Chỉ khi nào đối mà làm hại cả câu thơ
thì lúc đó ta mới sử dụng luật "bất luận" chữ thứ 5 nầy,
nghĩa là bằng trắc gì cũng được, nhưng
những tiếng đáng trắc (chữ
thứ 5 của những câu có vần) mà
đổi ra bằng thì được, còn những tiếng đáng bằng (chữ thứ 5 của những câu 3,5,7) mà đổi ra trắc thì không
nên vì dễ bị rơi vào khổ độc như đã nói ở trên. Thí dụ cho trường
hợp thứ nhứt nói trên: "Giữa núi non nầy ai cố tri?"
[(chữ
"tri"( bằng) đối với "ai" (bằng) qua chữ thứ 6 là
"cố". Chữ "ai" là chữ thứ 5 (câu có vần) theo lẽ thanh trắc mới
đúng, nhưng ở đây áp dụng luật "bất luận", biến trắc thành
bằng].
[Tới đây tôi
xin mở dấu ngoặc để giải thích thêm về trường hợp thứ hai nói trên. Chữ thứ 5 (câu khôngcó vần) là thanh
bằng thì không nên (chớ không phạm luật vì chữ 1, 3,5 cho phép tùy chọn) đổi sang thanh
trắc. Tại sao luật "bất luận" cho phép mà bảo là không nên?
Vì đổi như thế sẽ dễ rơi vào khổ
độc (khó đọc). Vài bạn làm thơ Đường lâu năm mà vẫn lấn cấn chỗ
nầy. Bạn cho rằng thanh bằng nầy không thể chuyển sang trắc vì chuyển
như vậy là phạm luật! Phạm sao được khi luật "bất luận" cho
phép thì tự nó hóa giải được rồi. Khi rơi vào khổ khổ độc thì khó
đọc nhưng vẫn chấp nhận được. Trường hợp nào cho phép ta làm như
vậy? Đó là khi gặp tên riêng, hoặc địa
danh v.v. Xin đưa ra một ví dụ để minh hoạ cho trường hợp nầy.
Mùa Xuân Mới
1. Mậu
Thân đón Tết chốn quê nhà
(v)
2. Đất nước Thanh bình ước hiện ra (v)
3.
Cửa cửa chưa mời Hạnh phúc đến
4. Đường đường đã thấy chiến chinh qua (v)
5. Pháo xuân thưa tiếng đì đùng nổ
6. "Pháo chuột" mở mùa tành
tạch ca (v)
7. Xuân mới cái chi? Xuân mới lạ
8. Bao giờ Xuân mới thật đơm hoa (v)
( HD)
Trên đây là bài
thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật, luật bằng vần bằng.
Xét chữ thứ 5
câu 3 (câu không có vần): "Cửa cửa chưa mời Hạnh phúc đến," chữ "Hạnh" theo lẽ phải thanh bằng nhưng ở đây tác giả đổi
thành trắc (sử dụng luật "bất luận") vì muốn nhấn mạnh
Hạnh phúc thì không thể nói "Hành" phúc được.
Xét chữ thứ 5
câu 5 (câu không có vần): "Pháo Xuân thưa tiếng đì đùng
nổ," chữ "đì" thanh bằng tác giả giữ nguyên.
Xét chữ thứ 5
câu 6 (câu có vần): "Pháo chuột mở mùa tành tạch ca", chữ
"tành" theo lẽ thanh trắc nhưng đổi thành bằng (áp dụng
luật "bất luận"), vì tác giả không muốn dùng điệp từ
"tạch tạch," mà dùng từ láy "tành tạch," đọc lên,
âm điệu nghe hay hơn.
Kết luận bài thơ
nầy không sai luật.]
Đối ý : nghĩa là ý câu trên và ý câu dưới
hoặc là chống đối nhau hoặc bổ sung ý nghĩa cho nhau, hoặc khác nhau . Ví dụ:
*Ý chống nhau:
Đi đầu năm chốt bò từng bước
Cản
hậu hai xe tiến tới sang
*Ý bổ sung nhau:
Tường
rào nghiêm gác chòi dăm trạm
Bờ
lũy giăng gai thép mấy vòng
*Ý khác nhau:
Lìa Ngô
bịn rịn còm mây bạc
Về Hán
trau tria mảnh má hồng
(Trích bài xướng của Tôn Thọ Tường)
Đối từ loại:
Danh từ đối với danh từ: danh từ riêng - từ
riêng, danh từ chung - danh từ chung; tính từ đối với tinh từ; động
từ - động từ; trạng từ - trạng từ; số lượng - số lượng; tên
người - tên người; tên nước - tên nước; từ Hán Việt - từ Hán
Việt; từ nôm - từ nôm v.v...
Ví dụ
danh từ riêng đối với danh từ riêng:
Liễu Thăng tặc tướng, đầu sa ngựa
Phương Chính hàng quân, lũ mất hồn
Đối từ loại,
thoạt trông có vẻ đơn giản nhưng thực tế nó rất phức tạp và khó
làm. Cần nhớ nếu mỗi chữ câu trên là danh từ thì câu dưới,
tương ứng với vị trí, cũng phải danh từ (không thể tỉnh từ hay động
từ), thông thường là chiếu thẳng từng từ, từ ngữ, trên xuống dưới. Một vài
trường hợp đặc biệt ta sẽ nói sau.
Lấy ví dụ 2 câu
đối của Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới
núi tiều vài chú
Lác đác bên
sông rợ mấy nhà
"Lom khom" đối với "Lác đác" ;
"dưới" - "trên" ; "núi"- "sông"
; "tiều" - "rợ" ; " vài" - "mấy" ;
"chú" - "nhà."
Đối như vậy thật chỉnh và điêu luyện.
**Vài trường hợp
đặc biệt:
*Chữ đồng âm dị nghĩa:
Ví dụ:
Hai
mái trống tung đành chịu dột
Tám giờ chuông đánh phải nằm co
(Tú Xương/ Hà Nam Tức Sự)
Câu trên chữ "trống"nghĩa là trống trải,
đồng âm với "trống" là cái trống để đối với chữ
"chuông" ở câu dưới.
*Phép đối lưu thủy:
Ví dụ:
Còn
chăng lời hẹn bên trang sách
Hay
đã tàn theo ánh lữa đèn
Nếu theo cách chiếu chữ thì hai câu nầy bất đối,
nhưng xét về cấu trúc ngữ pháp thì 2 câu trên đều có cấu trúc giống
nhau, và nghĩa câu trên chảy một mạch tràn xuống câu dưới làm trọn
nghĩa ý câu trên nên đối được.
Vậy nếu câu trên
là : còn chăng, nếu biết..., và câu dưới tương ứng là: hay đã, trời
ơi... thì liên thơ đó đã theo phép đối trên.
*Phép "cú
trung đối":
Ví dụ:
Màn trời
chiếu đất con người khổ
Nước vật
thuyền xơ cá biển nghèo
Nếu lấy câu trên câu dưới chiếu từng chữ lên nhau thì
hai câu nầy không có đối. Nhưng xét nội bộ từng câu thì ta thấy từ
ngữ "màn trời" đối với "chiếu đất", "nước
vật" đối với "thuyền xơ," nhóm từ ngữ "con người
khổ" đối với "cà biển nghèo" Như vậy lấy câu có nội
đối để đối nhau thì rất cân bằng. Vậy chấp nhận có đối.
* Phép
đối chéo.
Ví dụ:
Chân
bước vững, đường chiều khấp khểnh
Rừng cây
rậm rạp, trúc vươn cao
Nếu lấy câu trên
câu dưới chiếu từng chữ lên nhau thì hai câu nầy bất đối, nhưng ta thấy
nhóm từ ngữ "Chân bước vững" lại đối chéo với "trúc vươn cao"; và
"vườn cây rậm rạp" đối chéo với "đường chiều khấp
khểnh." Kết luận cặp nầy đối nhau.
Cuối cùng xin trích ra hai bài thơ của bạn hữu để so
sánh về phép đối, từ đó rút kinh nghiệm khi làm bài thơ Đường Luật
sao cho có được một bài thơ hay.
Hạnh Phúc Tuổi Thọ
"Nhân
sinh thất thập cổ lai hy"
Thấm
thoát nào hay tuổi quá thì*
Mái tóc chòm xanh chòm trắng bạc
Hàm răng cái rụng cái đen chì
Ngày hai buổi hết ăn rồi ngủ
Đêm chín
giờ ôn phú tác thi**
Ví phỏng cuộc đời như thế mãi
Trăm năm hưởng thọ khó khăn gì!
Khánh Trần
Chú thích
*thì: thời,
**tác thi: làm thơ
Nam Giới Thì Thầm
Con
cà chưa hết, tới con kê,
Lớn
tuổi, lắm lời sợ bị chê.
Chức
Nữ đòi chồng, xin xuất giá,
Ngưu
Lang muốn vợ, cưới đem về.
Thấy
bông không hái, người cho dốt,
Gặp
gáí làm ngơ, họ bảo quê.
Bảy
bó xuân tình đâu đã hết,
Làm
sao tránh khỏi thú đam mê.
( Nguyên Khôi)
**Nhận xét phép đối
trong bài thơ của Khánh Trần:
*xét 2 câu
thực :
Mái
tóc chòm xanh chòm trắng bạc
Hàm răng cái rụng cái đen xì
"Mái tóc" đối với "hàm
răng" (rất chỉnh: danh từ đối với danh từ); "chòm" đối
với "cái" (danh từ đối với danh từ, chú ý "cái"
là đại danh từ thay thế
"răng"); "xanh" đối với " rụng "(xanh:
tĩnh từ, rụng: động từ nên hai tứ nầy không đối với nhau được); từ
ngữ "trắng bạc" đối với "đen
chì" (rất chỉnh về ý và từ).
Hai câu trên đối
nhau rất chỉnh, nếu như không có sai sót, bất đối ở hai từ
"xanh" (danh từ) và "rụng" (động từ).
*Xét
hai câu luận:
Ngày
hai buổi hết ăn rồi ngủ
Đêm chín giờ ôn phú tác thi
"Ngày" đối với "Đêm " (anh từ đối
với danh từ); "hai"....."chín" (số từ đối với số
từ); "buổi" ...."giờ" (danh từ đối với danh từ); từ
"hết"/"ôn" (không đối về từ loại); "ăn"/
"phú"( không đối về từ loại);
"rồi"/ "tác"( không đối được về từ loại);
"ngủ "/ "thi" (không đối được về từ loại). Kết
luận cặp nầy không đối.
Tóm lại 2 câu
thực, có đối nhưng không chỉnh. Hai câu luận hoàn toàn hỏng, đưa đến
suy ỵếu cả bài thơ, khác với ý định ban đầu của tác giả là muốn
phác họa ra một khoảnh khắc nhàn nhã hạnh phúc của một người cao
tuổi, nay chính cách đối không chỉnh và sự dùng từ ngữ không
khéo đã làm bài thơ trở nên nhợt
nhạt, bịnh hoạn, thiếu sinh khí, thật đáng tiếc.
Nhận xét về phép
đối trong bài họa của Nguyên Khôi:
Xét 2 câu thực:
Chức Nữ
đòi chồng, xin xuất giá,
Ngưu Lang
muốn vợ, cưới đem về.
"Chức Nữ" đốí với "Ngưu Lang" rất
chỉnh (danh từ riêng đối với danh từ riêng); "đòi" (động
từ) đối với "muốn"(động từ); "chồng" đối với "vợ" (danh từ); "xin xuất giá" đối với "cưới đem về" (rất
chỉnh).
Tóm lại 2 câu nầy
đối rất chỉnh về thanh, ý, từ. Hai câu thơ tình gợi tả nhưng lại
đằm thắm mà không sỗ sàng. Khôi Nguyên sử dụng phép đối rất nghiêm để được
hiệu quả.
Xét 2 câu luận:
Thấy
bông không hái, người cho dốt,
Gặp
gáí làm ngơ, họ bảo quê.
"Thấy"(động từ) đối với "gặp" (động từ); "bông" (danh từ, chỉ người con gái đẹp) đối với "gái" (danh từ); "không hái" đối với "làm ngơ" (từ ngữ ) rất chỉnh; "họ bảo quê" đối với "người cho dốt"
(nhóm từ) rất chỉnh.
Hai câu nầy đối
nhau ư rất chỉnh về thanh, ý, từ. Cặp
đối chính danh nầy rất chặt chẽ như thấy bóng dáng chàng trai đang
chinh phục cảm tình cô gái vậy.
Tóm lại Nguyên Khôi sử
dụng phép đối khá điêu luyện: đối chan chát, đứt khoát, tự tin .
Một chút thô
thiển bài viết, hy vọng sẽ đóng góp vào tài liệu tham khảo để các
bạn nghiên cứu thêm hầu sáng tác được nhiều bài thơ hay về Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật. Mong thay!!!
Nguyễn Cang
(Cám ơn bạn Khôi Nguyên đã góp thêm ý để tôi hoàn
tất bài viết nầy)
.
.