Người đọc Trần Khánh
Tiếu khóa III
Từ khi phát động gởi thư “ngỏ” đi
khắp bốn phương: trong nước lẫn ngoài nước ngoài ngày 15.05.2008. rồi gởi thư
báo ngày 10.08.2009, kêu gọi đóng góp bài vở. Tiếp theo thông báo thay giấy mời
đến quí thầy và các bạn đồng môn.
Ban liên lạc và tổ chức chúng
tôi, đã được sự hưởng ứng đồng tình, các bạn cũng háo hức như chúng tôi.
Trong cuộc vận động, quả nhiên
bước đầu cũng gặp nhiều băn khoăn trăn trở về tài chánh. May thay, trước mắt đã
có rất nhiều tâm lòng vàng từ phương xa, nhất là chị Võ Hồng Phi chủ chòm, đã
nhiệt tình dài “hơi” phone các bạn nhiều nơi ở nước ngoài gởi tiền về để hỗ trợ
cho ngày lễ gặp mặt và làm Đặc San kỷ niệm 50 năm ngày thành lập viện Hán Học
Huế.
Đó là sự khích lệ đầu tiên cho
chúng tôi trong ban liên lạc và tổ chức, để mạnh dạn hơn trong việc thúc đẩy
làm nên một đặc san.
Tôi thiết nghĩ đây là một việc
làm không phải giản đơn. Thú thật 50 năm qua, chỉ biết cầm bút chép bài, viết
thư, viết đơn... chứ có làm báo bao giờ ? Nhất là “báo viết” lại càng khó khăn
hơn nữa. Ngoại trừ anh Phan Thuận An, anh Ngô Văn Lại, anh Trần Văn Dật và
Nguyễn Công Thuần, họ đã từng là tác giả các bài viết in thành sách, từ
điển...(nhưng cả ba anh nêu sau đều ở xa Huế).
Dưới mắt tôi, đó là một việc làm
“chẳng đặng đừng!” Suy cho cùng câu nói minh triết của Khổng Tử: “ Các nhân tự
tảo môn tiền tuyết. Mạc quản tha nhân ốc thượng sương” (Các người hãy tự quét
tuyết trước cửa nhà mình. Chứ dừng để tâm đến sương đọng trên nhà người khác)
Điều đó cũng thấy lạnh cả sương sống...
Xin các bạn đồng môn thông cảm
giùm cho trường hợp nầy, chẳng khác gì, khi một chiếc thuyền đã ra khơi, vị
thuyền trưởng không may bị đau ốm, thì tất cả thuyền viên phải kê vai vào, gắng
sức, cố chèo cho đén bờ: “ chớ có sóng cả mà ngã tay chèo”.
Vì lẻ đó mà tôi phải dấn thân
nhận lấy trọng trách, bên cạnh sự hỗ trợ đắc lực của quí anh chị : Phan Thuận
An (cũng không giám làm phiền nhiều), anh Hoàng Xuân Minh, Lý Văn Nghiên,
Nguyễn Văn Tạo, Phạm Đăng Thiêm, chị Trần Thị Nguyệt, Nguyễn Hữu Châu, và Hồ Đăng
Kế : cùng ở trong Ban biên tập, phân công ra từng bộ phận để làm việc. Về thơ
do hai anh phụ trách là anh Phạm Đăng Thiêm và anh Nguyễn Văn Tạo. Về văn có
anh An, tôi và chị Nguyệt, anh Kế, anh Châu, cùng duyệt.
Bên cạnh đó còn có sự góp ý từ
phương xa, một người khả kính và nhiệt tình nhất là anh Ngô Văn Lại. Tuy đã 80
rồi, nhưng “Thân lão mà tâm bất lão”. Anh đã dốc sức già của mình, cùng một lúc
trong thời gian ngắn từ Đà Nẳng gởi ra 6 bài viết rất súc tích, trí nhớ phi
thường sau đây “Văn tế các thầy bạn quá cố 1959 – 2009”, “Thi thơ xuân”, “Dòng đời dun rủi” “Nhớ cha Thich”, Dịch
L’Isolement của La Martine. Dịch “ Trường hân ca” của Bạch Cư Dị. Chắc hẵn các bạn còn nhớ, vào năm học thứ nhất, chúng
ta đã học “Tỳ Bà Hành” của tác giả
trên do cụ Hồ Đắc Định dạy chúng ta rất kỹ. Cụ làm thơ Đường rất bay bướm như
bài “Cô tùng hiên”... Tôi còn nhớ như in, hồi ấy cụ giảng rõ mấy câu đầu mà dư
âm còn văng vẳng trong người:
“Tầm Dương giang đầu dạ tống
khách
Phong diệp địch hoa thu sắc sắc
Chủ nhân hạ mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền”
Dịch thơ:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngự khách
dừng chèo
Chén Quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti.
Chén Quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti.
Tôi đã quá dài dòng phải không các bạn? Trở lại vấn đề anh Ngô Văn Lại còn bồi thêm hai bài thư pháp của cha Thích nữa: “Qua đèo ngang” của Bà Huyện Thanh Quan do cha diễn ra chữ Hán và bài: “Vũ Trụ” của cha do anh dịch và chú thích. Một điều đặc biết đáng nói là anh chỉ học 3 năm ở Viện Hán Học Huế. Sau đó anh qua học Đại học Sư Phạm. Nhưng tôi tin chắc rằng anh xem Hán học là linh hồn, nên hết mình.
Riêng mỗi bài gởi còn có thêm
mỗi lá thư góp ý rất tích cực và xây dựng, làm cho tôi càng thêm sức mạnh để
tiếp tục hành trình.
Đôi khi chỉ một lời khuyên, hay
động viên làm cho người ta đứng vững, như lá thư của anh đề ngày 2-9-09 sau
đây: “...Mình rất muốn biết tình hình Đặc san Đại Kỷ miệm ra sao? Liệu có vượt
200 trang không? Công trình chỉ ra mắt một lần cho mãi mãi, lơ mơ sao được? Đăng
vài dòng trên báo hay VTV để gây không khí chứ! Xin lập lại đây là chuyện một
lần cho mãi mãi_
Thấy trên báo có lời bạn yêu cầu
góp thêm bài nên mình dốc sức lao động, nhưng chỉ sợ mang tiếng tham lạm át
giọng anh em_”
Lần cuối cùng anh gởi bài thư
pháp của cha Thích, theo yêu cầu của anh Lê Ngọc Bích. Anh cũng ân cần nhăn
nhủ: “Theo mình ai gởi bài cũng nhận tất, in tất, bài dở bình đẵng với bài hay.
Thơ con “cóc” cho cơi lên thơ con “voi” cũng được”
Anh Lại ơi! Xin nói nhỏ, anh
đừng giận nhé. Vì tiêu chí của BBT là không quá 4 bài, xin anh thứ lỗi cho. Đa
tạ.
Một ý kiến từ ngàn dặm nói lên
sự khát vọng về một mối tình không bóng của “Vang bóng một thời”. Đó là chùm
thơ “Khu vườn thi văn tình ái VHH mà nguyên soái là chị Võ Hồng Phi rất có chất
lửa. Chúng ta hãy lắng nghe chị thì thầm mà dữ dội qua Email nhé:
“Anh Tiếu ơi! Tờ kỷ yếu đến đâu
rồi. Cho tôi lập mục vườn thơ tình ái VHH cho vui vậy mà, 50 năm rồi để cho
những tình câm, tình một chiều, tình thơ, tình mơ... được thổ lộ kẻo chết không
nhắm mắt. Tôi phải mất công lắm, mỏi cả tay lẫn mỏi cả miệng mới moi ra được
những bài thơ tình đó. Anh làm ơn cho đăng vào Đặc San nhé. Thêm vài trang đi,
không đăng thì tôi bị giận đó, Cả dời mới được một tờ báo mà được vui vẻ cả
làng phải không anh?”
- Ui chao các bạn ơi! Đây là
những lời chân thành mộc mạc và tha thiết, không đăng sao được!
Cảm ơn chị nhiều lắm, nhờ vậy mà
đặc san có thêm chùm thơ dí dỏm và ngộ nghĩnh của một thời xa vắng! Thật đáng
nhớ để đời!...
Một người anh xứ Huế, hiện ở Sài
Gòn rất quen thuộc trong chúng ta, có trí nhớ rất phong phú. Đó là anh Phan
Đình Trừng – Anh vẫn còn nhớ quán bún bò bà Ba cầu Ga, tiệm Tailleur Tân Đức...
Anh đã gởi bài về, kèm những lời thành thật :
“...Mong có gì tốt nấy, xin có
lời ủy thác để phù hợp với kỷ yếu, phát hành nội bộ, các anh toàn quyền biên
tập, cắt bỏ sửa chữa...”
Lời cuối:
“Xa xôi, tôi cũng như một số
bạn, rất phấn chấn là chúng ta sẽ gặp nhau dúng ½ thế kỷ. Kính chúc thành
công.”
Tiếp theo là lời chúc của anh
Hoàng Đằng nữa, mà là cụ Đằng ra phết – Các bạn sẽ thấy qua hình ảnh cụ thể.
Một ông già râu bạc phơ rất đẹp lão).
Chuyện lạ thế nầy: Vào khoảng
tháng 6–2008, nhân dịp thầy Nguyễn Văn Dương của chúng ta về thăm Huế, Thầy
có đem theo tặng phẩm “tuyển tập Phan Chu Trinh” do tác giả tặng anh em chúng
ta, có chữ ký của Thầy. Hôm ấy toàn bộ cựu SVHH tại Huế đã có mặt đông đủ, với
sự tham gia của thầy cao niên là thầy Cao Xuân Duẫn, do tôi xuống tận nhà rước
thầy lên. Các sinh viên đều cảm động. Mắt thầy đã bị mờ từ lâu, mặc dầu khuôn
mặt vẫn vui vẻ, rất thích trò chuyện. Bữa tiệc ấy có cả thầy Nguyễn Hữu Châu
Phan, thầy Nguyễn Văn Trọng và gia đình thầy Dương (Cô, con trai cùng dâu quý
và 2 cháu nội) tại Phủ thờ công chúa Ngọc Sơn của anh chị Phan Thuận An đã dành
mọi ưu ái và thuận lợi cho buổi gặp mặt.
Thầy Nguyễn Văn Trọng ngồi gần
tôi, chỉ qua bàn kế cận:
- Cụ nào ngồi ở bên ấy ?
- Thưa thầy, đó không phải là cụ mà
là anh Hoàng Đằng học trò của thầy đó.
Thật vậy so ra anh Hoàng Đằng
còn già hơn thầy nhiều, nên anh Đằng được gọi là cụ Đằng từ đó. Hẹn ngày tái
ngộ chắc các bạn sẽ ngạc nhiên nhiều...
Nghe giai thoại về anh Đằng cũng
giống như khi các bạn đọc bài sâu lắng của anh: “Chuyện riêng nhớ mãi chút này
xin ghi” và nhất là bài thơ “Khóc bạn” nói về người bạn quá cố Phan Cảnh Dai.
Tôi đã đọc đi đọc lại bài nầy nhiều lần mà nước mắt cứ tự nhiên trào ra. Nói
như chị Minh Hoàng “Anh em VHH như trong một nhà” cũng không sai. Thật vậy tôi
và anh Dai tuy khác lớp, nhưng xem nhau như anh em. Mỗi lần tôi thấy anh làm
gia sư cho một gia đình sau “Lò tể sinh” phải đi qua con hẽm ngóc ngách mà hôi
hám, toàn mùi phân heo rất nóng nực, khó thở. Tôi bèn mời anh về ở tại nhà tôi
rất nhiều tháng. Khi nghỉ hè tôi lại về quê anh ở Phú Lương chợ Cầu để học thi
Tú Tài II. Khi anh có con đầu lòng, anh đã đặt tên Phan Cảnh Khánh Châu để có
chữ “Khánh” Kỷ niệm cũ vẫn còn nguyên vẹn đó.
Phần cuối thư anh Đằng vẫn không
quên: “Chúc các bạn cố gắng lên, để chúng ta có thể gặp nhau trong dịp 50 Hán
học hội ngộ”.
Chuyện đời lắm lúc thật khó nói.
Đôi khi “người thân bắt đầu thành sơ “ hay
ngược lại “Tuy gần mà xa, tuy xa mà gần” phải không các bạn?
Lại một chuyện buồn cười nữa là
sự ngộ nhận khi gởi thư đi. Rồi một cú điện thoại làm tôi cảm động chảy nước
mắt khi nghe một giọng nữ phone về :
-Có phải bác là bác Tiếu gởi thư
cho ba con phải không? Ba con là Phạm Đức Minh.
- Vâng, chính bác đã gởi thư cho
ba.
- Thưa bác, ba con đã mất rồi,
còn vài ngày nữa là giáp năm. Cám ơn bác đã quan tâm.
Nghe tin buồn. Tôi bàng hoàng
tôi nghẻn lời và hình như phía bên kia đương dây cũng vậy, Tôi đành phải mạn
phép anh chị em ở Huế, xin tạ lỗi vì đường sá xa xôi, thật vô tình, hẹn sang
năm 2009 sẽ làm lễ tưởng niệm có tên ba nhân ngày gặp mặt tại Huế và mời gia
đình ra dự lễ nếu thuận tiện.
Nghe chớp nhoáng ở trong điện
thoại nên phân vân, vì té ra có hai anh tên Minh. Một là Phạm Đức Minh đã quá
vãng, hai là Pham Văn Minh, lầm lẫn nên đánh dấu vào danh sách Phạm Văn Minh là
Bà, để viết gởi thư mời.
Do vậy mới có lá thư của anh
Phạm Văn Minh trách khéo nhẹ nhàng (Xin lỗi ngàn lần, có vậy em sẽ chuộc tội, sẽ
lo cho anh ngày về...) "...Chẳng biết các bạn và ngay cả Tiếu nữa nói mình “về
bên kia thế giới” Mình còn đây và gởi lời cho bạn đây. Mong một ngày không xa
sẽ gặp lại nhau.
Cho mình gởi lời thăm hỏi các
bạn ở Huế.
Chúc sức khỏe và an khang. Bài
mình viết đã lâu, hôm nay mới có phần kết. Gởi tới bạn, cứ việc sửa nếu cảm
thấy chưa tốt, được viết và được đăng trong đặc san là quí và hân hạnh lắm
rồi.”
Tôi còn nhớ một người khả kính
nữa, và là người đầu tiên đề xướng làm đặc san trước năm1998. Đến năm 1999
trong lễ kỷ niệm 40 năm, đặc san đã không thực hiện được, đó là anh Lê Ngọc
Bích hiện ở Sài Gòn.
Khi nhận được lá thư ngỏ năm
2008 và thư báo tôi gởi vào tháng 6-2009. Đến ngày 12.8.2009 anh mới hồi âm,
lời lẽ thống thiết đọc ra ai nghe cũng xúc động: “...Nhận lá thư ngỏ của Thuận
An và bạn Tiếu gởi vào lâu rồi, hôm nay mới xin hồi âm. Sở dĩ chờ lâu vậy là để
tôi nghiền ngẫm xem cái thể xác của tôi nay đã già yếu, coi thử nó có thể ra
Huế lần cuối cuộc đời thăm lại bạn bè xưa và gia đình quê hương được không?
Xem xét lại, thử đi thử lại, làm
test nhiều lần thì nay mới thấy cái thân xác tôi, nay đã đi vào thời phế bỏ
rồi, không đi xa (đi bộ) được vì càng đi thì xương chậu (bassin) bị trặt đau
lắm lết đi không nổi.
Tôi tính chuyện một công mà đôi
ba việc: sắp xếp về mừng lễ 50 năm VHH, gặp lại bạn cũ, thầy xưa một lần cuối
đời, để khi chết còn có bạn nhớ đến. Sau nữa về thăm quê hương cũng lần cuối
đời rồi chết. Vậy mà cái thể xác tôi nó tệ lắm rồi, nó nặng nề vì bệnh hoạn, nó
không nhanh nhẹn làm theo ý muốn cua tinh thần.
Tôi không thể không mời các bạn
nghe tiếp đoạn nầy: “Tôi có gắng hết sức để đi một chuyến... cầu xin ơn trên
phù hộ cho tôi được gặp lại bạn bè thân thương! Nếu không gặp được thì thật bất
hạnh cho lão già Bích nầy lắm thay!
Chúc Thuận An và các bạn bình an
may mắn. Xin gởi tấm ảnh của lão già nầy, tấm hình không còn “xưa” nữa mà cũng
đúng là thời “nay” lụm khum”.
Bi quan làm gì! Xin hãy tha thứ
cho mình và cho tất cả mọi người. Định luật của đời là thế:
“...Mới tóc xanh kế đã bạc đầu
Rồi lại đến gò hoang một nấm
Ôi! Hơi thở khi nhân duyên mượn
tạm
Một sớm vô thường trả lại thôi!
Muôn việc đều nương mấy tấc hơi
Hơi vừa dứt việc đời cũng
dứt...”
Cầu xin ơn trên che chỡ và phò
trì cho anh hồi phục sức mạnh “Nội lực tự sinh”. Một ngày không xa, hẹn gặp
lại sẽ hàn huyên nhiều.
Nếu nói về tình bạn, không ai
bằng một người ở xa tít tắp tận Vĩnh Long đó là anh Trần Văn Dật, tuy xa mà gần
như tôi đã nói ở trên. Anh thường xuyên thư từ và phone cho tôi. Lá thư đề ngày
2.9.2009 anh tâm sự; “...Tôi rất xúc động và nôn nao..., nhưng tôi cứ bị đau
ốm hoài, những bệnh của tuổi già “rất bất tiện” khi phải đi xa! Nên chắc chắn
là tôi không thể ra dự để gặp thầy cũ và bạn bè xưa. Đời một lần mà không có
mặt mình trong cuộc vui, thật là đáng tiếc. Tôi buồn lắm “lực bất tòng tâm”
biết làm sao bây giờ ?
Vậy tôi nhờ anh Tiếu chuyển lời
xin lỗi đến quí thầy và tất cả bạn bè...”
Lá thư thứ 2 đề ngày 8/9/2009
anh đã góp ý như sau: “... Vì bọn mình xuất thân từ viên Hán Học mà trong đặc
san báo không có một bài: “Thất ngôn bát cú Đường luật” thì cũng hơi “khó coi!” Tôi chỉ gợi ý như thế, còn tùy anh em trong Ban Biên Tập quyết định!
Anh còn có tâm trạng của người
vắng mặt là có lỗi, qua đoạn thư sau: “Một lần nữa, tôi xin thưa với
mấy anh em ngoài Huế răng:”vì sức khỏe không cho phép” nên tôi không dám đi
ra Huế dự chơi với mấy anh em! Đó là một thiệt thòi rất lớn đối với tôi! Mấy
chục năm gặp lại bạn bè ai mà chả thích? Mà tôi lại là người rất “sánh bạn.” Ngày
xưa ở VHH tôi có bạn trong lớp đã đành, mà ngay cả những lớp khác, tôi đều quen
thân! Nói như thế để anh em thấu hiểu cho tôi, mà chớ trách móc! Thật sự lần
nầy không về dự với anh em, tôi rất áy náy và có lỗi với anh em!”
Nhớ lại chặng đường đi qua nhanh
quá mà tủi phận. Hồi ấy 1965 Viện Hán Học bị giải thể. Vào 1966, 70 sinh viên VHH tốt
nghiệp được bộ Giáo dục hồi ấy bổ dụng gồm khóa I và khóa II đều được đi dạy.
Cuộc sống cho ta nhiều quên nhớ
vui buồn. Bè bạn cũ ngày xưa không lầm được. Buồn là ngày gặp mặt đã có nhiều
bạn “khuất núi.” Nói về nàng Tôn Nữ cụ Đông Hồ Lâm Tấn Phát đã co câu thơ này:
“Gió cầu vướng áo nàng Tôn Nữ
Quai lỏng nghiêng vàng chiếc nón
thơ”
Hai câu thơ bất hủ này đã làm
cho tôi nhớ đến lớp tôi có đến ba nàng Tôn Nữ. Một là Tôn Nữ Hiếu mới gởi ra cho
tôi hai tấm ảnh thật đẹp, từ hồi mới đám cưới mặc áo mạng phụ, đội khăn vàng
trông rất đài các, khiến phu quân Giám đốc Kho bạc thời ấy phải mê mệt, một tấm
là sinh nhật năm 2006 lại “đẹp lão”, nên chi chị một hai đòi lại cho được sau
khi về dự lễ. Gởi thư cho tôi cho tôi chị đã nói: “... và anh học ở lớp nào mà
tôi nghe rất quen. Xin lỗi anh nhé, tôi đi vô Nam quá lâu nên tôi không còn
nhớ nhiều ở Huế, anh thông cảm cho.”
Hồi ấy tôi ngồi sau lưng chị đó,
bên cạnh bạn Lê Văn Bảy, Phan Lục Tú, Lê Sùng (anh đã quá cố), và Trần Viết Thủ
ngồi một hàng ghế...
Chị còn thắc mắc: “Tại sao anh
biết địa chỉ của tôi mà gởi thư cho tôi thế, thật tình tôi rất cảm động và cảm
ơn anh rất nhiều.”
Người thứ hai là: Tôn Nữ Hòa đã
“Một thời vang bóng” với mái tóc thề óng mượt ngang vai, biết bao chàng ở lớp
trên để ý. Chị còn phone cho tôi hỏi
ngày nào tổ chức cụ thể để bỏ ống mà về (tri thứ thiểu dục là tốt là tốt) Bấy
giờ tôi chỉ biết chơi với các bạn nam như Lê Sùng, Thủ, Huỳnh Văn Như (đã quả
cố) nên không hề biết phụ nữ. Chị thứ ba là Tôn Nữ Du cũng có mái tóc thề óng ả
ngang vai, da ngăm, môi son, hiền thục, đoan trang.
Một người chị rất xa tận Bình
Dương là chị Nguyễn Thị ngọc Sương khỏa II, cũng cho con gái cưng của mình là Túy
Vân đi du lịch về Huế, có tìm đến nhà tôi để tin tức cho mẹ.
Thật bất ngờ khi gặp Túy Vân,
người con gái chị Sương với phong cách công nghiệp rất lễ phép và lịch lãm. Con
của nhà giáo có khác! Khi hồi âm cho tôi chị đã nói:
“...Bạn đã quan tâm đến các bạn
miền Nam. Rất cảm động. Đồng thời với thư thông báo họp mặt, tự dưng Sương có
cảm xúc và viết một bài thơ nhỏ, nếu cảm thấy không có gì trục trặc và còn chỗ;
cho nó nằm vào một góc nha”. Thật là khiêm nhường.
“Vô đề” đi kẻo lục thập, nhất
thập “run lập cập đến nơi, hơi sức đâu mà tri thiên mệnh”. Đó cũng là đầu đề
cảm xúc thật của người anh miền Nam tại Long An: Anh Nguyễn Văn Đức đã trút nỗi
lòng:
“...Tôi nhận được cả hai thư của
bạn... quá cảm xúc tôi viết ngay bài tạp bút này. Nay gởi cho bạn tôi không thêm
bớt một chữ nào, có thể nó không phù hợp với đặc san, nhưng đó là cảm xúc thật
của một người miền Nam đi học chữ thánh hiền rất xa (Huế). Đăng được nếu có
“chỗ” không được tôi cũng rất vui vì đã tỏ bày được tình cảm của mình.”
Thưa hiền anh, hiền chị “chỗ”
không bao giờ hết, nhắc gì đến: “...Nè chú em nồi gạo còn hay hết? Còn xị nào
thứ thiệt để cùng say!” Hẹn ngày về vui vẻ hơn.
Trên đây là những tâm tình của
anh chị nói lên tâm trạng của mình và bộc bạch tấm lòng trong ngày gặp nhau
“lịch sử” 50 năm VHH chúng ta. Thông qua thư đi thư lại bốn phương mà tôi là
thư ký thường trực. Xin ghi lại trung thực để bật mí cho tất cả cùng nghe.
Thay mặt anh chị en trong BBT
xin chân thành cám ơn sự đóng góp ý chân thành và động viên để hoàn thành tốt
công việc trước mặt. Hẹn gặp lại.
Huế, ngày 11.11.2009
Trần
Khánh Tiếu khóa III
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét