Thứ Năm, 20 tháng 10, 2022

Góc Đường Thi : Bài thơ PHONG của Lý Kiệu (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Đường Thi :  

           Bài thơ PHONG của Lý Kiệu                  
             
                

      LÝ KIỆU 李 嶠 (644-713) tự là Cự Sơn 巨 山, Tán Hoàng 贊 皇, danh sĩ đời Sơ Đường, người đất Hà Bắc, là cháu chắc của Nội Sử Thị Lang Lý Nguyên Tháo đời nhà Tùy. Tuổi trẻ tài cao, hai mươi tuổi đã đậu Tiến sĩ, làm quan đến chức Trung Thư Lệnh, tánh tình cương trực liêm chính. Vì làm nghịch ý Võ Hậu mà bị biếm làm Tư Mã Nhuận Châu, sau được triệu về làm Phụng Các Xá Nhân. Ông giỏi văn thơ, sánh ngang với Sơ Đường Tứ Kiệt Vương Bột 王 勃、Dương Quýnh 楊 炯、Lư Chiếu Lân 盧 照 鄰、Lạc Tân Vương 駱 賓 王 lúc bấy giờ; cùng với Tô Vị Đạo 蘇 味 道、Thôi Dung 崔 融、Đỗ Thẩm Ngôn 杜 審 言 (Ông nội của Thi Thánh Đỗ Phủ) hợp xưng là “Văn Chương Tứ Hữu 文 章 四 友”. Trong một lần TỨ HỮU cùng dạo chơi trên núi Lư Phong Sơn, phong cảnh cỏ hoa trên núi rất đẹp, khi vừa lên đến đỉnh núi thì có một làn gió thổi thốc đến rất mát mẻ sảng khoái, Lý Kiệu bèn nổi hứng mà viết nên bài thơ về GIÓ như sau đây:

          風                             PHONG
      解 落 三 秋 葉,    Giải lạc tam thu diệp,
      能 開 二 月 花。    Năng khai nhị nguyệt hoa.
      過 江 千 尺 浪,    Qúa giang thiên xích lãng,
      入 竹 萬 竿 斜。    Nhập trúc vạn can tà !

                                           


* Chú thích :
    - Giải Lạc 解 落 : GIẢI là Cởi ra; LẠC là Rớt xuống; nên GIẢI LẠC ở đây có nghĩa là Rơi Rụng vì chỉ lá mùa thu.
    - Năng Khai 能 開 : có nghĩa là Làm cho nở ra.
    - Quá Giang 過 江 : là Qua Sông, ở đây có nghĩa là KINH QÚA GIANG HÀ 經 過 江 河 chỉ Gió thổi "Ngang qua sông ngòi".
    - Nhập Trúc 入 竹 : ở đây có nghĩa là NHẬP TRÚC LÂM 入 竹 林 chỉ Gió thổi "Vào rừng tre".
    - Can 竿 : là Lượng từ của tre: Nhất Can Trúc 一 竿 竹 là Một CÂY tre. 

* Nghĩa bài thơ :
                             GIÓ
       Gió có thể thổi cho rơi rụng hết lá ba tháng của mùa thu; và Gió cũng có thể thổi làm cho nở hết hoa của buổi đầu xuân (tháng hai). Khi Gió thổi qua giang hà thì có thể làm cho sóng dậy cả ngàn thước cao; và khi thổi vào rừng trúc thì lại có thể làm cho muôn vạn cây trúc phải nghiêng ngã cúi đầu!
      
       Thông qua hình tượng của Lá, Hoa, Sóng, Trúc, và các chữ số Tam, Nhị, Thiên, Vạn, để diễn tả phô trương khả năng đa dạng và sức mạnh cùng uy lực của gió đối với cảnh vật thiên nhiên: Gió thu hiu hắt thổi rụng lá vàng tan tác, gió xuân ấm áp mơn trớn làm nở rộ muôn hoa; Gió thổi cuồng nộ làm cho giang hà dậy sóng ba đào và khi thổi thốc vào rừng tre thì làm cho muôn vạn cây trúc đều phải nghiêng ngã cúi đầu! Chỉ vỏn vẹn có bốn câu thơ ngũ ngôn Lý Kiệu đã lột tả được hết cái tính cách đa dạng và uy lực vô biên của GIÓ mà ta thường tiếp xúc và cảm nhận hằng ngày.

* Diễn Nôm :
                       PHONG

                                    


                 Thổi rụng ba thu lá,
                 Nở bung hoa tháng hai.
                 Sóng sông ngàn thước dậy,
                 Rừng trúc ngã nghiêng ngay !
     Lục bát :
                 Hắt hiu rụng hết lá vàng,
                 Mơn man nở rộ muôn ngàn hoa xuân.
                 Giang hồ sóng dậy nghìn trùng,
                 Thổi vào rừng trúc đều cùng ngã nghiêng !
                                 Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

                
                


          Hẹn bài viết tới !
                                                                              
                                                 杜 紹 德
                                             Đỗ Chiêu Đức









Không có nhận xét nào: