Thứ Ba, 18 tháng 10, 2022

Góc Đường Thi: Chùm thơ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (3) (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Đường Thi:  

      Chùm thơ TRƯỜNG TƯƠNG TƯ (3)
                        
                           

      Một trong TỨ ĐẠI NỮ THI NHÂN đời Đường là LÝ DÃ 李 冶 (730-784), tự là Qúi Lan 季 蘭 (Thái Bình Quảng Ký 太 平 廣 記 ghi là TÚ LAN 秀 蘭), người đất Ô Trình (thuộc Ngô Hưng tỉnh Chiết Giang hiện nay). Bà là nữ thi nhân nổi tiếng trên thi đàn đời Đường lúc bấy giờ. Mặc dù lớn lên với chiếc áo của nữ đạo sĩ, Lý Qúi Lan vẫn cởi mở phóng khoáng như một nam nhân, chẳng những giỏi về thơ văn, bà còn tinh thông cả âm luật và giỏi về đàn cầm nữa. Bà gặp được danh sĩ Chu Phóng lúc bấy giờ. Tài tử giai nhân nhất kiến chung tình, đang khi đôi lứa đang mặn nồng thì Chu Phóng lại nhận chiếu chỉ đi làm quan xứ khác. Thương nhớ dâng tràn khiến hồn thơ cũng lai láng, Lý Qúi Lan đã viết nên bài thơ nổi tiếng "Tương Tư Oán 相 思 怨" sau đây:
          
                      

《相 思 怨》           TƯƠNG TƯ OÁN
人 道 海 水 深,    Nhân đạo hải thủy thâm,
不 抵 相 思 半。    Bất để tương tư bán.
海 水 尚 有 涯,    Hải thủy thượng hữu nhai,
相 思 渺 無 畔。    Tương tư miễu vô bạn.
攜 琴 上 高 樓,    Huề cầm thướng cao lâu,
樓 虛 月 華 滿。    Lâu hư nguyệt hoa mãn.
彈 著 相 思 曲,    Đàn trước tương tư khúc,
弦 腸 一 時 斷。    Huyền trường nhất thời đoạn !
       李 冶                            Lý Dã
   
                                     
* Chú thích :
    - Nhân Đạo 人 道 : ĐẠO ở đây là Nói, nên NHÂN ĐẠO có nghĩa: Người ta nói rằng.
    - Bất Để 不 抵 : ĐỂ ở đây là Ngang, Bằng, nên BẤT ĐỂ có nghĩa: Không bằng...
    - Nhai 涯 : là Bờ, bến; là Đo lường.
    - Bạn 畔 : là Bờ ruộng, bờ nước.
    - Huyền Trường 弦 腸 : HUYỀN là Dây đàn; TRƯỜNG là Ruột; HUYỀN TRƯỜNG NHẤT THỜI ĐOẠN 弦 腸 一 時 斷 là: Dây đàn và ruột cùng lúc đứt đoạn.

* Nghĩa bài thơ:
                    Nỗi Hờn Oán của Tương Tư 
       Người ta thường bảo nhau là nước biển sâu, nhưng so ra thì không bằng một nửa của sự tương tư. Vì nước biển còn có bờ, chớ tương tư thì mênh mông không thấy bến. Ôm cây đàn bước lên lầu cao, nhìn cảnh lầu trống không hoang vắng chỉ rải đầy ánh trăng vàng, thẫn thờ đàn xong một khúc Tương Tư thì dây đàn và ruột gan như cùng đứt đoạn cả rồi !

* Diễn Nôm :
                        TƯƠNG TƯ OÁN
            
               

                     Người đời bảo nước biển sâu,
                     Tương tư thương nhớ còn sâu bội phần.
                     Mênh mông biển rộng vô ngần,
                     Tương tư còn rộng mênh mông hơn nhiều !
                     Ôm đàn lầu vắng quạnh hiu,
                     Lầu không trăng chiếu gợi nhiều nhớ mong.
                     TƯƠNG TƯ một khúc gảy xong,
                     Đoạn trường dây đứt tơ lòng đứt theo !
                                    Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

     Nam Đường Hậu Chủ  南 唐 後 主 (937-978), tên thật là Lý Dục 李 煜, người đời thường gọi là Lý Hậu Chủ 李 後 主, là vị vua cuối cùng của nước Nam Đường thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Hoa. Ông là một vị vua thiếu bản lĩnh và kém cỏi để cho nước mất nhà tan, nhưng lại nổi tiếng là một nhà thơ, nhà từ và là nhà thư pháp lỗi lạc nổi tiếng của Trung Hoa trong thế kỷ thứ 10. Ông được xem là một người uyên thâm về thể loại từ vào hàng bậc nhất, do đó được xưng tụng là Thiên Cổ Từ Đế 千 古 詞 帝 : là Ông vua về TỪ của ngàn đời ! Ngoài bài từ NGU MỸ NHÂN 虞 美 人 nổi tiếng nhất của ông ra, sau đây là bài TRƯỜNG TƯƠNG TƯ cũng rất nổi tiếng của ông:
         
                 

《長 相 思》               TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

一 重 山,                           Nhất trùng sơn,
兩 重 山,                           Lưỡng trùng sơn,
山 遠 天 高 煙 水 寒,      Sơn viễn thiên cao yên thủy hàn,
相 思 楓 葉 丹。                Tương tư phong diệp đan.

菊 花 開,                          Cúc hoa khai,
菊 花 殘,                          Cúc hoa tàn,
塞 雁 高 飛 人 未 還,      Tái nhạn cao phi nhân vị hoàn,
一 簾 風 月 閑。                Nhất liêm phong nguyệt nhàn !
             李 煜                                           Lý Dục
  
                     

* Chú thích :
    - Trùng 重 : là Chồng lên, là Trùng lắp; Ở đây là Lượng Từ chỉ Một Chồng, Một Rặng, nên NHẤT TRÙNG SƠN 一 重 山 là Một rặng núi, Một dãy núi.
    - Đan 丹 : là màu đỏ như son, nên ĐAN TÂM 丹 心 là Tấm lòng son; PHONG DIỆP ĐAN 楓 葉 丹 : Lá cây phong đỏ như son lúc vào thu.
    - Tái Nhạn 塞 雁 : Những con nhạn ngoài biên tái.

* Nghĩa bài thơ :
                       Trường Tương Tư
       Một rặng núi rồi hai rặng núi, núi non chập chùng ngăn cách; những rặng núi xa xa trên bầu trời cao làm cho mặt nước như phủ mờ mây khói lạnh lùng; Thương nhớ nhau dai dẵng đến nỗi lá phong cũng trở màu đỏ cả rồi (thương nhớ suốt mùa thu!). 
      Hoa cúc nở rồi hoa cúc lại tàn, vì đã vào buổi tàn thu. Những con nhạn ở vùng tái bắc lạnh lẽo cũng đã bay cao (về cả miền nam để tránh cái lạnh của mùa đông) nhưng người xa sao còn vẫn chưa chịu về ! Ở đây suốt ngày chỉ nhìn cảnh gió mây phong nguyệt qua bức rèm bên song cửa một cách nhàn hạ mà đợi chờ mong ngóng...

* Diễn Nôm :
                     TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
                 
              

                 Một rặng núi,
                 Hai rặng núi,
                 Núi thẳm trời cao nước lạnh căm,
                 Tương tư lá đỏ thâm !

                 Hoa cúc nở,
                 Hoa cúc tàn,
                 Biền biệt người đi cánh nhạn hàn,
                 Rèm cửa gió trăng nhàn !
 Lục bát :
                 Chập chùng đồi núi xa xa, 
                 Xa xa đồi núi bao la chập chùng.
                 Trời cao khói sóng lạnh căm,
                 Tương tư dai dẵng lá phong đỏ màu.

                 Thu sang cúc nở đón chào,
                 Cúc tàn thu úa người sao chửa về.
                 Bay cao tái bắc nhạn về,
                 Một song trăng gió não nề riêng ta !
                               Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
             
                 

      LÂM BÔ 林 逋(967一1028)tự là Quân Phục 君 復, người thôn Hoàng Hiền tỉnh Chiết Giang, là một ẩn sĩ nổi tiếng đời Bắc Tống. Ông ẩn cư một mình ở một ngọn núi lẻ loi bên Tây Hồ của Hàng Châu. Suốt hai mươi năm không bước chân vào thành thị, chuyên trồng mai và nuôi hạc, suốt đời không kết hôn nên người đời gọi đùa là Mai Thê Hạc Tử 梅 妻 鶴 子 có nghĩa: Vợ là những cây hoa mai còn con là những con chim hạc. Cuộc sống thanh cao đạm bạc như thần tiên trong núi, ai có biết đâu rằng ông cũng thuộc dạng nòi tình, cũng lụy vì tình khi phải chia tay người yêu dấu. Ta hãy đọc bài từ Trường Tương Tư của ông dưới đây sẽ rõ:

長 相 思                          TRƯỜNG TƯƠNG TƯ

吳 山 青,                       Ngô sơn thanh,
越 山 青,                       Việt sơn thanh,
兩 岸 青 山 相 送 迎,   Lưỡng ngạn thanh sơn tương tống                                               nghinh,
誰 知 離 別 情 ?           Thùy tri ly biệt tình ?

君 淚 盈,                      Quân lệ doanh,
妾 淚 盈,                     Thiếp lệ doanh,
羅 帶 同 心 結 未 成,  La đới đồng tâm kết vị thành,
江 邊 潮 已 平。            Giang biên triều dĩ bình!
         林 逋                                    Lâm Bô
    
                          

* Chú thích :
    - Ngô Sơn 吳 山 : Chỉ chung các rặng núi ở Bắc ngạn sông Tiền Đường thuộc lãnh địa của nước Ngô thời Xuân Thu Chiến Quốc. 
    - Việt Sơn 越 山 : Chỉ chung các rặng núi ở Nam ngạn sông Tiền Đường thuộc lãnh địa của nước Việt thời Xuân Thu Chiến Quốc. 
    - Tương Tống Nghinh 相 送 迎: TỐNG là Đưa; NGHINH là Đón; TƯƠNG TỐNG NGHINH là "Đưa đón đón đưa nhau".
    - Lệ Doanh 淚 盈: Ta thường nói là: Lệ doanh tròng; chỉ nước mắt rưng rưng đầy cả tròng con mắt nhưng chưa kịp rơi xuống.
    - Đồng Tâm Kết 同 心 結 : KẾT là Gút, cái Nút, cái Thắt. La Đái Đồng Tâm Kết 羅 帶 同 心 結 : Dùng sợi dây thắt lưng bằng lụa để thắt thành hình hai qủa tim để tượng trưng cho tình yêu thắm thiết của đôi lứa yêu nhau.
    - Triều Dĩ Bình 潮 已 平: Nước thủy triều đã lên bằng bờ sông, ý chỉ đã bình hòa không còn chảy cuồn cuộn sôi nổi nữa.

* Nghĩa bài từ :
                        Nhớ Thương Dai Dẳng
       Những rặng núi của đất Ngô xanh xanh, những rặng núi của đất Việt cũng xanh xanh; Hai rặng núi bên hai bờ sông Tiền Đường như soi rọi nhau, như đưa tiễn nhau; Nhưng ai là người biết được cái tình ly biệt da diết đến cở nào đâu ?
       Chàng rưng rưng lệ, thiếp cũng lệ rưng rưng; giải lụa đồng tâm đã kết không thành đôi tim thắm thiết (có đau thương buồn khổ đó), nhưng rồi sẽ nguôi ngoai như khi thủy triều đã bình hòa ngang với mặt bờ sông !

       Có lẽ do thời gian làm nhạt nhòa đi các vết thương lòng và cũng làm cho nguội lạnh đi nỗi lòng tưởng nhớ, nên Lâm Bô 林 逋 tìm vào núi ẩn cư để lãng quên nỗi buồn nhân thế, lấy Mai Thê Hạc Tử 梅 妻 鶴 子 làm niềm vui chăng?!

* Diễn Nôm :
                     TRƯỜNG TƯƠNG TƯ
                    
                   

                      Núi ngô xanh,
                      Núi Việt xanh,
                      Núi xanh đưa tiễn em với anh,
                      Ly biệt ý không đành !

                      Chàng rưng rưng,
                      Thiếp rưng rưng,
                      Giải lụa đồng tâm kết chẳng thành,
                      Nước lớn thôi cũng đành !
         Lục bát :
                      Núi Ngô xanh biếc bờ Nam,
                      Núi Việt bờ Bắc xanh lam một màu,
                      Cùng soi rọi tiễn đưa nhau,
                      Ai người biết được nỗi đau ly tình !?

                      Chia tay chàng mắt rưng rưng,
                      Mắt thiếp mờ lệ rưng rưng theo chàng,
                      Đồng tâm giải lụa lỡ làng,
                      Nguôi ngoai tình tựa nước tràn bến sông !
                                        Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
                       
               



         Hẹn bài viết tới :
                     TRƯỜNG TƯƠNG TƯ  (4)

                                                       杜 紹 德
                                                   Đỗ Chiêu Đức














Không có nhận xét nào: