Chuyến
Xe Đời Đi Sớm
Viết để thương một phần đời thật của PTQC với hy vọng vẫn còn
đâu đó trên đường đời nghiệt ngã đọc được bài này
Ra tù, về
lại Sài Gòn, giờ đã đổi tên thành phố HCM, căn nhà gạch nhỏ cũ trong con hẽm hẹp, ba mẹ Phú mua lại từ một người
quen, có hùn vốn buôn bán sau ngày đảo chánh 1963, ở ngã tư Phú Nhuận, sau lưng văn phòng
hội đồng xã, vừa đủ cho một người quảy cặp thúng ngang đi, đã bị chánh quyền mới
khóa cửa niêm phong, xem như là tịch thu nay mai, có chủ cũng như không, vì nó
là tài sản của ngụy quyền bỏ lại, cầm tờ giấy tha về, từ trại tù cải tạo, đứng
ngỡ ngàng trước cửa lặng câm, tức nghẹn. May mà còn có dịp năn nỉ ỉ ôi, tên trưởng
công an phường lầm lì, sửa lại địa chỉ trình diện, cho phép tạm trú bên nhà của
ông cậu Năm ngay ngã ba Gò Vấp. Nếu không chắc phải mang nồi niêu son chão và mấy
bộ đồ rách cũ theo giòng người dân cô thế mất nhà, đổi đời lên khu kinh tế mới
Bù Gia Mập hay Bù Yum nào đó, bạn bè với mưa rừng gió núi.
Mượn được
cái xe đạp tuy cũ nhưng còn khá tốt của ông cậu, Phú cũng giống một số bạn bè
cùng số phận, lang thang, rã rời, đầu đường cuối chợ, ngày qua ngày, chạy kiếm
sống. Giữa trưa, nắng đổ nóng chang chang, trời không thèm cho một chút gió, dù
là chút gió thoảng, lưa thưa trên con đường Lê Văn Duyệt năm ba anh bộ đội, uể
oải dài lưng đạp xe đạp Trung cộng, mặt mày ngó quanh ngó quất. Người mệt
nhoài, sau suốt một buổi sáng chở xăng đi bán lậu tận trong Chợ Lớn về, khát
nước, Phú ngừng lại, đẩy xe đạp lên lề đường, ngay ngõ băng qua công viên Tao
Đàn, có sạp bán nước uống, kê năm ba cái ghế bằng nhựa nhỏ thấp, sát hàng rào cổng
vào, ngồi xuống nghỉ, gọi mua ly trà đá. Một trong hai ba cô gái trẻ bán hàng,
bước lại hỏi đôi câu, gật đầu rồi bỏ đi. Phú kéo ghế xích gần bụi cây cho có
bóng mát, chưa kịp đưa tay quẹt ráo được mớ mồ hôi trên trán chút nào, thấy có
người đến, anh quay lại nhìn. Người con
gái cầm ly nước trên tay, đứng chết trân, buột miệng “anh Phú”, cùng lúc Phú cũng ngạc
nhiên sửng sờ gọi tên “Quỳnh Chi”. Quỳnh
Chi quay vào phía mấy cô bạn ở đằng sau cái bàn làm dấu rồi lấy ghế ngồi xuống bên cạnh Phú, ngó mông lung ra ngoài đường,
chỉ có bụi và bụi, hai người ngồi đó, không ai nói được tiếng nào, Phú lập lại
hai tiếng Quỳnh Chi, thở dài, Quỳnh Chi rươm rướm khóc.
Về giữ chức
vụ Phó quận trưởng Quận Đôn Luân, thay cho người đàn anh khóa 16, đổi về Di
Linh, chưa đầy một năm, thì Phú quyết định xin phép về Sài Gòn nghỉ vài ngày để
nộp đơn thi lên Cao Học. Nhớ ngày mới lên tỉnh, trình diện ông tỉnh trưởng Phước
Long, đại tá Thống, ôn tồn căn dặn phải ráng cẩn thận, tình hình chiến sự hiện
hết sức căng thẳng, đi đâu nhớ để ý đường xá và nếu xuống xã ấp thì bảo bên chi
khu cho lính theo bảo vệ. Buổi chiều thiếu tá Đặng, quận trưởng Đôn Luân và đám
lính tùy tùng, đem xe lên rước, trước mặt ông, đại tá Thống, nhắc đi nhắc lại
phải lo cho Phú mọi thứ, nhất là cứ lập đi lập lại, mấy tiếng “tui khoái ông Phó lắm đó nghe.” Khi bắt
tay từ giã, thân chân ướt chân ráo, mới ra trường, trẻ tuổi nhất trong đám QGHC
của tỉnh, chưa làm việc gì, nghe nói khoái mình, ngờ ngợ không biết ông khoái
cái gì, nhưng được ông ưu ái là mừng hết sức rồi. Sau đó mỗi lần ông gọi máy
liên lạc viễn liên, lệnh lạc gì đó với quận, thiếu tá Đặng đều cười mỉm chi cho
biết là ông không bao giờ quên hỏi “ông phó Phú ra sao rồi” trước khi cúp
máy. Có lần trong chuyến đi xuống thanh tra vụ cấp số toán nhân dân tự vệ xã
Phú Riềng về, ngồi ăn cơm chiều trong chi khu, ông hỏi Phú có người yêu chưa. Khi
anh lắc đầu, thì thiếu tá Đặng phá lên cười ngặt nghẽo “vậy là tui biết tại sao Đại tá, ổng khoái ông phó rồi, ổng chấm ông rồi
đó”, Phú cũng cười theo “chẳng lẽ đây
là duyên số.”
Chiều Thứ Bảy, thiếu tá Đặng từ bên chi khu, lái xe qua gặp Phú bên nhà anh đang ở, căn
nhà gạch nhỏ, bên này hàng rào của văn phòng quận, dáng bộ xem chừng ra có gì
quan trọng. Ông cho Phú biết, vừa nhận lệnh đại tá Thống, bảo anh lên trình diện
ổng sáng Thứ Hai này mà không nói gì thêm, ông sẽ cho người lo xe và lính hộ tống
theo. Suốt buổi chiều Chủ Nhật, Phú cứ nghĩ tới nghĩ lui mà không biết chuyện gì đây,
tuy nhiên cũng tiện, sẵn dịp xin phép về Sài Gòn vài bữa luôn. Cô thư ký tiếp
khách, nhanh nhẹn rót tách nước trà nóng mời Phú ngồi, gỏ cửa phòng, nói vọng
vào trong “dạ có ông phó Đôn Luân chờ đại
tá ngoài này” rồi đứng ở cửa chờ, uống được vài hớp thì nghe tiếng ông gọi.
Phú nhìn cô thư ký, làm dấu cám ơn, rồi đẩy cửa bước vào, cùng lúc cô cũng quay
lại bàn ngồi như lúc nảy.
Hai người
ngồi cạnh nhau ngay bàn khách giữa phòng, Đại tá Thống vui vẻ hỏi thăm mấy chuyện
lặt vặt dưới quận, rồi cười cười nhìn Phú gục gặc đầu, có vẻ thích thú, chậm
rãi cho anh ta biết, “sáng Thứ Bảy hôm
đó, ông trên đường từ Phước Lục, một xã của quận Bố Đức về ngang văn phòng quận
Đôn Luân, trời còn sớm, chưa tới mười giờ, tiện nhớ tới Phú nên bảo đoàn xe chạy
ngang ghé thăm. Thấy xe jeep của đại tá tỉnh trưởng, anh lính nghĩa quân gát cổng,
chạy vội ra đứng nghiêm chào, không nhúc nhích. Xe dừng lại, anh trung úy tùy
viên và mấy người lính hộ tống nhảy xuống, đứng lố nhố bên đường vào, chờ lệnh.
Văn phòng quận vắng tanh, không một bóng người, then gài cửa đóng, đại tá Thống
bước ra khỏi xe, đi một vòng quanh qua quanh lại. Xa xa phía bên kia hàng rào
chi khu, lác đác, mươi người lính Địa Phương quân đang hì hục đào thêm hố cá nhân
đâu đó. Ông quay trở lại chỗ cũ, hỏi anh lính nghĩa quân, anh ta nói ông Phó
cho phép nhân viên về nghỉ sớm từ sáng rồi”.
Phú giựt
mình, đúng là sáng Thứ Bảy đó, qua văn phòng như thường ngày, trên bàn không có
giấy tờ gì để đọc, để ký như mọi bữa, mấy
việc giao cho anh chị nhân viên cũng đã làm xong xuôi. Đi ra đi vô, nhìn tới
nhìn lui, thấy buồn buồn nên, Phú cho phép họ, về nghỉ sớm. Anh hồi hộp chờ xem
ông có nói gì thêm, trong đầu cũng chuẩn bị nhiều câu trả lời nhưng ông ngưng ở
đó, rồi bắt sang chuyện khác, “nghe thiếu
tá Đặng nói, ông muốn về Sài Gòn vài ngày để nộp đơn thi Cao học, mà chừng nào
mới đi, muốn đi thì nói cho thiếu tá
Đặng một tiếng để ông ta lo liệu.” Phú xoa tay nhè nhẹ nhìn ông dạ một tiếng
“thưa đại tá, tôi tính cuối tuần này”,
Phú nói thêm “dạ còn chuyện sáng thứ bảy...” chưa hết câu thì ông lắc đầu cười cười “thôi
bỏ qua đi, tôi chỉ sẵn qua ngang, ghé thăm vậy mà”, rồi ông nhìn đồng hồ
trên tường, đứng dậy, đi lại bàn viết, lấy trong ngăn kéo ra tờ giấy nhỏ, có
ghi địa chỉ nhà ở Sài Gòn, đưa cho Phú, dặn “nhớ
ghé cho biết nhà và chuyển lời thăm gia đình của ông”, đi với Phú ra cửa, bắt
tay từ giã, không quên dặn dò “ông phó đi
đường cẩn thận.” Phú xuống gần dưới cầu
thang lầu rồi vẫn chưa nghe tiếng cửa phòng ông đóng lại.
Nhà đại tá Thống, một cái nhà gạch hai
căn, nằm dính liền với dãy nhà khác trong con hẽm rộng, không xa ngã tư Nguyễn
Tri Phương – Trần Quốc Toản mấy, nên cũng dễ tìm. Trước nhà là sân xi măng nhỏ,
nằm gọn trong vòng cái hàng rào bằng sắt, cao không quá đầu người, giây hoa dại
leo chằng chịt, năm ba chậu bông Sứ, không tươi nhưng cũng có lưa thưa vài cánh
hoa ửng màu vàng trắng, đặt không ngay ngắn trước cửa. Bà đại tá niềm nở đón
Phú vào nhà, ôn tồn, hiền lành hỏi thăm đủ thứ chuyện, từ chuyện của Phú tới
chuyện của chồng bà trên Phước Long, cứ “một
ông phó hai ông phó” làm anh ngượng quá xin bà kêu tên được rồi. Bà nói có
đòi lên thăm ông nhưng ổng không cho vì tình hình an ninh không tốt để đi chơi. Nhìn tấm hình chụp cả nhà, treo trên tường phòng khách, chưa kịp hỏi, bà đại tá
đã nhanh miệng hơn cho biết “đó là hai đứa
con gái của bác, tụi nó học ở trường Sương Nguyệt Ánh, con chị sắp lên đệ nhất,
con nhỏ lớp đệ tam.” Thấy ở cũng đã lâu, Phú xin phép về, bà ân cần mời
Phú, trước ngày trở lên Phước Long, nhớ đến ăn cơm chiều với bà, luôn tiện biết
mặt hai đứa em và để bà nhắn vài lời cho ông trên đó.
Như đã hứa,
Phú đến ăn cơm tối với gia đình bà đại tá, trước ngày rời Sài Gòn. Vốn nói năng
không tệ lắm, nên anh làm quen với hai cô gái từ lúc mới bắt đầu vào bữa một
cách dễ dàng. Bà đại tá vui vẻ ra mặt, Quỳnh Chi, cô chị, bẽn lẽn e ấp, ít nói,
cô em Quỳnh Trâm, nhanh nhẩu, lăng xăng, hỏi hết cái này tới cái nọ, “một tiếng anh Phú hai tiếng cũng anh Phú” một
cách thân mật, tường chừng như đã quen nhau hồi đời nào rồi. Cơm nước xong,
theo lời Quỳnh Trâm, được phép mẹ, Phú cùng hai chị em, thả bộ dọc theo đường, xuống
cái sạp bán chè, cuối ngã tư Trần Hoàng Quân - Nguyễn Tri Phương ngồi nhìn
thiên hạ ngược xuôi, kể nhau nghe chuyện trời trăng mây nước. Trở lại nhà, mọi
người xem ra bịn rịn không muốn chia tay. Trời bắt đầu có chút hơi đêm lạnh
nhưng đứng gió, Phú ra về, hẹn lần sau, ba mẹ con theo đưa tới tận ngoài đầu đường
Trần Quốc Toản, bên kia nhà thờ Đồng Tiến, chuông lễ muộn đổ từng hồi một. Chiếc
xe xích lô, để mui trần, chạy một khoảng khá xa rồi mà dưới ánh đèn đường vàng
đục, ba người vẫn còn đứng nhìn theo. Sáng sớm hôm sau, ngồi trên phi cơ vận tải
C130, có phi vụ chở đồ tiếp tế cho Phước Long, nhờ thằng bạn làm bên Không đoàn
3, sắp cho một chỗ quá giang, nhìn xuống, Sài Gòn chưa chịu thức, mưa lất phất
như sương, đường phố vẫn còn ánh đèn mù mờ bên dưới, bỗng dưng Phú thấy nhớ nụ cười nửa miệng của Quỳnh
Chi lúc tiễn anh về và hình như một nửa hồn mình đã bỏ lại con hẽm nhỏ Nguyễn
Tri Phương từ bữa ăn chiều hôm đó.
Cuối hè, đầu
năm học mới, Quỳnh Chi vào đệ nhất, cũng ở trường cũ, Phú chưa được may, “học tài thi mạng” cho nên không đậu vào
Cao học. Hôm từ Phước Long xuống trường xem kết quả, đón hai chị em trên đường
về nhà, không biết có ai nói vô nói ra gì không, mà Quỳnh Trâm cứ ngó, hết Quỳnh
Chi rồi qua Phú, cười tủm tỉm, đám bạn chung lớp của Quỳnh Chi, người trước người
sau, cũng xầm xì “biết rồi nhỏ ơi, hết giấu
rồi nghen.” Phú thấy trong lòng lâng lâng vui như đang mở hội, và từ đó,
hai người thương nhau, ghép nhớ gói nhung theo từng cánh phượng rụng đỏ bầm của
những ngày hạ sang mùa, hẹn chờ nhau đưa
về bến mộng.
Trưa thứ bảy, mấy ngày nay trời nắng ráo,
Phú cùng thiếu tá Đặng, quận trưởng và hai ba anh sĩ quan, rũ nhau ra ăn trưa tại
một quán cơm đầu chợ. Ăn xong, ông nói sẽ ra bến xe Đôn Luân có việc, trước khi
trở lại chi khu. Ông cũng báo cho Phú biết,
chút nữa sẽ có khách tới thăm, nhắc anh lo sửa soạn đi là vừa. Phú hỏi ai, ông
cười cười “thì ông chờ đi rồi biết mà.” Phú ngạc nhiên thật, ba mẹ anh thì ở tận dưới Long Xuyên, già yếu rồi, đời nào
tính chuyện lên tới xứ rừng âm u này, bạn bè, thằng quận này, tỉnh kia, thằng
lính trận đầu núi cuối đồng, lội rừng băng suối chưa xong thì làm gì có chuyện
rảnh rổi, thôi cứ theo lời của thiếu tá Đặng, chờ rồi sẽ biết. Ra khỏi tiệm,
chưa vội đi, anh lính quen, gát cổng văn phòng quận, dẫn mấy đứa con đi ngang, cúi đầu chào “ông phó”, rồi hấp tấp bỏ
đi. Phú lửng thửng thả bộ vòng vòng con phố, cười nhìn theo vẫy tay, đám nhỏ hồn
nhiên cũng đưa mấy bàn tay nhỏ nhắn lên, lắc qua lắc lại.
Đứng nhìn ở
cuối chợ, từ đàng xa, ngoài tỉnh lộ, hai chiếc xe jeep chầm chậm quẹo vào hướng
chi khu rồi ngừng lại trước cửa văn phòng quận. Thiếu tá Đặng ngồi ở xe trước,
hai ba người lính đi theo hộ tống, nhảy xuống xe, chạy một mạch vào, ngó tới
ngó lui lắc đầu, băng ghế sau lưng thiếu tá Đặng hình như có người ngồi. Ông
quay lại nói gì đó rồi bước xuống, nhìn quanh, chưa kịp làm gì, một trong mấy
người lính vừa chỉ tay về phía chợ la lớn “ông
phó kia kìa” thì Phú cũng vừa đi lên gần tới. Quỳnh Chi bước đại xuống xe,
bụi đường rừng một màu bùn bám đầy vạt áo ngắn tay tím nhạt, nắm lấy tay Phú,
hai người nhìn nhau rưng rưng mừng muốn khóc. Đầu mùa đông năm 1974, rừng chập
chùng rừng, từ Bố Đức Phước Bình, Bù Prang Sơn Giang qua Đức Phong Đôn Luân, Bù Đăng Đồng Xoài, vẫn
chưa thay lá mới, lá một màu nâu nhạt, rớt vội rớt vàng, cũng còn nấn ná trên những
con đường đất ngược xuôi, buồn hiu theo gió chiều hậm hực nóng dù trời đã cuối
thu. Từ ngày Quỳnh Chi lên Đôn Luân thăm Phú, mỗi lần gặp hay gọi xuống quận
tìm, đại tá Thống vẫn còn kêu hai tiếng “ông
phó”, và ngược lại, anh cũng cứ “dạ đại
tá” như từ trước tới giờ nhưng có điều là ông gọi xuống quận thường xuyên
hơn.
Đêm 12 tháng 12, mở đầu cho chiến dịch
“đường số 14”, quân cộng sản tấn công một tiền đồn của VNCH ở cây số 19 , rồi tấn
công chi khu Bù Đốp, quân VNCH tái chiếm lại sau đó mấy ngày, nhưng đường 14 bị
cắt đứt tại cây số 19. Ngày 22 tháng 12, trung đoàn 165 thuộc sư đoàn 7 cộng sản
tấn công quận lỵ Bố Đức lần thứ hai , cũng cùng ngày đó, Phước Tín, Phước Lộc,
Phước Quả thất thủ. Năm giờ sáng ngày 26 tháng 12, chi khu Đôn Luân bị chiếm,
thiếu tá Đặng và một số anh em sĩ quan dưới quyền của tiểu đoàn 352 Địa Phương
quân VNCH bị bắt tại ấp Suối Rạt. Khi trên đường rút ngược ra tỉnh lộ, Phú may
mắn, theo anh lính nghĩa quân quen gác cổng văn phòng quận, dắt đường chạy tắt
xuống phía nhà dân chúng giữa lúc lửa đạn mịt mùng và quân cộng sản bao quanh
chi khu đông như kiến. Chiều ngày đó,
quân cộng sản chiếm luôn đồn Cầu số 2 và bải đáp trực thăng của VNCH. Trong hai
tuần, quân cộng sản cắt ngang mọi ngã đường đến Phước Long, từ đường số 14, số
7, liên tỉnh lộ số 1 và 2, quận lỵ Phước Bình và thị xã Phước Long hoàn toàn bị
cô lập. Ngày 4 tháng 1 năm 1975, sau những trận đụng độ một mất một còn, quân
VNCH chỉ còn giữ được dinh tỉnh trưởng, tòa hành chánh và khu phố chợ. Mười giờ
ba mươi phút sáng ngày 6 tháng 1, Phước Long thất thủ, cứ điểm cuối cùng dưới hầm
ngầm trong dinh tỉnh trưởng do biệt kích dù VNCH cố thủ bị chiếm. Số quân còn lại
của họ rút ra khỏi tỉnh, một số bị bắt, một số bị bắn chết tại Suối Dung, đại
tá Thống, tỉnh trưởng Phước Long chết cùng với mấy người sĩ quan tiểu khu, ngay
dưới hầm sau mấy ngày chống cự. Quân cộng sản, mang xác ông và mấy cái xác
khác, đem chôn cạnh nhau tại một khu đất trống, khô cằn, phủ đầy cỏ dại, phía
bên kia đường nhựa, ngó qua ngã ba bến xe đò tỉnh. Họ coi theo bảng vải thêu
tên trên áo, viết trên mấy cục đá bằng nước sơn vàng, đặt vội vàng trước mộ, đắp
không cao quá mặt đất. Phước Long mất, Phú về tới Sài Gòn sau suốt gần cả chục
ngày trời trà trộn theo đoàn người di tản xuống Bình Dương.
Phú vừa bước
vô nhà, hai chị em Quỳnh Chi ôm chầm lấy anh òa lên khóc nức nở, bà đại tá ngồi
lặng im trên cái ghế xa-lông vải bạc màu, trong góc phòng nhìn, hai mắt đỏ hoe
nhưng cũng cố gượng cười nhẹ chào. Ông Bá, người tài xế quen, của chiếc xe đò
chạy đường Phước Long-Sài Gòn, trước là lính theo hầu cận đại tá Thống, giải ngũ sau khi bị thương nặng trong lần bị phục kích ở cuối xã Bù Yu, mà gia đình thường
gởi đồ lên đó, đã cho biết tin khi ông lái chuyến cuối cùng rời tỉnh sau khi
quân cộng sản cắm cờ trên nóc tòa hành chánh tỉnh. Phú cũng không biết phải làm
gì đây, khi không tìm được một lời an ủi nào cho trọn nghĩa, cứ ray rứt buồn
theo cái mất mát quá lớn của gia đình Quỳnh Chi ngày này rồi ngày khác. Bà đại
tá không buồn ăn uống, người yếu đi nhiều, bài vỡ cuối năm xem ra, với Quỳnh
Chi dường như đã trở thành vô nghĩa từ lâu. Phú về Long Xuyên thăm ba mẹ vài
hôm, trở lên thì bà đại tá đau nặng, hai chị em đưa bà vô bệnh viện Bình Dân,
có người anh bà con làm bác sĩ ngó chừng giùm cũng đở phải lo. Trong nhà, giờ
có thêm bàn thờ trên đầu cái tủ lớn giữa phòng khách. Trong bức hình chụp nửa
người mặc quân phục, đại tá Thống cười thật hiền, nụ cười mà Phú đã gặp hôm lên
trình diện ông trên tỉnh. Cũng như anh chị cùng ngành, trong đó có mấy người
phó quận trưởng, từ các tỉnh dọc biên giới bị chiếm, Phú về trình diện bộ Nội Vụ chờ bổ nhiệm chỗ
mới, nhưng chưa có sắp xếp gì, thì có tin thêm vài nơi nữa bị cộng sản chiếm
ngoài miền Trung, mấy ngày sau Sài Gòn mất.
Ba mươi
tháng tư 1975, miền Nam thua trận, quân cộng sản từ rừng thiêng nước độc, xe
người, quần áo một màu xanh ô-liêu, rầm
rập tiến vào thành phố, Sài Gòn đổi tên. Ông Bá, tiếp tục nghề tài xế, chiếc xe
đò hồi đó được người chủ cho sơn phết lại đôi chút, ghé nhà cho biết, sau mấy
tháng kiếm tìm, dò la tin tức, biết được nơi quân cộng sản chiếm Phước Long hôm
6 tháng 1 năm 1975 chôn ông đại tá rồi. Mấy ngày sau, cũng với sự giúp sức của
ông, gia đình bà đi Phước Long, mang được hài cốt ông về chôn ở ngã ba Mỹ Đức
Tây quận Cái Bè, quê của cha mẹ. Một sáng mưa dầm tháng sáu, cũng như hàng ngàn
người quân nhân, công chức VNCH mang thân bại trận, và cũng không có một sự lựa
chọn nào khác, Phú trình diện chịu đi tù cải tạo, theo thông cáo của cái gọi là
Ủy Ban quân quản thành phố HCM.
Ngay đợt
đánh “tư sản mại bản” đầu tiên, thừa hành lệnh cấp trên, công an phường và quận
10, đến nhà, đưa giấy báo quyết định tịch thu nhà cửa vì gia đình Quỳnh Chi có
tên trong danh sách hơn mấy trăm người, được nhà nước cách mạng, bố trí cho đi
vùng kinh tế mới trên Sông Bé. Họ cho phép gia đình ba mươi ngày để sắp xếp, hộ
khẩu ở đây sẽ cắt và chuyển lên địa phương mới khi ra đi. Ba mẹ con, đón xe đò
về Cái Bè, xuống xã, ở đó có một số bà con của chồng mình sinh sống, nộp đơn
xin cho hồi hương, thay vì đi vùng kinh tế mới. Đi về năm lần bảy lượt, bổ túc
lý lịch, giấy ưng thuận bảo lảnh của bà con không biết bao nhiêu tờ, xã Mỹ Đức
Tây hẹn lần hẹn lựa, chờ ý kiến của thành phố HCM, cuối cùng không chấp thuận.
Mẹ Quỳnh
Chi bị gần như bại hẳn chân phải, thường ngồi một chỗ trên cái chõng tre, cây
dài cây ngắn hơn là đi, Quỳnh Trâm từ ngày mất nhà đến giờ, ít nói và có lúc
không tỉnh táo, khóc cười tùy hứng, quên đầu quên đuôi, lầm thầm một mình đi
vòng quanh, căn chòi lá, không cửa, lưa thưa vài tấm vách che, giữa miếng đất rẫy,
cằn cỗi, có thể nói “là đất cày lên sỏi đá”, giống như hàng trăm cái khác, cất
dọc theo một con suối nhỏ, không biết rẽ từ nhánh sông nào, mưa nắng gì nước
cũng không cao hơn đầu gối. Hơn hai phần ba, trong số trên dưới ngàn người, già
trẻ bé lớn, được nhà nước “khoan hồng, ân
huệ, tạo điều kiện làm lại cuộc đời mới, cuộc đời của người công dân xã hội chủ
nghĩa, sau những năm dài có tội với nhân dân, với cách mạng” bị cưỡng bức
lên một trong nhiều khu kinh tế mới ở Sông Bé. Chừng hai tháng trước đây, họ đã bỏ
rừng bỏ đất hoang, suối cạn trốn về Sài Gòn, như hàng chục ngàn người từ các
nơi đổ về, sống nheo nhóc, lang thang trên các lề đường, gốc cây, bờ tường khắp
đường phố. Công an phường khóm, xua đuổi hăm he, nhưng “đã cùi thì không sợ hủi” nên, họ, những người đã mất mát hết rồi
thì không còn gì để mất thêm nữa, phớt lờ, cứ tiếp tục ngày hai bữa kiếm cơm,
đi về với gốc cây, góc phố mà họ đã gọi là nhà, dẹp chỗ này họ kéo nhau đi chỗ
khác, công an hùng hổ riết rồi cũng đành chịu thua, ngó lơ. Cũng như những người
này, hai chị em dắt dìu mẹ bỏ về Sài Gòn, vào ở tạm tại một cái chùa nhỏ, cũ kỹ,
rong rêu, trơ trọi giữa bải đất hoang, ngoại ô Thủ Đức, nhờ vào gia đình, có mấy
căn phố lầu trên đường Tự Do, cũng bị lấy mất, ở bên cạnh trên khu kinh tế mới
Sông Bé chỉ cho tìm.
Một thân một
mình, lê lết đầu đường xó chợ, tìm kiếm xin xỏ việc làm nhưng không nơi nào nhận,
vì không lạy lục được cái sơ yếu lý lịch đúng yêu cầu, Quỳnh Chi, lăn lóc,
buôn bán đủ thứ, từ chợ trời Lăng Cha Cả, Lăng Ông tới Hàm Nghi, Tổng Đốc
Phương Chợ Lớn, cũng chưa đủ nuôi ba miệng ăn trọn bữa. Nàng tình cờ gặp lại Sương, ở
khu chơ trời Lăng Cha Cả, cũng là con gái, trạc tuổi nhau, là con một, có ba là
thiếu tá tiểu đoàn trưởng nào đó của sư đoàn 9 VNCH, tử thương trong trận Bảy
Núi Thất Sơn, khoảng thời gian của mùa hè đỏ lửa, mẹ cũng qua đời vì bệnh ung
thư, không lâu sau, sống với bà ngoại ở Lấp Vò, Sa Đéc, rồi bà cũng mất trước
ngày quân cộng sản chiếm miền Nam vài tháng. Vì cùng hoàn cảnh, không cửa không
nhà, cảm thông nhau, hai người trở thành bạn thân dần, chia nhau mối mai buôn
bán, cũng như ngọt bùi cay đắng của nghịch cảnh phận đời, ngày qua ngày có bữa
no bữa đói. Bên cạnh đó, Sương và Quỳnh Chi rủ thêm một cô bạn nữa, chiếm chút
lề đường, như nhiều người khác, làm đất cắm dùi, bày ra sạp bán nước ngọt cà
phê, che mắt bọn công an, nhưng là nơi để bán thuốc tây lậu hay đồ đạc, cũng lậu
do đám cán bộ, bộ đội ngoài Bắc đem vào, đôi khi có cả thuốc phiện Lạng Sơn Cao
Bằng gì đó, ba người chia nhau, thay phiên ngồi đó, để người khác chạy tìm mối
bán mua vòng quanh phường trên quận dưới.
Sau ngày gặp lại, Quỳnh Chi đưa Phú lên
Thủ Đức thăm mẹ và em, bà đại tá lúc này bệnh đau ở chân nhiều hơn trước, bà ngồi
một chỗ, ôm chầm anh ta sụt sùi khóc, Phú cũng ràng rụa, cầm lòng không được
khóc theo, Quỳnh Trâm đứng kế bên, tay quẹt nước mắt bù lu bù loa, nhìn hai người
gục gặt đầu, gọi tên Phú tiếng mất tiếng còn. Phú trở lại tìm Quỳnh Chi đôi ba
lần, cũng ngay chỗ cái sạp bán nước lộ thiên, đầu đường vào công viên cũ, ngồi
bên nhau, lần nào cũng vậy, cùng nhìn ra đường thở dài, hỏi nhau đang sống ra
sao, giữa trận bão đổi đời này, mà không ai nhắc tới chuyện ngày xưa, chuyện
tình đầu đời của một thời để yêu để nhớ. Trước ngày cùng với dân trong phường bị
bắt đi đào kinh trên vùng Xuân Thới Thượng, Phú đưa cho Quỳnh Chi cái thư, viết
lâu rồi, trong đó Phú gợi ý, muốn hai người nối lại chuyện tình mình, chờ câu
trả lời và hẹn nói nhiều hơn khi trở lại nhà.
Buổi chiều, sau ngày đi đào kinh về, trời sắp
tàn thu, lá rụng phủ đầy công viên Tao Đàn một màu vàng úa, hai ba cái xe
ba-gát chất đầy than cũi, nặng nề lầm lũi, kéo lết trên đường, người đẩy người
vịn, chân cố bám sức đi mau. Mây ở một phía nào đó, chán chường xuống thấp,
cũng còn lác đác quanh đây, một vài tia nắng muộn. Trên đường tìm việc làm ở một
hợp tác xã thuốc Nam, bên bến Bình Đông về, Phú ghé lại chỗ sạp bán nước uống tìm Quỳnh Chi,
hy vọng có tin vui, cái tin mà anh chờ anh mong ngay từ ngày đầu lên tới Xuân
Thới Thượng. Quỳnh Chi không có đó, Phú ngồi nán lại, Sương đem ly cà phê đen
có thêm mấy cục nước đá, để lên bàn, ngồi xuống, nhìn Phú rồi nhìn ra đường, buồn
buồn nói nhỏ “có lẽ Quỳnh Chi sẽ không trở
ra bán ở đây nữa”. Ngụm cà phê chợt chận đắng ngay cổ, Phú ngỡ ngàng, chết
lặng, lầm thầm hai tiếng “tại sao tại
sao”, Sương bùi ngùi kể lại môt phần chuyện của Quỳnh Chi, Phú gục đầu, mắt
đỏ hoe cay xé.
Một thân một mình, gian nan xuôi ngược, Quỳnh
Chi cũng không làm gì khá hơn, số tiền kiếm sống cho ba người ngày thiếu ngày đủ,
thương mẹ bệnh, thương em lúc tỉnh lúc điên, sau khi cùng nhau buôn bán một dạo
khá lâu, Quỳnh Chi chấp nhận làm gái điếm, một cách lén lút, do sự mai mối của
bà chủ quán ba có tiếng trên đường Tụ Do trước năm 1975, cho một số cán bộ lớn,
có quyền chức, từ ngoài Bắc vào, tại một căn biệt thự mà người chủ bỏ đi vài
ngày trước khi Sài Gòn mất, đầu đường Phan Kế Bính, lúc bấy giờ, giao lại cho
ông đảng viên từ Hà Nội vào, với chức vụ Giám Đốc, bên ngoài có tấm bảng lớn đề
“công ty hóa chất Đồng Nai”, kín cổng cao tường, có bộ đội ngồi canh gác. Lúc
này, Quỳnh Chi kiếm khá nhiều tiền, nhiều đến nổi chạy chọt được có thêm tên
trong sổ hộ khẩu ở cái chùa hoang, nghèo mạt, trước giờ chỉ có mỗi một tên bà
sư cô hơn 70 tuổi già, lãng tai, mắt mờ và cất giấu đôi chút phòng thân cho gia
đình. Hơn nửa năm sau, chuyện gái điếm ở căn biệt thự đó bị bại lộ, vì bà vợ từ
ngoài Bắc của một trong mấy người đàn ông biết ra, bà ta làm lớn chuyện, căn biệt
thự bị nhà nước lấy lại, đóng cửa cho tới bây giờ, Quỳnh Chi tìm gặp Sương ở chợ
trời Kim Biên, trở lại ngồi bán với nhau ở chỗ này như những ngày tháng cũ. Nước
mắt ràng rụa, Sương lấy trong túi xách nhỏ, đưa cho Phú cái thư mà Quỳnh Chi gởi
lại, Phú cầm lấy nghèn nghẹn, cố kềm tiếng khóc. Có hai ba anh bộ đội tới, cô
con gái đứng bên trong chạy ra vồn vã mời ngồi, Sương đưa tay vội lau mắt, ra dấu
đi phụ bạn rồi đứng ngay lên, không màng chờ Phú trả lời.
Nắng chiều tắt hẵn tự lúc nào, đêm nhá nhem tối, Phú đạp xe ngược lại
góc Nguyễn Tri Phương, dựng xe ở bên kia đường Minh Mạng, nhìn về phía chỗ cái
quán bán chè đêm, nơi mà Phú cùng hai chị em Quỳnh Chi ngồi, nói cười sau bữa
cơm chiều định mạng, mở lá thư của Quỳnh Chi ra đọc, dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn
đèn đường vàng như màu lá chết. Thư dài với nét chữ quen ngày nào nhưng không
còn là thư của ước mơ của nhung nhớ “...Quỳnh
Chi vẫn mãi một đời yêu anh, và yêu ở tận kiếp sau, cám ơn anh đã cho em trọn vẹn
một cuộc tình, cuộc tình của những tháng ngày đáng yêu đáng nhớ nhất, và cũng
cám ơn anh đã cho em một sự chọn lựa cho mình, sự lựa chọn mà em đã từng ao ước
nhưng có lẽ số phận mình là kiếp đời có duyên mà không có nợ. Em tự thấy giờ này
mình không còn là một Quỳnh Chi thơ ngây, dễ thương của ngày đó nữa, và cũng
không xứng đáng để được sống bên anh. Lời cuối, Quỳnh Chi xin anh quên em đi, đừng
tìm lại em và đừng hỏi tại sao, mai này ở kiếp sau, anh sẽ hiểu khi trời đất
còn thương cho mình gặp lại nhau, chúc anh nhiều may mắn, vĩnh biệt”.
Phú
ôm lá thư, gục đầu ngồi bệt xuống đất, nước mắt loang lở ướt gần hết tờ giấy
học trò cũ, rấm rức khóc thành tiếng. Hai ba người con gái trạc tuổi Quỳnh Chi,
từ quán chè bên kia đường băng qua, đứng lại nhìn, là lạ, nói nhỏ với nhau gì
đó, rồi bỏ đi. Phú gượng nhìn ra xa, trong tầm mắt mình, quanh đây đất trời âm
u, tối đen một màu ma quái. Ở phía đầu ngã tư Trần Quốc Toản, tiếng chuông
thánh lễ muộn cuối ngày của nhà thờ Đồng Tiến, lạnh lùng kéo dài, lùa tiếng cầu
kinh lẻ loi của ai đó trong giáo đường, tan tác cuốn theo chiều gió ngược.
Thuyên Huy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét