Chút Muộn Màng Để Nhớ
Chuyện tưởng tượng, những trùng hợp vô
tình từ tên người tới tình tiết, nếu có là điều ngoài ý muốn của người viết.
Để nhớ đám bạn cùng thời, cùng lớp đã
nằm xuống khi đời chưa quá tuổi hai mươi.
Buổi
văn nghệ cuối năm, chia tay nghỉ hè, trước ngày bải trường hai hôm, do nhà
trường tổ chức, bắt đầu sau giữa trưa, trong phòng ăn lớn của nam ký túc xá, chấm
dứt tốt đẹp hơn dự định, nắng vẫn còn lưa thưa, trời chưa hẳn về chiều, tiếng
ve những ngày đầu mùa hạ gọi nhau đâu đó, kéo dài, lúc nhặt lúc khoan trên hàng
phượng già, dọc theo con đường trải sỏi đỏ, dẫn xuống cái cổng đình gạch xưa, loang
lỡ cũ, ngó qua trường phía bên kia, nở rộ hoa một màu đỏ bầm, Mẫn đứng tần ngần,
ngay góc tường rào, nuối tiếc nhìn theo, đám con gái trong ban văn nghệ, có Thảo,
người hát bài “Không bao giờ quên anh”,
mà Mẫn cố công đánh đàn tập tới tập lui với số vốn liếng tài nghệ học lóm, được cả trường
khen nức khen nở, học lớp đệ tam, nước da ngâm ngâm bánh ích, và nụ cười dễ
thương khó tả, từng nhóm hai ba, nói cười, thong thả thả bộ xuống dốc đường, ở
một khoảng khá xa dưới đó, bất chợt cô nàng quay nhìn lại, Mẫn thẩn thờ vẫy tay
chào, bên phía xóm chài, nằm cuối cái thung lũng hẹp vắt ngang trường, đầy hoa
cỏ dại, dọc theo bờ nhánh sông “nắng
trong mưa đục”, chia đôi phố chợ tỉnh, lác đác dăm ba căn nhà vừa lên đèn sớm
dù mặt trời vẫn chưa chịu bỏ đi.
Được sự hỗ trợ từ hội phụ huynh học sinh tỉnh,
trường chọn thầy An, dạy Pháp văn làm trưởng ban tổ chức và thầy giao việc chọn
lựa, sắp xếp người ca người kịch từ các lớp, lớn nhỏ, hát hò cho cô Hoài dạy
toán lo liệu, sau khi bàn bạc với Nguyên, người có chút ít tài năng về thơ văn
và nhạc nhiết, học lớp đệ nhị, ban văn nghệ được thành lập, với một số “ca sĩ cây nhà lá vườn” của trường, phần
đông là mấy lớp dưới, vì xem ra đàn chị đệ nhị đệ nhất quá bận rộn với thi cử
nên không ai tham gia, ngại chuyện đi đứng tập tành, trống đàn, âm thanh được
phía bên quân y viện tỉnh cho mượn vì có quen qua lại gì đó với cô Hoài, rồi
cũng được sự đồng ý của họ, gian phòng trống, không có học trò ở của nam ký túc
xá được tạm chọn làm nơi đến đi tập dợt. Nằm trên lưng chừng đầu con dốc, bên cạnh
cái đình làng cỗ xưa, âm u ma quái, tính từ ngoài đường Trần Hưng Đạo, không xa
trường bao nhiêu, sau ngày nghe tin này, nhất là sẽ có đám con gái, chiều chiều
tới đây ca hát, bọn con trai lớn nhỏ “tóc đồng chân ruộng” từ nhà quê lên trọ,
xôn xao ồn ào, bàn tán không ngớt “trong
lớp ngoài sân”, mấy đứa nhỏ rụt rè vu vơ, mấy anh lớn hơn lăng xăng, tiếp
tay tiếp sức dù chẳng có mấy ai biết đàn biết hát, chuyện đó để làm gì, người
nào cũng tự biết, cười thầm với nhau, không ai nói ra.
Mẫn chơi thân với Nguyên từ những ngày mới
vào đệ thất, cũng lang thang phận đời ở trọ nhà này nhà kia, hết xóm chài tới
chợ Mít Một, xuôi đất Thánh tây ngược chợ Cũ, trước khi vào ký túc xá, Mẫn hiền,
ít nói, nhưng mau mắn, quê trên Cầy Xiêng, có người anh trai lớn, bị tật một
chân đi khập khễnh từ lúc sinh ra, được linh mục Cha xứ làng Cao Xá đưa vào làm
người lao công quét dọn ở văn phòng quận Phước Ninh, gia đình nghèo, sống bằng
nghề làm ruộng làm rẫy, da ngâm, hơi xấu một chút so với đám bạn cùng trang lứa,
học tương đối chứ không khá lắm, tuy nhiên có tính ưa thích văn nghệ, nhiều lần
cố tập làm thơ, hy vọng có ngày được đăng lên báo Tin Sáng, Trắng Đen gì đó
nhưng bị Nguyên chê, nên bỏ ngang, nhảy qua tập tự đánh đàn, cây đàn ghi – ta
thùng cũ của ai đó cho Mẫn mượn, đem vô ký túc xá, sau bữa cơm, không chiều nào
mà không thấy anh ta ngồi trên bậc xi măng tam cấp, ngay cổng vào, tình tang tiếng
mất tiếng còn, hết “Ai cho tôi tình yêu”
rồi “Nửa đêm ngoài phố”, trước khi
đèn lên mới lửng thửng, tay sách tay đàn vào phòng học, đám nhỏ khoái chí vây
quanh, vỗ tay tán thưởng, vậy cũng đủ vui, quên nổi nhớ xa nhà, cho nên ban nhạc,
gọi là ban nhạc cho có tên chứ có ai đâu, Nguyên vừa lo tập giọng, tập hát, Mẫn
đàn đệm và trống thì có anh Lân, lớp đệ nhất và là đại diện cho học sinh nam ký
túc xá, bên cạnh đó còn có cả một ban “ăn
có”, Triệu, Hội, Châu, chạy vòng ngoài, gõ gõ âm thanh, cắm điện kéo dây, sắp
ghế ngồi, lo nước uống.
Suốt hơn một tháng, ba ngày trong tuần, sau
giờ tan học, cô Hoài tập họp đám con gái được chọn lại, trên phòng thầy Tổng
giám thị rồi dẫn họ qua nam ký túc xá, cách trường chỉ có cái cổng và khúc
quanh con đường, cô ở lại đó, hỏi han trông chừng, thêm thắt ý kiến, chờ xong,
cô trò dắt nhau ra về, thường thì ít khi nào muộn, mấy đứa nhỏ lớp đệ lục, đệ
thất học cô môn toán, lấm la lấm lét, thập thò, rón rén ngoài cửa sổ ngó vào,
con gái mà không nhìn sao được, giờ cơm chiều mấy ngày đó thường thì mấy cô nấu
bếp dọn dẹp có phần hơi trễ vì tụi học trò, tới giờ ăn mà đứa nào đứa nấy, cứ tụm
năm tụm ba trước cổng, “nhìn để mà nhìn”
đám con gái ra về, khuất mất sau cổng đình xa xa dưới kia, rồi mới chịu vào
phòng ăn, và dường như cơm mấy ngày này dư nhiều hơn thường lệ.
Chiều thứ bảy, mưa lâm râm, trời vẫn còn
chút nóng hâm hấp, giờ cơm trong nhà ăn ký túc xá vắng tanh, lác đác không bao
nhiêu đứa, đám học trò lớp nhỏ, đã đón xe về quê từ chiều thứ sáu hôm qua, mấy
bà chị làm ở nhà bếp, bưng lên dọn xuống, không màng hỏi han vì đã quá quen với
cảnh này, từ trên phòng ngủ xuống, thấy Mẫn ngồi “trầm tư mặt tưởng” một mình, ngay cái bàn đặt sát khung cửa sổ, ngó
xuống dốc đường, phần cơm còn đầy, Nguyên kéo ghế ngồi cùng một bên và nhìn về
cùng hướng dưới đó, nói nhỏ “cũng chuyện
đó”sau mấy ngày tập hát, không ai ngờ Mẫn đã phải lòng thương thầm Thảo, người
mà anh đã cố công đàn, tập cho cô nàng bài
“Không bao giờ quên anh”, từng
nốt nhạc một. Thảo khá đẹp, cái đẹp của cô con gái vừa qua tuổi mười bảy, trộn
lẩn “một chút nhà quê một chút phố chợ”,
mấy hôm tập hát, cái ngồi sửa thế nhiều lần và cái nhìn chết hồn của Mẫn,
Nguyên thừa biết là “thằng bạn nhà mình”
đã có gì là lạ rồi, Thảo, quê Phước Trạch Gò Chùa, có hai nhà, ở hai bên đường
ngã ba vô chợ xã, một gia đình ở và cái kia là căn bán tạp hóa lớn nhất ở đây,
cô nàng còn một người chị lớn, đã lập gia đình dưới Mỹ Tho, và đứa em trai kế
nhỏ hơn nhiều tuổi, đang học trường trung học Gò Dầu, là cháu, gọi ông cựu cai
tổng Triêm Hóa bằng cậu hai, gia đình họ lên xuống Sài Gòn hà rầm vì có nhà cửa
ở đó.
Thảo có giọng hát khá hay, có hồn, nói năng
chậm rãi, từ tốn, vui tánh hay cười dù không nói nhiều như mấy cô khác, Mai Phương,
cô bạn thân cùng lớp, cũng là người trong đám, với bài “Tình yêu trả lại trăng sao”, đi đâu, dịp nào cũng bài này cho nên bạn
bè thường đặt cho cái biệt danh “Phương
trăng sao”, có lẽ, cô Hoài cũng nhận ra nổi lòng của anh chàng Mẫn, nên lâu
lâu thấy cô đưa mắt nhìn anh ta cười thông cảm, những lúc tạm ngưng, nghỉ một
chút, Mẫn cũng đứng lên ngồi xuống, hỏi han Thảo chuyện nọ chuyện kia, có Mai Phương
kế bên phụ họa, nên giúp thêm anh ta phần nào chút tự nhiên và thoải mái, giữa
cái ồn ào của tiếng người, lạ quen mới chớm, không ai nghe họ nói gì nhưng dường
như thấy Mẫn nhiều vui hơn buồn, rồi bạn bè thấy Mẫn bận bịu với cây đàn nhiều
hơn là sách vở. Hôm tổng dợt cuối cùng cho buổi trình diễn ngày hôm sau, Mẫn
nói qua nói lại gì đó rất nhiều với Mai Hương trong lúc nghỉ tập, khi Thảo theo
cô Hoài đi đâu đó xuống nhà bếp, vì cả nhóm con gái sẽ ở lại ăn cơm chiều với mọi
người trong ban văn nghệ, thì ra Mẫn nhờ Mai Phương đưa giùm cho Thảo, lá thư
dài mà anh ta đã “viết đi sửa lại” mấy
ngày qua, với hy vọng nhận được trả lời ngày đầu, mùa tựu trường năm tới.
Tựu
trường, Thảo không trở lên Tây Ninh, chuyển về trường Lê Văn Duyệt, cùng với
hai đứa con của ông cậu cựu cai tổng, Mẫn náo nức đứng chờ bên kia đường, xế cổng
vào của con gái, từ sáng sớm trong mấy ngày liền, cho tới chuông reo vào học
ngưng bặt, lũi thũi vào lớp lặng thinh, cái tin đậu tú tài một xem ra đã vứt
vào một góc trời nào. Ngày thêm ngày, hết mưa chiều nắng sáng, sông cứ nước lớn
nước ròng, cây đàn ghi ta đem trả lại cho người chủ và đám con trai lớp nhỏ,
năm nay đã lớn hơn chút, không còn có dịp ngồi quanh nghe, hát theo “giọng trống giọng mái”, cái bậc tam cấp
xi măng cũng đành bơ vơ, từ đó nam ký túc xá vắng đi tiếng đàn tình tang mỗi khi
chiều về nắng tắt. Mẫn lặng lẽ, ít nói đi, cười gượng gạo, vẫn còn ngồi tựa cửa
sổ phòng ăn nhìn xuống cái cổng đình, che một nửa dãy lầu lớp học con gái bên
kia đường, bạn bè cùng lớp cùng trọ, biết chuyện nhưng không ai biết phải nói
gì, một vài lần Nguyên tình cờ thấy Mẫn lầm lũi, đếm bước một mình ở một góc
sân trong cái vắng lặng, lưa thưa người của chiều thứ bảy, bỏ mặc sách vở trở
mình trong ngăn tủ, gặp Mai Phương vài lần
sau giờ tan trường nhưng cô nàng cũng không biết gì hơn, dường như đối với anh,
tất cả, đất trời cỏ cây đã trở thành vô nghĩa.
Cuối năm, mỗi người một ngã, cũng màu đỏ bầm
hoa phượng cũng tiếng ray rứt ve sầu, bạn bè nắm tay từ giã, chờ ngày thi, hẹn
mai mốt gặp lại, ở đâu đó nhưng chưa biết chỗ nào, nhưng sẽ không có mấy ai trở
lại trường, người mang theo chút vui, người mang theo chút buồn của những tháng
ngày “bảng đen thầy ghế học trò”, hôm
chia tay, ngay trước cái cổng đình, đường lên ký túc xá, hai người nhìn nhau
không ai nói lời gì, lên xe rồi, Nguyên nhìn lại sau, qua khung cửa kiếng, lờ mờ
màu hơi sương pha chút nắng sáng, xe qua khỏi khúc quanh, Mẫn vẫn còn vẫy tay
chào, cái vẫy tay rã rời và lạc lõng. Không may, Mẫn rớt tú tài hai, vào lính,
trong khi đám bạn bè xưa, trong đó có Nguyên “áo mới quần thơm” bắt đầu làm quen với “bàn thư viện ghế giảng đường đại học”, rời trường bộ binh Thủ Đức
không hơn một năm sau, Mẫn về với sư đoàn 7, xuôi ngược xuống lên theo chiến
trường Mỹ Tho, Kiến Phong, Gò Công, Bến Tre, Kiến Tường của miền tây sông nước.
Ngày Mẫn vai ba lô, chân giày trận xuống trình diện đơn vị cũng là ngày làm lễ đính
hôn của Thảo với Trường, nhà có căn phố tiệm lớn, bày bán vải vóc, phân bón,
nông cụ, xế ngã ba, đường ngang qua trường tiểu học Gò Dầu, sắp sửa xong năm thứ
ba kỹ sư công chánh Phú Thọ, Thảo cũng vừa xong tú tài hai, gia đình hai bên
quen biết nhau cũng khá lâu, vì thỉnh thoảng ba mẹ Thảo có lên xuống nhận hàng
hóa về bán trên chợ Phước Trạch, hai bên bằng lòng, Thảo ghi danh vào trường Luật,
học cho vui, chờ Trường tốt nghiệp xong sẽ chọn “ngày lành tháng tốt” làm đám cưới.
Trung
tuần tháng sáu năm 1972, hai trung đoàn của quân Bắc Việt, tấn công chi khu
Long Khốt và Măng Đa, nằm dọc hai bên bờ sông Vàm Cỏ Tây ở Kiến Phong hai lần,
nhưng bị quân VNCH đánh bại, thiệt hại nặng, chết hơn một đại đội, buộc phải
rút lui về bên kia biên giới Miên, Mẫn được đặc cách thăng chức ngay mặt trận,
lên lon Trung úy, rồi nắm chức đại đội trưởng không lâu sau đó, viết thư thăm
Nguyên đôi ba lần nhưng không nhắc nhở gì tới chuyện của những ngày tháng cũ,
thư trả lời, thương bạn, Nguyên chẳng đá động “vết thương lòng” của Mẫn làm gì, giòng cuối thư lúc nào cũng là lời
cầu nguyện bình an và nhiều may mắn. Chiến trận vẫn cứ tăng mà không bớt, khói
lửa, đạm bom xem ra có phần khốc liệt hơn, quân Bắc Việt, ồ ạt tung người vào “sinh bắc tử nam”, nhất định chiếm cho
được miền Nam, mặc dù lính họ đã vùi thây ở đây nhiều không đếm xuể từ “đồng ruộng bùn lầy, đất cày sỏi đá cho tới rừng
sâu núi hiểm, cao nguyên hun hút gió lạnh mưa mùa”, cũng trong năm này, một
số đông sinh viên các trường đại học, quên chuyện sách đèn, công viên ghế đá, lần
lượt kẻ trước người sau “giã biệt kinh kỳ”
khăn gói vào quân trường, theo lệnh tổng động viên, đường phố Sài Gòn hình như “vắng mưa vắng người” từ những ngày tháng
đó.
Từ ngày chuẩn úy Trường xuống nhận chức
trung đội trưởng, chào hỏi lệnh lạc thì nhiều, chuyện riêng tư quê quán, Trường
người ở Gò Dầu, đầu năm cuối Phú Thọ thì bị động viên, có người yêu cũng gần
trong quận, vừa đính hôn chưa cưới, chừng đó thôi, Mẫn chưa có dịp “hàn huyên tâm sự đời lính” gì thêm, vì trách
nhiệm, phải lo đối phó ngày đêm với áp lực của gần hai trung đoàn quân Bắc Việt,
đặt hậu cứ tại Chi Phú, đang cố tình mở hành lang bên bờ kinh Nguyễn Văn Tiếp với
chủ đích nhắm vào quận Cái Bè, Mỹ Tho. Quân Bắc Việt bất ngờ đánh các đồn Thầy
Yến, Phật Đá và khu trù mật Thiên Hộ rồi các đồn bót của VNCH, dọc con kinh La
Răng, định tiến ra hướng quốc lộ 4, quân sư đoàn 7 VNCH quần thảo nhau dữ dội với
địch, từ con kinh con rạch, bờ ruộng đường đê, đại đội tổn thất nặng, số lính bị
thương được trực thăng bốc đưa về quân y viện Định Tường, trong số đó có Mẫn, bị
thương cánh tay vì mảnh đạn pháo không nặng lắm, và Trường phần bụng dưới ngực
vì trúng trái B40 quá gần, có phần nguy kịch, máu ra nhiều, nhiều đến nổi người
y tá đi theo toán di tản thương binh cứ lắc đầu, lắc cổ trên suốt chuyến bay.
Tỉnh lại, đở cánh tay quấn chặt băng bột vải
trắng đã ngã màu, Mẫn nhìn qua giường bên, dưới cái ánh sáng không đủ sáng lắm
của trời chập choạng chiều, Trường nằm đó, tấm ra trắng phủ kính cả thân người,
chỉ còn chừa khuôn mặt, chay nước biển treo lủng lẳng phía trên đầu gường nhỏ từng
giọt một, trong cái ống cao su dài kéo xuống, che khuất dưới cổ, mặt Trường xám
một màu xám ngắt, lành lạnh, mắt nhắm nghiền, ngoài khung cửa sổ, mặt trời mới đó
đã xuống thật nhanh, hững hờ đi ngủ sớm, ở một phía trời xa xa bên kia, tiếng
súng lớn nhỏ, tiếng phi cơ gầm thét vẫn còn vọng về từng chập một, lạnh lùng và
rờn rợn. Xuất viện, trở lại đơn vị, một
đại đội khác đã đến thay chỗ cho đại đội của Mẫn, tạm về Cái Bè chờ bổ sung,
chưa kịp làm quen biết mặt số lính mới thì, hai hôm sau, tin từ tiểu đoàn cho
biết Trường đã chết, mặc dù nhóm bác sĩ quân y, ngày đêm ròng rã, tận lực, cố sức
làm mọi cách nhưng cuối cùng đành bỏ cuộc, tay vuốt mặt người không may nằm xuống
quá sớm với nổi buồn quen thuộc, nổi buồn mà hình như họ đã đối diện với nó hàng
ngày từ những ngày đầu cuộc chiến.Thay vì để quân đội lo chuyện mai táng, gia
đình đem Trường về Gò Dầu, chôn tại cái nghĩa địa nhỏ, nằm xéo sâu phía trong,
bên này tỉnh lộ lên Tây Ninh, sau lưng chỗ trạm xe lôi xa lam lên xuống hay ngừng
đón khách, đi về các xã ấp quanh vùng, cách rạp chiếu bóng quận vắng người xem,
không mấy xa, xế ngã ba con đường xuống bờ sông dưới chợ.
Chuyến
xe đò sáng, sớm nhất, đầu ngày về tới Gò Dầu, từ ngày Trường chết, mới đó
mà đã hơn một tháng rồi, trời vẫn chưa kịp đủ nắng, gió từ miệt sông lùa về
mang theo chút hơi nước lành lạnh, xe ngừng ngay đầu đường xuống chợ, Mẫn bước
nhanh tìm nhà Trường, để còn kịp về Cầy Xiêng thăm gia đình, mấy năm rồi chưa
có lần nghỉ phép, tiệm vắng, cửa đóng cửa mở, hàng hóa không bày ra trước mái
hiên nhiều, Mẫn đứng tần ngần, đứa con gái nhỏ chứng mười hai mười ba từ trong
chạy ra chào, cho biết mọi người đã đi ra mộ Trường, hôm nay là bữa cúng “thất tuần”, Mẫn cám ơn, ngoắc tay đón
chiếc xe lôi máy từ dưới hướng chợ lên, không có khách, gật đầu cười, không nói
gì, anh lái xe quẹo trái, chạy theo đường trong, ngang hông dãy phố đầu chợ,
thay vì ra đường lớn.
Giữa hạ, lưa thưa mấy cây phượng, rực đỏ
hoa, nở rộ ngập một màu bên này lề đường, bến xe ồn ào, người mua bán, kẻ xuống
lên, gió hắt từng cơn, bụi lùa dài theo mỗi một chuyến xe vội vã rời bến, ở một
chút không xa phía trong kia, nghĩa địa nằm phơi mình, nghèo nàn, giữa trời
chói chang nắng, mộ bia cái cao cái thấp, thiếu bóng mát, hỏi người đàn bà bưng
cái thúng, đựng trái cây từ trong đám người lố nhố, quây quầng xung quanh nấm mộ
mới xây ở cuối góc, đi ra, tìm đúng chỗ, Mẫn bước vội tới, đã có mùi nhang thơm
tỏa lên và tiếng than thở dài của ai đó, ông sư già của chùa Thạnh Lâm vừa đọc
xong hồi kinh cầu siêu phổ độ, Mẫn đứng tần ngần phía sau chờ, nhóm người quỳ
bên mộ đứng lên, không thấy khăn tang, quay ra, thấy người lạ, một người chị
gái, tay còn cầm bó nhang chưa mở, bước vội lại hỏi, Mẫn giới thiệu mình, chưa
hết câu, chị đã nắm lấy anh ta, sụt sùi, vừa kéo tới đám người vừa gọi to “ba má ơi, có bạn cùng đơn vị của em Trường,
từ dưới Mỹ Tho lên thăm”, cùng lúc đó Thảo, từ bên phía kia nấm mộ, bước
qua, cả hai nhìn nhau chết trân, Mẫn kịp chào hai tiếng “thưa hai bác”, trước khi thốt lên “Thảo”, rồi không nói được lời gì thêm nữa. Trở lại chợ, chào ba mẹ
Trường, Mẫn xin phép đi vì sợ trễ chuyến xe chiều về Tây Ninh, đưa nhau ra ngoài
bến xe, ngay ngã ba cây xăng, sát cạnh hàng rào chi khu quận, Mẫn vẫn không biết
nói gì nhiều hơn, Thảo cũng cố tìm điều gì muốn nói nhưng rồi lại lặng thinh
như cái lặng thinh của ngày cô không về lại trường năm đó, xe tới, mắt rươm rướm
đỏ, Thảo đưa cho Mẫn miếng giấy nhỏ, ghi địa chỉ dưới Sài Gòn, Mẫn cầm lấy,
không biết vui hay buồn, xe từ từ ra đường, Thảo nói vói theo, cố át tiếng ồn ào
của người, của máy nổ, “nhớ đến, Thảo chờ
anh”, trên xe Mẫn nhìn xuống gật đầu, đứng bên lề đường Thảo bật khóc.
Mẫn quyết định không đến như đã hứa bằng
cái gật đầu, tại bến xe ở Gò Dầu, hôm gặp lại Thảo trên đó, nhờ Nguyên nhắn lại
với cô nàng giùm, với lý do phải trở xuống đơn vị gấp vì tiểu đoàn anh phải
chuyển quân tới mặt trận mới, gần biên giới Miên, lời đáng tiếc và xin lỗi, khi
ghé Sài Gòn thăm và ở lại với Nguyên, tạm ngủ qua đêm để hôm sau về Cái Bè, lâu
ngày không gặp nhau, biết bao nhiêu chuyện nói hoài không hết, chuyện cũ chuyện
bây giờ, đêm xem chừng quá ngắn, chuyện yêu Thảo của ngày nào đó, lá thư gởi đi
không có thư về, cả năm nhớ từng chữ một, cái lâng lâng, cái náo nức chờ ngày tựu
trường không làm sao quên được nhưng giờ đây, những thứ đó, có chăng chỉ là
chút kỷ niệm, buồn vui, cho mớ hành trang đời, mang theo xuôi ngược muôn phương
ngàn hướng, nhưng Mẫn buộc phải quên, hết rồi, đã hết thật rồi, một khi Thảo đã
là người của Trường, nếu ai đó, cũng còn dễ nói, nhưng đằng này, Trường là một
chiến hữu, người cùng chịu chung số phận đời lính, cùng sống chết có nhau, Mẫn
không muốn trở thành một kẻ phản bội, phản bội người nằm xuống, nặng tội, “tội với đất trời tội với hồn thiêng sông núi”,
uống tách cà phê đen chia tay ở cái quán cốc liêu xiêu, dựng dã chiến bên bờ
rào xa cảng Phú Lâm, hai người nhìn nhau, cười muốn khóc, biết có còn lần nào uống
lại tách cà phê như lần này nữa không, tiếng người lơ gọi, tiếng còi xe vang
lên trong bến, Mẫn bỏ đi, Nguyên đứng đó nhìn theo, bóng Mẫn duỗi dài, nghiêng
theo chiều nắng sớm vừa lên từ bên kia cánh đồng khô nước, miệng thì thầm “đi về bình an nghe Mẫn”.
Nguyên
ngồi chờ Thảo ở cái quán nước, đầu
khúc quanh bồn binh Duy Tân, ngó qua cổng trường Luật, mưa bất chợt về giữa
trưa, trời bỗng dưng tối xầm, tưởng chừng như Sài gòn hôm nay đi ngủ sớm, bụi
đường lăn lóc cuộn tròn theo từng giọt, từng giọt nước rớt xối xả theo chiều
gió ngược từ hướng sông lên, mang theo mùi hơi đất nằng nặng, để đưa cho nàng địa
chỉ KBC của Mẫn như đã hứa, hôm gặp cô ta, chuyển lời nhắn không đến được của Mẫn,
nhưng đã không còn cần nữa rồi, tin Mẫn tử thương trong trận sư đoàn 7 VNCH,
đánh qua Konpong Tabek, bên kia biên giới Miên làm Nguyên bỏ trường hai ba
ngày, trong bóng đêm, nằm một mình trên gác trọ, muốn khóc cũng không khóc được,
lang thang giữa phố phường đông ngập người xe, lặng thinh, ngồi thu mình trong
một góc vắng tại cái quán cà phê bên lề, hồn tan tác buồn theo từng bước chân
ngập ngừng, của người lính “giày đinh áo
trận” nào đó, ngở ngàng, lạc lõng trong giòng “ngựa xa như nước áo quần như nêm” của đường phố Sài Gòn, không phải
tình nhân nhưng với Nguyên, Mẫn mất đi, anh thấy lòng quặn thắt “người đi một nửa hồn tôi chết, một nửa hồng
kia bỗng dại khờ”, không còn nữa ly cà phê cuối cùng, pha chút đậm đắng “đi về bình an nghe Mẫn” hôm chia tay ở
xa cảng Phú Lâm, giờ thì Mẫn cũng sẽ đi về bình an nhưng bình an của trời đất
hư không miên viễn.
Ngồi đối
diện nhau, mưa thôi không còn nặng trút, nhè nhẹ
lất phất đong đưa trên những tàn lá hai bên đường, nắng chầm chậm lên, long
lanh một màu vàng nhạt, Nguyên nghèn nghẹn nói hết những gì mình muốn nói, Thảo
chết lặng nghe, hai bàn tay run run, cái cặp da đen bạc màu rớt xuống bàn, nửa
khép nửa hở, hai ba cuốn sách văng ra, dưới lề, tờ giấy trắng đâu đó, chưa kịp
viết địa chỉ của Mẫn, lạnh lùng trôi theo dòng nước, xuôi hướng về ngang trường
Luật, Nguyên đứng dậy từ giã, Thảo òa lên bưng mặt khóc nức nở, nghẹn ngào, bài
hát ngày xưa “Không bao giờ quên anh”
nghe văng vẳng đâu đây như lời kinh gọi hồn, pha tiếng chuông lễ chiều bên nhà
thờ Đức Bà nảo nuột đổ, đã trễ thật rồi, chút muộn màng của ngày gặp lại Mẫn ở
Gò Dầu hôm nào, giờ chỉ là một “chút muộn
màng để nhớ”.
Thuyên Huy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét