Nguyễn
Lý-Tưởng sưu tầm
Năm
Thân, biểu tượng của nó là Con Khỉ, đứng hàng thứ 09 trong 12 con giáp. Khỉ
là con vật tinh khôn và đã được các nhà nhân chủng học tin vào thuyết biến hóa
(của Darwin) cho rằng con người từ khỉ mà ra. Con khỉ (vượn) trải qua hàng
triệu, triệu năm, để thích nghi với thiên nhiên và cuộc sống, dần dần biến hóa
từ con vật đi bốn chân, dần dần đứng thẳng dậy được, có xương sống đứng thẳng để
trở thành người.
Các
nhà nhân chủng học gọi con vượn trước khi chưa thành người là “Pithecanthropus”
dịch ra tiếng Hán (tiếng Hoa) là “hầu nhân”. Hà Nội dịch ra là “người vượn”,
nghĩa là chuẩn bị để trở thành con người (anthropus). Trong quá trình đó, đòi
hỏi phải có 03 điều kiện để được gọi là “con vượn tinh khôn” (homo sapiens).
Ba
điều kiện đó là:
-Thứ
nhất:-Xương sống đứng thẳng (pithecanthropus erectus): vì con vượn hay con khỉ
mà chúng ta thường thấy thì không có xương sống đứng thẳng như con người.
-Thứ hai là biết sử dụng lửa để nấu, nướng. Vì loài vật thì sợ lửa và không biết sử dụng lửa. Chỉ có con người mới biết sử dụng lửa để sưởi ấm, để nấu nướng...Đó là điều kiện chứng minh con khỉ (con vượn) đó có trí khôn như con người (homo sapiens).
-Thứ hai là biết sử dụng lửa để nấu, nướng. Vì loài vật thì sợ lửa và không biết sử dụng lửa. Chỉ có con người mới biết sử dụng lửa để sưởi ấm, để nấu nướng...Đó là điều kiện chứng minh con khỉ (con vượn) đó có trí khôn như con người (homo sapiens).
-Thứ
ba là có một cái miệng rộng và cái lưỡi lớn để có thể hoạt động được và nói được.
Loài vật không nói được vì cái lưỡi nhỏ và vòm miệng hẹp nên lưỡi không uốn được
trong miệng, do đó không nói được.
Nếu
gặp được một dấu vết nào của loài vượn mà có đủ 03 điều kiện đó thì mới chứng
minh được rằng có một loài vượn tinh khôn đã tiến hóa từ khỉ (vượn) đến con người.
Điều kiện đó cho đến bây giờ cũng chưa có đủ để chứng minh một cách “khẳng định”
rằng”con người từ khỉ, từ vượn mà ra”.
Trong
truyện “Tây Du Ký” (tất nhiên là do tác giả tưởng tượng, hư cấu ra)... kể rằng
có một vị thần trên trời bị tội, nên bị Thượng Đế phạt cho trở thành một con
khỉ bạch, bị đày xuống trần gian, bị một hòn núi lớn đè lên mình, nằm một chỗ
không đi đâu được. Về sau gặp được ngài Tam Tạng (Huyền Trang) thời nhà Đường đi
từ Trung Quốc qua Tây Thiên (Ấn Độ) để thỉnh kinh, và ngài đã thu nhận vị thần đội
lốt khỉ nầy (tức Tề Thiên Đại Thánh với Pháp danh là Tôn Ngộ Không), được Đức
Phật Quan Âm cứu ra khỏi núi và trao cho vị Đường Tăng đem đi theo làm đệ tử.
Loài
khỉ hay đánh nhau, nên đã có người nghiên cứu thế đánh lợi hại của nó mà đặt ra
môn võ gọi là “Hầu Quyền”. Người có tay chân dài như loài vượn thì gọi là có tướng
khỉ hay hầu tướng...
Trong
Sở Thú có chuồng nuôi khỉ và khách vào xem thấy mặt mày nó xấu xí, với những
trò chơi “khiếm nhã” nên người đời thấy bất cứ ai có thói xấu, có mặt mày khó
coi, dễ ghét... thì mắng là “đồ khỉ” hoặc “làm trò khỉ”. Khỉ vốn hay bắt chước
người, thấy ai làm gì thì nó hay làm theo.
Khỉ
vốn là con vật không ai ưa, không ai thích vì nó hay quậy phá và ranh mảnh, mất
dạy... Nhưng thịt khỉ cũng là món ăn ngon đối với một số dân nhậu. Và xương khỉ
lại là món thuốc trị bịnh về xương cốt, đau nhức rất công hiệu. Thầy thuốc Bắc
dùng xương khỉ nấu thành cao khỉ, làm vị thuốc cao để trị bệnh. Nghe đồn ở Chợ
Lớn ngày xưa có món ăn “óc khỉ, não khỉ” rất đặc biệt. Người ta đem con khỉ ra,
cạo sạch lông trên đầu, cho nằm dưới bàn, chỉ thò đầu ra mà thôi. Rồi lấy cái
búa đập vỡ xương sọ để lấy óc, lấy não của khỉ mà ăn! Mới nghe nói đã thấy
khiếp đảm rồi, đừng nói chi đến chuyện chính mình tham gia vào chuyện ăn uống
như vậy.
Năm
2016 là năm Giáp Thân, là năm con khỉ, cứ 12 năm thì trở lại năm Thân và cứ 60 năm (lục giáp) thì trở lại tên các
năm trước. Mỗi lần đến năm Thân thì người Việt Nam chúng ta thường nhắc lại câu
Sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm vào thời nhà Mạc (Mặc Đăng Dung cướp ngôi
nhà Lê năm 1527) từ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay gần 500 năm. Nguyễn Bỉnh Khiêm để
lại cho đời những bài thơ tiên tri về vận mệnh đất nước. Người đời sau gọi là
Sấm…
Long
vỹ, xà đầu khởi chiến tranh,
Can
qua xứ xứ khởi(động) đao binh.
Mã
đề dương cước, anh hùng tận,
Thân
Dậu niên lai kiến thái bình
(Cuối
năm con rồng (Thìn) đầu năm con rắn (Tỵ)
Khắp
nơi (xứ xứ) đều có đao binh (chiến tranh)
Đầu
năm con ngựa (Ngọ) cuối năm con dê (Mùi) thì anh hùng tận số.
Năm
Thân, năm Dậu sẽ thấy cảnh thái bình.)
Trong
vòng hai chục năm nay, chiến tranh xảy ra khắp thế giới, nhưng Việt Nam thì chưa.
Sấm Trạng Trình nói: năm Ngọ, năm Mùi thì anh hùng tận số. Nhưng anh hùng đó là
ai? Đã qua năm Ngọ (2014) và sắp hết năm Mùi (2015) vẫn chưa thấy biến cố gì
xảy ra cho nước Việt Nam. Vậy năm Bính Thân (2016) sắp tới có phải là “Thân,
Dậu niên lai kiến thái bình” như Sấm Trạng trình đã nói hay không?
Trong
một đoạn thơ khác tiếp theo mấy câu thơ trên của Sấm Trạng Trình, có 4 câu sau đây
(xem như bổ túc cho 4 câu thơ nói trên):
Cửu
cửu càn khôn dĩ định,
Thanh
minh thời tiết hoa tàn.
Trực
đáo Dương đầu, mã vĩ.
Hồ
binh bát vạn nhập Tràng An.
(Con
số 9 là con số mà trời đất đã định,
Trong
tiết thanh minh mà hoa tàn
Kịp
đến đầu năm Mùi (dương: dê), cuối năm Ngọ (mã: ngựa)
Quân
Hồ (quân phương Bắc 8 vạn sẽ vào Trường An (kinh đô)
Qua
4 câu thơ nầy, người ta chú trọng đến con số 9 vì cho đó là con số hoàn hảo.
Nhìn
lại các năm có con số 9 là các năm trong nước Việt Nam có nhiều biến cố lớn:
1945 (4+5), 1954 (5+4), 1963 (6+3), 1972 (7+2)… Nhưng nếu cọng 4 số của năm đó
thì không phải là con số 9. Chỉ có năm 2016 sắp đến mới có con số 9 hoàn hảo
(2+0+1+6=9) mà năm đó là năm Bính Thân nên người ta tin rằng năm Bính Thân
(2016) và năm Đinh Dậu (2017) thì sẽ ứng nghiệm lời Sấm của Trạng Trình.
Trong
Kinh Thánh của người Do Thái và người Ki-tô giáo (Christian) thì con số 9 là
con số đầy huyền bí và được xem là con số hoàn hảo nhất…
Năm
Bính Thân (2016) nầy, Việt Nam cũng như Mỹ có nhiều biến cố quan trọng: việc
thi hành hiệp định TPP (đối tác thương mãi Thái Bình Dương) mà Việt Nam đã ký
kết trong đó quy định những điều kiện phải thi hành để được tham gia TPP.
Người
ta hy vọng, TPP sẽ mở ra cho Việt Nam một con đường sống, tạo công ăn việc làm
cho mấy chục triệu người, vốn đầu tư ngoại quốc vào Việt Nam kèm theo đầu tư kỹ
thuật và hàng hóa sản xuất của Việt Nam sẽ được lưu thông miễn thuế trong 12 nước
tham gia TPP… Việt Nam cam kết sẽ cho thành lập công đoàn tự do để bảo đảm đời
sống của giới công nhân lao động theo luật lệ của các nước tự do (tư bản).v.v. Hy vọng Việt Nam sẽ chuyển hướng từ bỏ chế độ độc tài, thực hiện các quyền tự
do dân chủ cho dân… xã hội Việt Nam sẽ thay đổi, dân Việt Nam sẽ thoát Trung để
tự lực, tự cường, bảo vệ nhân quyền và nên độc lập của mình. Đại Hội lần thứ
XII của Đảng Cộng Sản VN sẽ chọn lãnh đạo mới và chủ trương chính sách mới cho
phù hợp với tình thế mới. Năm 2016 nầy, Hoa Kỳ cũng sẽ có lãnh đạo mới và chính
sách mới sau cuộc bầu cử Tổng Thống vào 11/2016 nầy. Thế giới cũng sẽ có nhiều
thay đổi mới, nhất là các nước Tây phương sẽ liên minh với nhau để đối phó với
nạn khủng bố dã man nhất từ trước tới nay do phe Hồi giáo quá khích chủ trương,
v.v. Chờ xem tương lai sẽ diễn tiến như thế nào?
Nghiên cứu sử sách từ xưa để lại, nhất là các pho cổ sử Viết bằng chữ Hán của nước ta như:
-Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên (đời nhà Lê);
-Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn;
-Đại Nam Thực Lục Chính Biên và Tiền Biên của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn;
-Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên và Chính Biên của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn;
-Đại Nam Nhất Thống Chí và các tác phẩm khác,v.v...
Chúng tôi ghi nhận một số biến cố xảy ra trong nước Việt Nam ta từ đầu thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ 20 như sau:
Nghiên cứu sử sách từ xưa để lại, nhất là các pho cổ sử Viết bằng chữ Hán của nước ta như:
-Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên (đời nhà Lê);
-Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn;
-Đại Nam Thực Lục Chính Biên và Tiền Biên của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn;
-Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên và Chính Biên của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn;
-Đại Nam Nhất Thống Chí và các tác phẩm khác,v.v...
Chúng tôi ghi nhận một số biến cố xảy ra trong nước Việt Nam ta từ đầu thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ 20 như sau:
Năm
Giáp Thân (264) Tháng 7 mùa Thu, nhà Ngô (Ngô Tôn Quyền thời Tam Quốc) chia đất
Giao Châu, đặt ra Quảng Châu. Năm ấy, nhà Ngô cắt ba quận Nam Hải, Thương Ngô
và Uất Lâm đặt làm Quảng Châu, châu lỵ ở Phiên Ung; Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật
Nam và Hợp Phố làm Giao Châu, châu lỵ ở Long Biên. Việc chia ra Giao Châu và
Quảng Châu bắt đầu từ đấy.
Canh
Thân (420), Đỗ Tuệ Độ đánh Lâm Ấp (tức nước Chiêm Thành), Lâm Ấp phải hàng. Tuệ
Đô là quan của nhà Tống cai trị đất Giao Châu, là người làm việc cẩn thận chu đáo,
dựng trường dạy học, bài xích các thói tục dị đoan. Các quan lại và nhân dân ai
cũng kính nể.
Mậu
Thân (768), nhà Đường đặt nước ta làm An Nam Đô Hộ Phủ. Tháng Tư, Phùng Hưng,
người Đường Lâm thuộc Phong Châu, vốn là nhà hào phú, lại có sức khỏe, có thể
vật nổi trâu, đánh được hổ. Khoảng năm Đại Lịch (766-779) nhà Đường, nhân thời
buổi loạn lạc, Phùng Hưng cùng với em là Phùng Hải đem quân chiếm được các ấp
láng giềng, tự xưng là Đô Quân; Phùng Hưng là Đô Bảo. Quan đô hộ nhà Đường là
Cao Chính Bình, đánh thuế nặng, dân oán trách. Phùng Hưng đem quân vây phủ. Cao
Chính Bình lo sợ mà chết. Dân chúng tôn Phùng Hưng làm Bố Cái Đại Vương.
Giáp
Thân (864), Quân Nam Chiếu (tức nước Đại Lý ở vùng Vân Nam) đánh cướp Ung Châu,
quan quân nhà Đường bị thiệt hại nặng. Nhà Đường cho Trương Nhân chỉ huy vạn
quân sang thay Thừa Huấn để chỉnh đốn lại mọi việc và tiến đánh người Nam
Chiếu, lấy lại các thành đã mất.
Nhâm
Thân (972), vua Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh) sai con là Đinh Liễn (Nam Việt Vương)
sang sứ nhà Tống. Nhà Tống sai sứ sang phong cho vua Đinh Tiên Hoàng làm Giao
Chỉ quận vương, tờ sắc phong có nói rõ: “được cầm binh quyền, tự chủ trong việc đánh
dẹp ở phương xa”. Như thế, sau 1000 năm bị Trung Quốc đô hộ, lần đầu tiên, vua
Trung Quốc đã phong vương cho vua nước ta. Vì thế, sử sách của ta gọi Đinh Bộ
Lĩnh là Đinh Tiên Hoàng.
Giáp
Thân (984): Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) cho “xây cung điện ở núi Đại Vân, trang
sức bằng vàng bạc, dùng làm nơi vua coi chầu. Phía Đông là điện Phong Lưu; phía
Tây là điện Tử Hoa; bên tả là điện Bồng Lai; bên hữu là điện Cực Lạc. Lại làm
lầu Đại Vân và điện Trường Xuân làm chỗ ngự tẩm (nơi vua ở). Bên điện Trường
Xuân dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc.” (Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương
Mục)
Bính
Thân (996) vua Lê Đại Hành cho sứ sang nhà Tống dàn xếp về vấn đề biên giới.
Nguyên nhà vua thường dung túng cho dân nơi biên giới lấn cướp bờ cõi nhà Tống.
Quan nhà Tống ở Quảng Tây là Trương Quan báo cáo việc đó cho vua Tống, nhưng
vua Tống có ý bỏ qua, không muốn gây chuyện để vỗ về dân ở biên giới. Vì thế
vua Lê Đại Hành sai sứ sang nhà Tống để trình bày mọi việc. Vua Tống bênh vua nước
ta mà cách chức Trương Quan, cho Trần Nghiêu Tẩu làm Quảng Tây chuyển vận sứ.
Vua Tống còn cho sứ là Lý Nhược Chuyết đem tờ chiếu và đai ngọc sang ban cho
vua nước ta.
Mậu
Thân (1009) vua Lê Long Đĩnh ra lệnh đào sông, mở mang đường sá và dựng đồn ở
Ái Châu (Thanh Hóa). Tháng 7, nhà vua đem quân đi đánh dẹp giặc giã ở châu Hoan
(Nghệ An). Tháng 10, vua mất, ở ngôi 4 năm, thọ 24 tuổi. Sử chép “nhà vua hoang
dâm, tửu sắc, dần mắc bệnh trĩ, nằm mà coi triều, nên người ta gọi là “Ngọa
Triều”. Lý Công Uẩn lên làm vua, lập ra nhà Lý, tức Lý Thái Tổ.
Lý
Công Uẩn, người làng Cổ Pháp, tỉnh Bắc Giang, con nuôi của nhà sư Vạn
Hạnh. Lý Công Uẩn được làm Điện Tiền chỉ
huy sứ. Khi Lê Long Đĩnh mất, nhờ hậu thuẫn của Sư Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn được
triều đình suy tôn lên làm vua, lập ra nhà Lý.
Canh
Thân (1020), tháng Chạp, vua Lý Thái Tổ sai con là Thái tử Lý Phật Mã đem quân đi
đánh Chiêm Thành ở vùng Bố Chính (Quảng Bình), chém được tướng Chiêm là Bố
Lệnh. Chiêm Thành vào thời nhà Đường cũng có tên là nước Lâm Ấp.
Nhâm
Thân (1032) dưới thời vua Lý Thái Tông (Lý Phật Mã), nhà vua đích thân đi cày
ruộng tịch điền để khuyến khích nông nghiệp.
Giáp
Thân (1105) tháng 6, danh tướng Lý Thường Kiệt mất. Ông là người họ Nguyễn được
vua ban cho họ Lý. Ông làm quan trải ba triều vua nhà Lý, có công phá tan quân
Tống và bình định Chiêm Thành, được vua yêu quý và phong tặng chức Thái Úy là tước
lớn nhất trong triều đình. Khi chết, ông được phong “Kiểm Hiệu Thái Úy Bình Chương
Quân Quốc Trọng Sư: Việt Quốc Công” và được lập miếu thờ.
Mậu
Thân (1128), vua Lý Nhân Tông mất năm trước, thái tử Lý Dương Hoán lên nối ngôi
tức Lý Thần Tông, niên hiệu Thiên Thuận năm thứ nhất. Nhân nước Chân Lạp đem hơn
hai vạn người vào đánh cướp ở Nghệ An. Tháng Tám, vua sai Nguyễn Hà Viêm và Dương
Ổ đem quân ở Thanh Hóa đi đánh dẹp, quân địch thua trận phải rút lui.
Giáp
Thân (1164), tháng Bảy, nhà Tống sai sứ sang phong cho vua Lý Anh Tông làm An
Nam Quốc Vương và đổi Giao Chỉ làm An Nam Quốc.
Bính
Thân (1176) vua Lý Cao Tông đổi niên hiệu là Trinh Phù năm thứ nhất.
Canh
Thân (1200), trong nước mất mùa, dân đói. Vua ra lệnh đem thóc lúa phát cho dân
nghèo (gọi là phát chẩn).
Nhâm
Thân (1212): Trong nước có loạn, vua sai Đoàn Thượng đi đánh dẹp. Đoàn Thượng
chiêu mộ người ở Hồng Châu, tự ý làm nhiều điều trái phép bị các quan lên tiếng
buộc tội. Nhân đó, Đoàn Thượng làm phản, chiếm vùng Hồng Châu, tự xưng làm vua,
chống lại triều đình.
Giáp
Thân (1224). Vua Lý Huệ Tông truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Trước đây nhân thời loạn lạc, kinh thành bị cướp
phá, vua phải chạy về Hải Dương và gia đình Trần Lý đã đem con cháu và người
nhà bảo vệ vua, đánh được giặc Đoàn Thượng, đưa vua trở lại Thăng Long. Vua lập
con gái họ Trần làm Hoàng Hậu, bà nầy sinh được hai người con gái, người con
gái thứ hai là Phật Kim được phong làm Chiêu Thánh công chúa và được vua truyền
ngôi cho tức Lý Chiêu Hoàng. Vua Lý Huệ Tông lên làm Thái Thượng Hoàng và ra ở
riêng tại chùa Chân Giáo. Trần Thủ Độ làm Thái Sư cho cháu là Trần Cảnh vào hầu
vua rồi sau trở nên chồng của Lý Chiêu Hoàng. Tháng Chạp năm đó Lý Chiêu Hoàng
nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông (lập ra nhà Trần). Trần
Thủ Độ giết Thái Thượng Hoàng nhà Lý là Lý Huệ Tông...
Thân (1248), vua Trần ra lệnh cho các địa phương đắp đê Đỉnh Nhĩ (tục gọi là đê
tai vạc) từ đầu nguồn đến bãi bể; đặt chức Hà Đê chánh sứ và phó sứ để trông
coi.
Canh
Thân (1260) vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt lên ngôi, tức Thế Tổ nhà Nguyên, đem quân
đánh nhà Tống (Trung Quốc).
Nhâm
Thân (1272), sử gia Lê Văn Hưu vâng lệnh ghi chép lịch sử nước ta từ Triệu Đà đến
Lý Chiêu Hoàng, lấy tên sách là Đại Việt Sử Ký, tất cả 30 quyển. Vua ra lệnh cho in thành sách để phổ biến
trong nước. Tháng 4, nhà Nguyên sai tướng Ngột Lương (tức Ngột Lương Hợp Thai)
sang hỏi cột mốc biên giới thời Mã Viện. Vua nhà Trần sai Lê Kính Phu đi họp
với tướng nhà Nguyên về vấn đề nầy. Người
nhà Tống thua trận, chạy sang nước ta, xin gia nhập quân đội nước ta. Vua Trần
chấp thuận và cho họ ở phường Giai Tuân ngoài kinh thành.
Giáp
Thân (1284), Tháng Tám, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tổ chức cuộc duyệt binh
lớn ở Đông Bộ Đầu, rồi chia quân ra đóng giữ ở Bến Than và các nơi xung yếu để
chống quân xâm lược nhà Nguyên (quân Mông Cổ). Tháng 11, quân Nguyên họp nhau ở
Hồ Quảng, chuẩn bị sang đánh nước ta. Vua Trần Anh Tông cho Trần Phủ sang gặp
quân Nguyên xin hoãn binh, nhà Nguyên không cho. Thái tử Thoát Hoan của nhà
Nguyên nói là mượn đường đi đánh Chiêm Thành, thực ra là đem quân xâm phạm nước
ta. Vua Trần cho triệu tập thân hào nhân sĩ trong nước đến điện Diên Hồng để
hỏi mưu kế chống giặc. Các kỳ lão đều tâu: “Phải đánh!” Tháng Chạp, quân Nguyên
tiến vào nước ta. Quân ta thua, vua Trần phải chạy sang Hải Đông. Trần Hưng Đạo
họp quân các nơi về ở Vạn Kiếp, dưới quyền tiết chế của Trần Hưng Đạo, chia
quân đóng ở Bắc Giang để chống cự.
Bính
Thân (1296). Luật nhà Trần nghiêm cấm đánh bạc. Nguyễn Hưng, tước thượng phẩm,
có tội, vua ra lệnh đánh cho đến chết.
Mậu
Thân (1308). Thái Thượng Hoàng (Trần Nhân Tông) xuất gia, ở am Ngọa Vân, núi
Yên Tử, tự hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ, qua đời vào tháng 11 năm Mậu Thân dưới đời
Trần Anh Tông.
Canh
Thân (1320), tháng 3, Thượng Hoàng (Trần Anh Tông) mất. Ngài là vị vua đã triệu
tập Hội Nghị Diên Hồng và đã ủy thác cho Trần Hưng Đạo chỉ huy toàn quân đánh
thắng được quân Nguyên (Mông Cổ). Ngài gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm
Thành là Chế Mân để đổi lấy đất châu Ô, châu Lý (bây giờ là Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam). Sau một thời gian làm vua, ngài nhường ngôi cho
con là Trần Minh Tông (1314), rồi lên làm Thái Thượng Hoàng.
Tháng
11, năm Canh Thân (1320), Thượng Tướng Phạm Ngũ Lão mất, thọ 66 tuổi. Ông là bậc danh tướng nhà Trần và cũng là người
đạo đức được mọi người kính trọng, sau khi chết, được nhân dân lập đền thờ.
Nhâm
Thân (1332): dưới thời Trần Hiến Tông, Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng Thái Hậu là mẹ
vua mất. Vua sai các quan chọn ngày lành để an táng. Có người tâu rằng “năm nay
an táng không có lợi cho tế chủ (vua)...” Thượng Hoàng là Trần Minh Tông sai người
hỏi lại người ấy rằng: “Ta tất nhiên không chết à?” Người ấy thưa rằng: “Điều ấy
tôi không dám biết”. Thượng Hoàng nói: “Nếu ta không tránh khỏi chết, thì lo
việc tang mẫu hậu cho xong xuôi, chả còn hơn để khỏi chết uổng hay sao? Này,
việc vui mừng, việc buồn rầu, theo điển lễ phải chọn ngày, là để cho việc được
trịnh trọng đấy thôi, chứ có phải như thuyết nhà âm dương câu nệ về việc họa
phúc đâu?” Bèn cử hành lễ hợp táng.
Tháng
7 năm Nhâm Thân (1332), vua bổ nhiệm Nguyễn Trung Ngạn lo việc xét xử. Những người bị can không ai bị oan uổng hoặc
bị xử quá đáng. Nhà vua tỏ ý khen ngợi. Nguyễn Trung Ngạn là gương sáng cho
những người làm công việc xét xử tại Tòa Án vậy.
Giáp
Thân (1344), Tháng Hai, người huyện Trà Lương là Ngô Bệ họp đồng bọn đi cướp
phá ở vùng Yên Phụ. Vua cho quân đi bắt, bọn chúng tan rã. Trần Hiến Tông (Thượng
Hoàng) mất đã bốn năm, đến tháng Tám năm Giáp Thân ( 1344) mới làm lễ an táng.
Theo luật thì sau khi vua mất trong vòng 7 tháng thì làm lễ an táng. Đây là trường hợp ngoại lệ. Năm nầy, trong nước
mất mùa đói kém, nhân dân nhiều người vô chùa hoặc đi làm gia nô cho các nhà
giàu để sống.
Bính
Thân (1356), Tháng Ba, vua Trần Dụ Tông rước Thượng Hoàng Trần Minh Tông đi
tuần nơi biên giới đến tận Nghệ An. Tháng 8, Thượng Hoàng đau nặng, tháng Hai năm
sau (1357), Thượng Hoàng mất, ở ngôi 15 năm, nhường ngôi 28 năm. Thọ 58 tuổi.
Ngài là người rất nhân từ và công bằng chính trực, được gọi là người hiền. Khi
gần chết, mọi người dâng thuốc, ngài không uống. Các hoàng tử đến gần, ngài
bảo: “Cứ xem việc làm của cổ nhân mà bắt chước, điều hay thì bắt chước, điều dở
thì tránh xa, chứ cần gì phải phiền cha dạy bảo”....
Canh
Thân (1380), Tháng Hai, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga, đánh vào Nghệ An,
Thanh Hóa. Tháng 5, Hồ Quý Ly đem quân đánh bại Chiêm Thành ở Ngưu Giang.
Nhâm
Thân (1392) dưới thời vua Trần Đế Hiện (lên ngôi năm 1377), Hồ Quý Ly làm Thái
Sư, chuyên quyền và mưu chiếm ngôi nhà Trần. Trần Nhật Chương biết rõ việc đó
nên lập mưu giết Hồ Quý Ly, việc bất thành nên bị đem ra xử tử. Vua ban cho Hồ
Quý Ly họ Lê. Tháng 4 năm đó, vua hạ chiếu trưng cầu lời nói trung thực. Bùi
Mộng Hoa dâng sớ hạch tội Hồ Quý Ly và báo động cho vua Trần biết:
“Quý
Ly đang dòm ngó ngai vàng nhà Trần.” Thượng Hoàng đem việc đó cho Hồ Quý Ly
biết. Sau này, khi Hồ Quý Ly nắm trọn quyền hành trong nước thì Bùi Mộng Hoa
trốn vào trong núi ẩn dật, không ra làm quan. Con Hồ Quý Ly là Hồ Hán Thương
lên ngôi vua năm 1403 (Tân Mùi).
Giáp
Thân (1404), con của Hồ Quý Ly là Hồ Hán Thương lên làm vua, đặt Hồ Quý Ly làm
Thái Thượng Hoàng, sai sứ sang nhà Minh. Nguyên người Chiêm Thành dâng nước ta
hai thớt voi để xin hòa. Về sau, Chiêm Thành lại tâu với nhà Minh là nước ta đòi
hỏi Chiêm Thành phải nộp hai thớt voi rồi lấy voi đó làm lễ cống cho nhà Minh.
Nhà Minh biết tình hình nước ta, nhà Hồ mới cướp ngôi nhà Trần nên kiếm cớ, cho
sứ sang hỏi. Hồ Hán Thương sai Phan Hòa Phủ đem hai con voi của Chiêm Thành
dâng, nộp cho nhà Minh. Trong nước, Hồ Hán Thương cho mở khoa thi, cứ ba năm
một lần thi Hương, năm sau thi Hội. Có 170 người trúng tuyển thi Hương, chưa
kịp thi Hội thì quân Minh sang xâm lấn nước ta, nên thôi không thi nữa. Ngoài
ra nhà Hồ cũng tổ chức tuyển lính và củng cố lại quân đội, đóng thuyền chiến,
trên thuyền có thể đi lại được, đào cảng từ Tân Bình đến giáp giới Thuận Hóa,
nhưng không thành công. Trần Khang tự xưng là Trần Thiêm Bình, nói dối là con
của Trần Nghệ Tông, trốn sang Trung Quốc tố cáo Hồ Quý Ly bạo nghịch, cướp ngôi
nhà Trần. Vua nhà Minh sai Lý Kỳ sang nước ta tra hỏi, xem xét tình hình rồi
trở về báo cáo mọi chuyện cho nhà Minh biết. Vì thế năm 1406, nhà Minh viện cớ đó
cho quân sang chiếm nước ta.
Bính
Thân (1416), nước ta bị nhà Minh cho quân xâm chiếm, bọn quan nhà Minh tha hồ vơ
vét, bắt dân phải đóng thuế nặng, khai thác tài nguyên mặt biển và rừng để làm
giàu và dâng nộp cho vua nhà Minh. Vua nhà Minh ban khen bọn Lương Nhữ Hốt, Đỗ
Duy Trung và cho chúng làm quan Tham Chính. Riêng Nguyễn Huân được làm Bố Chính
Sứ là chức quan lớn có trách nhiệm tham dự bàn bạc việc triều chính.
Mậu
Thân (1428), từ 1418-1427, Lê Lợi khởi nghĩa, kháng chiến chống quân Minh trong
10 năm gian khổ, đã đánh đuổi được ngoại xâm, giành độc lập cho dân tộc. Năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi (Lê Thái Tổ), lên
ngôi lấy niên hiệu Thuận Thiên, lập ra nhà Hậu Lê. Lúc đầu kháng chiến, Lê Lợi
lập Trần Cao (tự xưng con cháu nhà Trần) lên làm vua để dùng danh nghĩa nhà
Trần gởi thư cho nhà Minh... Nhưng đến khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh rồi,
Trần Cao lo sợ, thấy mình không có công lao gì, bèn bỏ trốn rồi bị bắt. Cao
uống thuốc độc chết. Sau khi thắng quân Minh, nhà vua sai Nguyễn Trãi viết bài
Bình Ngô Đại Cáo, công bố chiến thắng cho toàn dân biết. Khi lên ngôi, 1428, Lê
Thái Tổ lập trường học, ban thưởng cho công thần, ghi tên những người có công
lao vào sử sách, cho những người có công được mang quốc tính (họ vua tức họ
Lê). Tháng 3, vua sai sứ sang nhà Minh xin phong vương cho Trần Cao (con cháu
nhà Trần). Nhưng khi sứ nhà Minh đến nơi thì Trần Cao đã chết, sứ nhà Minh là
Lý Kỳ bèn trở về. Lê Thái Tổ sai sứ sang cám ơn nhà Minh và báo cáo việc Trần
Cao chết. Vua ban cho Nguyễn Trãi tước Quan phục hầu; Trần Nguyên Hãn làm Tả tướng
quốc, Phạm Văn Xảo làm Thái Úy. Đó là 3 người giữ chức vụ lớn nhất trong triều đình
và được ban quốc tính. Các tướng đã hy sinh vì tổ quốc trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh như Lê Thạch, Lê Lễ, Lê Triện... đều được phong tước và lập miếu
thờ. Vua cho tổ chức lại việc hành chánh, nội trị, giáo dục, binh bị, luật
lệ...
Nhà
Minh vẫn chủ trương lập con cháu nhà Trần và đòi ta phải trả lại cho họ số quan
lại và quân lính đã bị ta bắt và số võ khí đã bị giữ lại. Tháng 10, vua sai Hà
Lật và Đỗ Như Hùng sang nhà Minh đem người vàng (thay mạng Liễu Thăng, tướng
nhà Minh bị ta giết) và sản vật địa phương sang biếu nhà Minh. Sứ bộ của ta tâu
lên vua Minh rằng, con cháu nhà Trần không còn ai nữa. Vua cho các quan và thân
hào nhân sĩ trong nước cùng ký tên xác nhận con cháu nhà Trần không còn ai và đồng
lòng suy tôn Lê Lợi lên làm vua nước ta. Vua cũng xin trả hết số quan và lính
nhà Minh bị bắt cùng khí giới ta tịch thu được của họ. Vua cũng đòi nhà Minh
trả lại người con gái của vua bị Mã Kỳ bắt và đem sang Trung Quốc khi mới 9
tuổi. Nhà Minh trả lời người đó đã chết vì bệnh đậu mùa. Riêng bọn Trần Phong
và Lương Nhữ Hốt là người nước ta, theo làm quan cho nhà Minh, bị bắt. Vua đã
tha tội chết cho chúng. Nhưng chúng còn gởi thư cho nhà Minh, xin đem quân qua đánh
nước ta và xin làm nội ứng. Vì thế chúng bị xử tử.
Tháng
Tư năm Mậu Thân (1428) vua lên ngôi ở Đông Dô (Hà Nội), niên hiệu Thuận Thiên, đặt
tên nước là Đại Việt. Vua ở ngôi được 6 năm thì mất (1433), thọ 49 tuổi. Con là
Lê Nguyên Long lên nối ngôi tức Lê Thái Tông.
Canh Thân (1440), vua Lê Thái Tông hạ chiếu cho quần thần cứ thẳng thắn bàn về những chính sự trong nước còn thiếu sót. Chiếu rằng: “Đại thần và bách quan văn võ ăn lộc của vua, nên lo điều lo của vua. Phàm những chính sự và mệnh lệnh nếu có hại cho quân và dân, những việc làm của trẫm (vua) lỡ có điều gì không thích đáng, thì ai nấy đều nên tranh luận cho rõ ràng, can ngăn cho vỡ vạc, giúp đỡ cho những điều trẫm không nghĩ tới. Như thế thì, từ trước đến sau, vua và tôi mới giữ toàn vẹn được công danh sự nghiệp, cùng nhau chung hưởng vinh hiển. Há chẳng tốt lắm sao?”. Vua lập Nghi Dân làm Thái tử để nối ngôi. Vua thân hành đem quân đi đánh dẹp loạn lạc trong nước, giết thổ tù Hà Lai ở châu Thu Vật. Tên Nghiễm, thổ tù ở Thuận Mỗi, nổi loạn, cũng xin hàng.
Canh Thân (1440), vua Lê Thái Tông hạ chiếu cho quần thần cứ thẳng thắn bàn về những chính sự trong nước còn thiếu sót. Chiếu rằng: “Đại thần và bách quan văn võ ăn lộc của vua, nên lo điều lo của vua. Phàm những chính sự và mệnh lệnh nếu có hại cho quân và dân, những việc làm của trẫm (vua) lỡ có điều gì không thích đáng, thì ai nấy đều nên tranh luận cho rõ ràng, can ngăn cho vỡ vạc, giúp đỡ cho những điều trẫm không nghĩ tới. Như thế thì, từ trước đến sau, vua và tôi mới giữ toàn vẹn được công danh sự nghiệp, cùng nhau chung hưởng vinh hiển. Há chẳng tốt lắm sao?”. Vua lập Nghi Dân làm Thái tử để nối ngôi. Vua thân hành đem quân đi đánh dẹp loạn lạc trong nước, giết thổ tù Hà Lai ở châu Thu Vật. Tên Nghiễm, thổ tù ở Thuận Mỗi, nổi loạn, cũng xin hàng.
Nhâm
Thân (1452), dưới thời Lê Nhân Tông, (lên ngôi, 1443), vua sai sứ sang nhà Minh
chúc mừng việc Minh Cảnh Đế (1450-1456) lập Hoàng Thái Tử. Vua Lê Thái Tông mất
sớm, vua Lê Nhân Tông nối ngôi khi còn nhỏ tuổi. Đến tháng 11 năm Nhâm Thân
(1452) mới chính thức cầm chính quyền. Vua đổi lại niên hiệu là Diên Ninh
(1454) và đại xá cho cả thiên hạ, tặng thưởng cho các công thần...
Giáp
Thân (1464), dưới thời vua Lê Thánh Tông (lên ngôi 1460), ra lệnh hủy bỏ án
“tru di tam tộc” cho Nguyễn Trãi, phục hồi danh dự và quyền lợi cho
con cháu. Trong vụ án vua Lê Thái Tông chết bất đắc kỳ tử tại nhà Nguyễn Trãi,
triều đình quy tội giết vua cho Thị Lộ và Nguyễn Trãi bị án “tru di tam tộc”.
Người vợ bé của ông là Phạm Thị, lúc đó đang có thai, trốn vào xứ Bồn Man (ở
với người thiểu số), sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Về sau Nguyễn Anh Vũ đi thi đậu hương
cống (cử nhân). Đến nay vua Lê Thánh Tông ra lệnh hủy bỏ án cho Nguyễn Trãi vì
bị tội oan và cấp trả 100 mẫu ruộng tự điền lại cho con cháu, hạ chiếu lục dụng
con cháu Nguyễn Trãi. Nguyễn Anh Vũ được bổ nhiệm chức Đồng Tri Châu. Vua sai
sứ sang nhà Minh mừng việc Minh Hiến Tông lên ngôi. Vua trừng phạt những quan
nào can tội tham nhũng và ban thưởng cho con cháu các công thần.
Bính
Thân (1476), vua nhà Minh sai sứ sang khuyên vua Lê Thánh Tông trả lại đất đai
cho Chiêm Thành. Theo sử nhà Minh, vua Lê sai sứ sang tâu nói: “Chiêm Thành
không phải là đất màu mỡ gì, lấy được đất nước ấy không thể ở được, bắt được
dân nước ấy không thể sai khiến được. Nay vâng tờ minh chiếu bảo tôi trả lại đất
đai cho nước ấy, vậy xin bệ hạ sai sứ thần của triều đình sang vạch rõ lại giới
mốc đất đai, để cho dân ở biên cảnh hai nước được yên nghỉ, như thế tôi rất lấy
làm mãn nguyện”.
Mậu
Thân (1488), Vua thấy trong nước hạn hán mất mùa, nghĩ rằng việc cai trị dân có
điều bất công nên ra lệnh cho các quan lo việc xét xử phải giải quyết án lệnh
cho dứt khoát: việc kiện nhỏ thì phải giải quyết trong vòng 5 ngày; việc lớn
thì phải xét xử trong vòng 10 ngày, không được bê trễ.
Vua
cho sứ sang nhà Minh để giải quyết một số việc giữa nước ta và Trung Quốc.
-Sau khi quân ta chiếm được nước Chiêm Thành, con cháu vua Chiêm là Cổ Lai đem gia quyến chạy sang Trung Quốc. Vua Hiến Tông nhà Minh sai đưa Cổ Lai về nước, lập làm quốc vương, rồi gởi thư cho vua Lê Thánh Tông, buộc phải chấp nhận việc đó.
-Sau khi quân ta chiếm được nước Chiêm Thành, con cháu vua Chiêm là Cổ Lai đem gia quyến chạy sang Trung Quốc. Vua Hiến Tông nhà Minh sai đưa Cổ Lai về nước, lập làm quốc vương, rồi gởi thư cho vua Lê Thánh Tông, buộc phải chấp nhận việc đó.
-Hiến
Tông nhà Minh mới lên ngôi, sai sứ sang báo tin cho vua nước ta và ban cho vua
Lê lụa hoa. Vì thế vua Lê Thánh Tông mới cho sứ bộ sang nhà Minh chúc mừng và
nói rằng vì Chiêm Thành quấy nhiễu ngoài biên giới nước ta nên ta phải đem quân
trừng phạt chúng. Vua đồng ý trả lại đất cho Chiêm Thành.
Canh
Thân (1500), vua Lê Thánh Tông mất, Lê Hiến Tông nối ngôi, sai sứ sang nhà Minh
báo tang và xin phong vương. Vua Minh sai Từ Ngọc và Lương Trừ sang phong vương
cho Lê Hiến Tông. Vua Lê thân hành đón sứ nhà Minh tại trạm Lữ Côi. Khi bọn Từ Ngọc và Lương Trừ ra về, vua cho đem
vàng bạc lụa hoa để tặng và tiễn đưa. Sứ nhà Minh không nhận. Vua làm thơ để
tiễn đưa. Sau đó, vua cho sứ thần là Nguyễn Duy Trinh, Lê Lan Hinh và Nguyễn
Nho Tôn qua nhà Minh tạ ơn.
Nhâm
Thân (1512), thời suy tàn của nhà hậu Lê, từ năm 1510, Lê Tương Dực giết Lê Uy
Mục, lên nối ngôi. Khi sứ nhà Minh đến phong vương cho Lê Tương Dực, có nhận
xét như sau: “Quốc vương dung mạo đẹp nhưng lệch mình, tính đa dâm, trông như tướng
con lợn, chả bao lâu nữa sẽ bị loạn vong”. Sau đó, quả thật có nhiều biến cố
xảy ra. Trong nước nhiều loạn lạc, các tướng tranh chấp, đem quân đánh nhau.
Trần Cao nổi loạn xâm phạm kinh thành... Trịnh Duy Sản giết vua, lập vua mới.
Mạc Đăng Dung đem quân đi đánh dẹp, lập em vua tên là Xuân lên ngôi tức Lê Cung
Hoàng, để thao túng triều đình... Về sau Mạc Dăng Dung cướp ngôi nhà Lê năm
1527.
Giáp
Thân (1524): Mạc Dăng Dung tự phong làm Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Thái Phó, Nhân Quốc Công.
Bính
Thân (1536): Vua Lê ở Thanh Hóa sai Trịnh Duy Liễu đi ngã Lào qua Trung Quốc
báo cáo tình hình nước ta cho nhà Minh. Không thấy Liễu trở về, vua lại sai
Trịnh Viễn đi sang nhà Minh. Khi Viễn đi đến Vân Nam thì gặp quan nhà Minh là Đào
Phượng Nghi, ông liền trình bày việc họ Mạc cướp ngôi nhà Lê và thỉnh cầu nhà
Minh đem quân sang hỏi tội nhà Mạc. Vua Minh trao việc nầy cho triều đình xét.
Bộ Lễ và Bộ Binh đều nói: “Mạc Đăng Dung có mười tội lớn không thể không đánh được”.
Mậu
Thân (1548): Tháng Giêng, vua Lê Trang Tông mất ở Thanh Hóa, thái tử Lê Duy
Huyên lên nối ngôi tức Lê Trung Tông.
Canh
Thân (1560): Bấy giờ Trịnh Kiểm đem quân ra đánh ở các xứ Kinh Bắc (Bắc Ninh) Sơn
Tây rồi lại đánh ra các tỉnh phía Đông. Vua nhà Mạc là Mạc Phúc Nguyên phải
chạy đi Thanh Đàm. Trịnh Kiểm sai Hoàng Đình Ái giữ Lạng Sơn, Lê Khắc Thận giữ
Thái Nguyên, Vũ Văn Mật đi đánh Tuyên Quang, Đặng Định về giữ Hưng Hóa. Dân
chúng ủng hộ nhà Lê, đem thóc gạo tiếp tế cho quân Trịnh. Năm nầy được mùa to,
Trịnh Kiểm hạ lệnh cho vùng Kinh Bắc gặt lúa để cung cấp cho quân đội.
Nhâm
Thân (1572): Nguyên vào năm 1570, Trịnh Kiểm mất, trao quyền cho con trưởng là
Trịnh Cối. Trịnh Tùng bắt vua Lê đem vào Nghệ An rồi nhân danh vua, chống lại
Trịnh Cối. Mạc Kính Điển (chú của vua Mạc Mậu Hợp) được tin liền đem quân đánh
Thanh Hóa. Trịnh Cối lưỡng đầu thọ địch, nên đã đầu hàng nhà Mạc. Tướng nhà Lê là Lập Bạo (ở Bố Chính) đem quân
đầu hàng mạc và được trao cho chỉ huy quân đội vào đánh Thuận Hóa. Lập Bạo đem
60 chiến thuyền đi đường biển vào đóng ở đền Thanh Tương, xã Lãng Uyển. Nguyễn
Hoàng đóng quân ở bờ sông Ái Tử (sông Thạch Hãn) thuộc tỉnh Quảng Trị. Ban đêm
nghe trên sông có tiếng “trảo trảo” lấy làm lạ, bỗng nằm mộng thấy một người đàn
bà mặc áo xanh đến trước mặt thưa rằng:“ Tướng quân nên dùng mỹ kế để thắng
giặc”. Nguyễn Hoàng hiểu ra “mỹ kế” là “mỹ nhân kế”, bèn dùng người hầu gái tên
là Ngô Thi Ngọc Lâm (hay Trà) đi liên lạc với Lập Bạo, hẹn gặp gỡ bên bờ sông.
Lập Bạo nghe theo. Nguyễn Hoàng liền
dựng lều tranh và cho võ sĩ đào hầm mai phục... Lập Bạo đến, bị trúng kế, bèn bỏ
chạy ra bờ sông định tẩu thoát nhưng không kịp. Ông bị quân của Nguyễn Hoàng
bắn chết. Nguyễn Hoàng bắt được hơn 5000 lính của Lập Bạo cho lập nghiệp ở vùng
đất đỏ Gio Linh gọi là Bát Phường (ở giữa Khe Sanh và sông Bến Hải, hướng Tây
Bắc tỉnh Quảng Trị). Số lính thua trận còn lại không bị bắt, đã trốn tránh ở
vùng Hồ Xá và lập ra đảng cướp. Nơi đó gọi là “Truông Nhà Hồ”...
Giáp
Thân (1584): Tháng Hai, Trịnh Tùng đem quân đánh ra Trường An. Tháng 10, hai
huyện Thụy Nguyên và An Định ở Thanh Hóa bị động đất.
Bính
Thân (1596): Tháng Giêng, Tướng của nhà Lê là Phan Ngạn, trấn thủ Hải Dương đánh
thắng quân Mạc, bắt được Mạc Kính Chương ở Vạn Ninh. Năm đó, bầy tôi của nhà
Mạc bại trận qua báo cáo với nhà Minh rằng “Người cầm đầu cai trị ở nước ta lúc
đó là Trịnh Tùng chứ không phải con cháu nhà Lê” Vì thế, vua nhà Minh cho sứ đến
biên giới và đòi vua Lê phải đến gặp họ để chứng minh... Tháng Hai, vua phải
thân hành lên Trấn Nam Quan (ải) mang theo hình dạng hai quả ấn: một là hình
dạng ấn An Nam Đô Thống Sứ Ty của nhà Mạc và một là hình dạng ấn An Nam Quốc Vương
ngày trước, kèm theo 100 cân vàng, 1000 lạng bạc với mấy chục người kỳ mục
trong nước. Các tướng của ta là Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu, Nguyễn Hoàng
(chúa Nguyễn) và Trịnh Đỗ (Thái Phó) đem hơn một vạn quân và voi đi theo hộ
tống vua cùng hội họp với quan nhà Minh. Bên nhà Minh đưa ra nhiều yêu sách
khác như đòi phải có tượng người bằng vàng... và không chịu đến hội họp. Vua đợi
lâu không được nên tháng Ba, phải trở về. Năm đó, trong nước xảy ra hạn hán,
sao chổi xuất hiện, nước ở sông ngòi sôi vọt lên... Vua sai cầu đảo thì trời mưa. Tháng 11, Phạm Hàng ở Sơn Nam nổi loạn, vua
sai Bùi Văn Khuê đem quân đi đánh, giết được Hàng.
Mậu
Thân (1608) Trong nước đại hạn, khắp nơi, dân bị đói to.
Canh
Thân (1620): Trịnh Tùng nắm hết quyền hành, coi vua Lê Kính Tông không ra gì.
Vua bèn âm mưu với Trịnh Xuân, con Trịnh Tùng, tổ chức ám sát Trịnh Tùng. Việc bất thành, Trịnh Xuân bị bắt. Tùng sai
người bắt giam vua Lê Kính Tông rồi bức tử vua và phao tin vua tự thắt cổ chết.
Việc xẩy ra vào tháng Năm năm Kỷ Mùi (1619). Tháng 6 năm Kỷ Mùi (1619), Trịnh
Tùng lập con trưởng của vua là Lê Duy Kỳ lên ngôi tức Lê Thần Tông. Qua tháng
Giêng năm Canh Thân (1620), vua Lê Thần Tông đi tế Nam giao.
Giáp
Thân (1644). Đời vua Lê Chân Tông (lên ngôi năm 1643), tháng Chạp, Trịnh Tạc đem
quân đánh dư đảng nhà Mạc là Mạc Kính Hoàn tại Cao Bằng, chém tỳ tướng Mạc, bắt
được đồ đảng họ Mạc rồi kéo quân về.
Tháng
Tư, Thế tử Dũng Lễ Hầu Nguyễn Phúc Tần đánh tan đoàn thuyền của người Hòa Lan ở
cửa Eo, đốt cháy thuyền, thuyền trưởng tự tử, chỉ có một chiếc thoát nạn về tới
Batavia. Chiến thắng nầy vang dội, khiến cho người Âu Châu phải kiêng nễ lực lượng
hải quân của chúa Nguyễn. Nguyễn Phúc Tần sau nầy lên ngôi tức chúa Hiền (Hiền
Vương).
Bính
Thân (1656): quân Trịnh do Vũ Văn Thiêm, Đào Quang Nhiên đánh nhau với quân
Nguyễn do Nguyễn Hữu Tiến chỉ huy, ở Mẫn Trường và Bình Lãng. Nguyễn Hữu Dật
tiến quân đến núi Hồng Lĩnh. Quân Trịnh thua to. Trịnh Tráng sai con là Trịnh
Tuyền vào giữ Nghệ An.
Mậu
Thân (1668): Trịnh Tạc đánh thắng quân Mạc trở về. Nhân đó, Tạc tự phong làm Đại Nguyên Soái Thượng Sư Thái Phụ Tây Vương và phao tin rằng đã được sắc phong của
vua Lê.
Nhâm
Thân (1692): Con cháu nhà Mạc là Mạc Kính Chư chạy qua ẩn núp ở vùng Long Châu,
Trung Quốc. Trấn thủ Cao Bằng là Ngô Sách Tuân sai Bế Công Quỳnh là người thiểu
số ở Cao Bằng dò xét và bắt được Mạc Kính Chư cùng đồ đảng là Đinh Công Đĩnh
giải về kinh xử tử. Ngô Sách Tuân được thăng Thị Lang bộ Công, Bế Công Quỳnh được
phong tước Quận công.
Vua
nước Chiêm Thành là Bà Tranh làm phản, đem quân đi cướp của, giết dân ở phủ
Diên Ninh (Diên Khánh, Ninh Hòa thuộc tỉnh Khánh Hòa ngày nay). Chúa Nguyễn
Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh (Kính) và Nguyễn Đình Quang đem quân ở Chính Dinh
và Quảng Nam, Bình Khang đi đánh.
Giáp
Thân (1704): Trịnh Luân và Trịnh Phát định mưu giết Trịnh Cương. Việc bị bại
lộ, bị Trịnh Cương bắt giam và xử tử. Nguyễn Công Cơ có công phát giác nội vụ, được
thăng chức thị lang.
Bính
Thân (1716): Vua Lê Hy Tông mất, hưởng thọ 54 tuổi. Ở ngôi 30 năm, nhường ngôi
cho con là Lê Dụ Tông trong 12 năm. Lê Hy Tông được gọi là Thái Thượng Hoàng.
Mậu
Thân (1728): Nước Ai Lao sai sứ sang thông hiếu với chúa Trịnh. Nhà Thanh trả
lại cho nước ta mỏ đồng ở Tụ Long. Trước đây có chuyện tranh chấp biên giới
giữa nước ta và Trung Quốc, bên Trung Quốc lấn chiếm nước ta đến 40 dặm. Nhưng dân thiểu số ở vùng biên giới vẫn theo
về với nước ta. Do đó, vua nhà Thanh mới xét lại vùng biên giới và trả lại phần
đất đã lấn chiếm cho nước ta.
Canh
Thân (1740): Tháng Giêng, Trịnh Doanh tự phong Nguyên soái, tổng quốc chính, Minh
Đô vương, phong cho Trịnh Giang làm Thái Thượng Vương. Trịnh Doanh được bọn
Nguyễn Quý Cảnh ủng hộ lên cầm chính quyền thay Trịnh Giang. Nguyễn Quý Cảnh được
làm Tham Tụng (Thủ Tướng). Trịnh Doanh ép vua Lê Ý Tông truyền ngôi cho Lê Duy
Diêu là con của Lê Thuần Tông và tôn vua Lê Ý Tông làm Thái Thượng Hoàng. Lê Duy Diêu lên ngôi tức Lê Hiển Tông.
Nhâm
Thân (1752): Trước đây Lê Duy Mật, con cháu nhà Lê nổi lên chống họ Trịnh,
chiếm cứ xã Ngọc Lâu và Vĩnh Đồng. Khi nào quân Trịnh đến thì họ trốn vào rừng.
Nay Đàm Xuân Vực và Nguyễn Nghiễm đem quân đánh phá. Tướng của Lê Duy Mật là Tương
thua trận, rồi chết. Lê Duy Mật vẫn còn lẫn trốn biệt tích. Trịnh Doanh thưởng
cho Đàm Xuân Vực và Nguyễn Nghiễm cùng quân sĩ 20 lạng bạc, 2000 quan tiền.
Bính
Thân (1776): Từ năm 1772, Tây Sơn khởi nghĩa rồi dần chiếm các tỉnh Bình Định,
Quảng Ngãi tiến ra Quảng Nam. Tháng 5 năm Giáp Ngọ (1774), Trịnh Sâm sai tướng
Hoàng Ngũ Phúc đem quân vượt sông Gianh vào chiếm Thuận Hóa. Cuối năm đó, chúa
Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định. Quân Trịnh chiếm Phú Xuân từ 1775. Cuối năm
Ất Mùi (1775-1776), Chúa Trịnh Sâm triệu Hoàng Ngũ Phúc về và cho Bùi Thế Đạt
vào thay. Năm Bính Thân (1776), Bùi Thế Đạt cai trị đất Thuận Hóa, có Lê Quý Đôn
là văn thần giúp, tổ chức lại việc hành chánh, mở khoa thi, tha thuế cho dân,
khuyến khích khai hoang, buôn bán, v.v...
Mậu
Thân (1788): Sau khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt được họ Trịnh, được vua Lê
Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân. Vua Lê Hiển Tông mất, Nguyễn Huệ lập cháu của
Lê Hiển Tông là Lê Duy Kỳ lên làm vua (tức Lê Chiêu Thống). Nguyễn Nhạc được
tin liền từ Quy Nhơn kéo quân ra Bắc khuyên Nguyễn Huệ rút quân về, để Nguyễn
Hữu Chỉnh ở lại. Con cháu họ Trịnh là Trịnh Bồng và Trịnh Lệ trở lại Thăng Long
tranh chấp quyền hành, lấn ép vua Lê. Lê Chiêu Thống gọi Nguyễn Hữu Chỉnh ở
Nghệ An ra giúp. Chỉnh loại được thế lực họ Trịnh, củng cố ngai vàng cho nhà
Lê. Sau đó, Chỉnh lại chuyên quyền. Nguyễn Huệ ở Phú Xuân được tin, cho Vũ Văn
Nhậm đem quân ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh bị thua, bị giết.
Tháng
Giêng năm Mậu Thân (1788), vua Lê Chiêu Thống bỏ kinh thành trốn lên phía Bắc nương
nhờ Dương Đình Tuấn. Vũ Văn Nhậm bắt được em của Dương Đình Tuấn tên là Lung
tra hỏi. Vua sợ Tuấn thay lòng đổi dạ nên cùng Nguyễn Đình Giản bỏ trốn qua
huyện Gia Định. Bấy giờ chỉ có Vũ Trinh, Ngô Chí và Trần Danh Án ở bên cạnh vua
mà thôi. Tháng Hai, vua đi đến Chí Linh và truyền hịch cần vương. Thổ hào các nơi
nổi dậy ủng hộ vua Lê, chống Tây Sơn...
Tháng
Tư năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ được tin Vũ Văn Nhậm cậy công lộng quyền. Vũ
Văn Nhậm là con rể Nguyễn Nhạc mà lúc đó giữa anh em Tây Sơn đang có chuyện bất
hòa: Nguyễn Huệ đem quân đánh Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn. Vì thế, sau khi giải
quyết vụ tranh chấp nội bộ xong, Huệ liền đem quân ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm và
trao quyền cho Ngô Văn Sở. Nguyễn Huệ ra lệnh lùng bắt vua Lê Chiêu Thống không
được bèn đặt người chú của vua Lê là Lê Duy Cẩn lên làm Giám Quốc, cho Ngô Thời
Nhậm làm Lại bộ tả thị lang, Phan Huy Ích làm Hình bộ tả thị lang...để giúp Ngô
Văn Sở. Sau đó, Huệ rút quân về Phú Xuân.
Tháng
7, năm Mậu Thân (1788) Hoàng Thái Hậu, mẹ vua Lê Chiêu Thống, qua nhà Thanh xin
quân cứu viện. Nguyên vào tháng Giêng năm Mậu Thân (1788) khi vua Lê Chiêu
Thống chạy ra khỏi kinh thành thì Thái Hậu cũng như Hoàng Hậu mỗi người một
ngã, không gặp được vua. Thái Hậu đến Cao Bằng bị chặn đường, may có Lê Quýnh
và các trung thần bảo vệ đưa bà qua Long Châu (Trung Quốc). Thái Hậu có đem
theo người con của vua Lê Chiêu Thống và được Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ
Nghị đón tiếp. Tôn Sĩ Nghị trình lên vua Càn Long nhà Thanh xin đem quân qua đánh
Tây Sơn... Tôn Sĩ Nghị nhận được thơ trả lời của vua Càn Long “đồng ý cho cử đại
binh chinh phục An Nam” liền cho Lê Quýnh trở về nước báo tin cho vua Lê Chiêu
Thống biết. Vua Lê Chiêu Thống nghe tin đó, liền sai Lê Duy Đản và Trần Danh Án
lên biên giới đón quân nhà Thanh.
Tháng
10 năm Mậu Thân (1788), quân Thanh vào nước ta, tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở
cùng các quan Tây Sơn theo kế hoạch rút lui giữ đèo Tam Diệp để đợi quân Nguyễn
Huệ từ Phú Xuân kéo ra Bắc. Bấy giờ vua Lê Chiêu Thống đang trốn tránh ở vùng
Phượng Nhãn (Bắc Ninh) liền trở về Thăng Long theo chân quân Tôn Sĩ
Nghị... Tháng 11, nhà Thanh phong cho Lê Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương. Thái Hậu từ Trung Quốc trở về nước. Vua Lê
Chiêu Thống vào Thăng Long, trị tội những người bất trung với vua và ban thưởng
cho những người có công.
Nguyễn
Huệ ở Phú Xuân được tin liền tự tôn lên ngôi vua, đổi tên là Nguyễn Quang Bình,
niên hiệu là Quang Trung Hoàng Đế, trước khi đem quân ra Bắc, đến Thanh Nghệ,
dừng chân tuyển thêm quân, được 8 vạn người, tạm đóng quân ở Thọ Hạc, cho người
đưa thư cho Tôn Sĩ Nghị “xin đầu hàng”, trong thư lời lẽ rất khiêm tốn. bấy giờ
là tháng Chạp năm Mậu Thân, Nguyễn Huệ cho tướng sĩ ăn Tết trước và hẹn sẽ vào
thành Thăng Long trước ngày 7 Tết năm sau (Kỷ Dậu, 1789).
Canh
Thân (1800): Võ Tánh bị vây trong thành Bình Định. Tháng Giêng, bộ binh của Trần Quang Diệu (Tây
Sơn) đánh tới Thạch Tân (Bến Đá), thủy binh của Võ Văn Dũng vào cửa Thị Nại
(Quy Nhơn). Trước thế mạnh của quân Tây Sơn, các tướng Nguyễn rút quân vào
trong thành Bình Định, giữ chặt, không ra đánh. Võ Tánh sai Lê Chất về Gia Định
báo cáo tình hình cho vua Gia Long biết.
Quân Tây Sơn tiến sát chân thành khiêu chiến, Võ Tánh vẫn không ra. Trần
Quang Diệu nói với Võ Văn Dũng rằng:“Tánh không ra đánh là muốn làm già yếu
quân ta.”
Diệu
cho dắp lũy ở ngoài thành, chu vi 4340 trượng, mỗi trượng đặt hai người canh
giữ, quân bao vây mấy vòng quanh thành. Võ văn Dũng thì đem tàu chiến chận cửa
biển Thị Nại. Tháng 4 năm Canh Thân (1800), quân Gia Định do Nguyễn Đức Xuyên
chỉ huy đã đến Diên Khánh, lưu lại đó chờ lệnh. Thuyền của vua Gia Long vào cửa
Cù Huân (thuộc Phú Yên), Nguyễn Văn Thành đánh Hội An (thuộc Phú Yên). Võ Tánh
nghe quân cứu viện đến liền mở cửa thành ra đánh quân Tây Sơn, đốt phá rồi
chiều lại rút vô thành. Trần Quang Diệu vẫn cho quân bao vây bên ngoài thành,
vẫn để cho người trong thành ra vào, cố ý cho người trong thành trốn ra xin đầu
hàng. Lợi dụng tình trạng đó, Võ Tánh
cho người liên lạc với vua Gia Long để thông báo tin tức. Quân Gia Định hai mặt
thủy bộ không thông với nhau, cũng không làm thế nào giải vây cho Võ Tánh được.
Nhâm
Thân (1812): vua Gia Long sai Nguyễn Hữu Thận (người làng Đại Hòa, Triệu Phong,
Quảng Trị) đi sứ nhà Thanh. Thận là người giỏi về toán học, thiên văn, địa lý
và các môn khoa học khác, trong thời gian tiếp xúc với các nhà khoa học Trung Quốc, ông đã trao đổi, học hỏi thêm được nhiều điều. Vua từng cùng bàn bạc với
ông về thiên tượng, rất khen ngợi. Hiếu Khang Hoàng Hậu (mẹ vua Gia Long) mất.
Vua chọn chỗ đất để an táng và định ngày ninh lăng. Hoàng Thái Hậu là người
làng An Du, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Nguyễn Văn Thành dâng cho vua một
phong thư dán kín, đề nghị 4 điều:
-1.xin sớm lập thái tử và phong tước hiệu cho các hoàng tử để yên lòng người;
-2. xin cho khắc in và ban hành luật để rõ pháp luật;
-3. xin chọn nho thần để sung vào Sử Cục;
-4. Xin chế phục nước Phiên để chốn biên cương được yên. Vua cho Lê Văn Duyệt làm Tổng Trấn Gia Định thay Nguyễn Văn Nhân và cho Trương Tấn Bửu là Phó Tổng Trấn.
-1.xin sớm lập thái tử và phong tước hiệu cho các hoàng tử để yên lòng người;
-2. xin cho khắc in và ban hành luật để rõ pháp luật;
-3. xin chọn nho thần để sung vào Sử Cục;
-4. Xin chế phục nước Phiên để chốn biên cương được yên. Vua cho Lê Văn Duyệt làm Tổng Trấn Gia Định thay Nguyễn Văn Nhân và cho Trương Tấn Bửu là Phó Tổng Trấn.
Giáp
Thân (1824): Vua Minh Mạng ra lệnh tiếp tục đào kênh Vĩnh Tế, lấy dân các trấn
thuộc thành và nước Chân Lạp (Cao Miên) gồm 24.700 người để làm việc. Vua dụ
rằng: “Việc đào sông Vĩnh Tế là vâng theo thánh toàn của Hoàng Khảo Thế Tổ Cao
Hoàng Đế ta mà làm, thực là quan yếu cho quốc kế biên trù. Nhưng khai đào mới
bắt đầu, công việc còn khó, trẫm vâng theo chí trước, năm ngoái đã đào, còn lại
hơn 1.700 trượng, ấy là còn thiếu cái công một sọt đất. Nay nước nhà nhàn rỗi,
chính nên kịp thời làm tiếp cho xong, để làm kế nhọc một lần được rỗi mãi mãi”.
Cho Phạm Đăng Hưng làm Thượng Thư bộ Lễ. Hai người Pháp là Chaigneau (Nguyễn Văn
Thắng) và Vannier (Nguyễn Văn Chấn) đã từng giúp vua Gia Long lập được nhiều
công lớn. Vua Gia Long cho làm đến chức Chưởng Cơ, chỉ huy tàu Phi Long và tàu
Phi Phụng. Sau khi Gia Long mất, họ dần dần trở nên cô đơn và có nhiều điều
không vừa lòng với vua Minh Mạng, năm 1824, họ xin nghỉ việc và xin về nước.
Bính
Thân (1836): Bộ Công tâu: “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa (Hoàng Sa
xứ: tức là đảo Hoàng Sa) rất là hiểm yếu. Trước đã phái vẽ bản đồ mà hình thể
nó xa rộng, mới chỉ được một nơi, cũng chưa rõ ràng. Hàng năm nên phái người đi
dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ
tuần tháng Giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ Giám Thành đáp một chiếc
thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng Hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng
Ngãi, Bình Định thuê một chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa.
Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ
ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi, và nước biển bốn bên
xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở,
bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi,
nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao
nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ biển, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương
hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển
chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình”. Vua y lời tâu, sai
suất đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho mang theo 10 cái
bài gỗ, đến nơi dựng làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước rộng 5 tấc, dày 1 tấc,
mặt bài khắc những chữ “Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy binh chánh đội trưởng,
suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để
ghi nhớ” (trích Đại Nam Thực Lục chính biên, đệ nhị kỷ, năm Minh Mạng thứ 17,
bản dịch Viện Sử Học Hà Nội, 1967, trang 30-31)
Mậu
Thân (1848):Vua Thiệu Trị mất vào tháng 9 năm Đinh Mùi (1847), tháng 10 năm đó,
hoàng tử thứ hai là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm lên nối ngôi nhưng qua năm sau, Mậu
Thân (1848) mới chính thức lấy niên hiệu là Tự Đức nguyên niên (năm thứ nhất).
Nhân ngày Tết, vua mặc áo cát phục, thân đến cung hoàng mẫu (Thái hậu Từ Dũ, mẹ
của vua) chúc mừng và dâng 100 lạng vàng, 1000 lạng bạc. Lễ xong, vua ngự điện
Văn Minh để cho các quan đến chúc mừng. Vua sai Phan Thanh Giản, Thượng Thư bộ
Hình bói ngày tốt để làm lễ tế Nam Giao. Vua mới lên ngôi, nên ở nhà riêng làm
việc vì đang có tang, không ngự ở điện Càn Thành. Vua dùng điện Hoàng Phúc làm
nhà để tang.
Vua
nước Cao Miên là Nặc Ông Chăn trước đây đã thần phục nước ta. Khi Nặc Ông Chăn
mất, con gái là Ngọc Vân lên nối ngôi.
Xá Ông Giun là em vua Nặc Ông Chăn đã chạy qua nước Xiêm và vua Xiêm cho
100 người đến Ô-dong phong cho Xá Ông Giun làm vua nước Cao Miên. Vì thế vua
Thiệu Trị mới cho Trương Minh Giảng đem quân qua bảo hộ Cao Miên, giúp Ngọc Vân
cai trị nước ấy. Vua phong cho Ngọc Vân làm Mỹ Lâm Quận Chúa và đổi tên nước
Cao Miên làm Trấn Tây Thành. Về sau Xá Ông Giun về quy thuận nước ta. Vua lại
cho Xá Ông Giun làm vua Cao Miên và Ngọc Vân làm Quận Chúa như trước. Nhưng vì
áp lực của nước Xiêm, nên Xá Ông Giun lại nhận sự phong vương của vua Xiêm.
Đại
thần Võ Xuân Cẩn (Đông Các đại Học Sĩ) tâu xin vua Tự Đức phong tước cho dòng
dõi của Anh Duệ Thái Tử (tức Nguyễn Phúc Cảnh, con trưởng vua Gia Long). Nguyên từ thời vua Minh Mạng, hai người con
của Thái Tử Nguyễn Phúc Cảnh là Nguyễn Phúc Mỹ Đường và Nguyễn Phúc Mỹ Thùy bi
tội. Mỹ Đường bị truất phế làm dân thường, Mỹ Thùy vì ốm bệnh mà chết. (Thực ra
cả hai người nầy đều bị hại do sự ganh ghét của vua Minh Mạng không muốn cho
dòng con trưởng của vua Gia Long có thế lực sợ tranh đoạt ngôi vua của con cháu
Minh Mạng sau nầy). Dòng dõi Thái Tử Cảnh chỉ còn một người cháu nội là Lệ
Chung (con Mỹ Đường) đã được phong làm Cảm Hóa Hầu để coi giữ việc thờ tự tổ
tiên (Nguyễn Phúc Cảnh tức Anh Duệ Hoàng Thái Tử). Võ Xuân Cẩn đã nhắc lại công
lao của Hoàng Hậu vua Gia Long và con của bà là Thái Tử Nguyễn Phúc Cảnh đối
với việc khai sáng nhà Nguyễn thời Gia Long để xin vua Tự Đức xét lại bản án
thời Minh Mạng và phong tước cho họ. Vua đồng ý.
Tù
trưởng nước Thủy Xá và Hỏa Xá (người thiểu số ở Tây Nguyên) đến chúc mừng và
dâng các sản phẩm địa phương như ngà voi, sừng tê giác, trầm hương...
Vua
ban hành lệnh cấm đạo Thiên Chúa: “Từ nay phàm những đạo trưởng ở Tây Dương lén đến
nước ta thì cho quân dân mọi người ai có thể bắt được giải nộp quan, thưởng cho
300 lạng bạc. Còn người đạo trưởng Tây Dương ấy do quan sở tại xét hỏi rõ ràng
lai lịch, lập tức đem việc dâng tâu, cho đem đích thân tên phạm ấy ném bỏ xuống sông biển. Còn như những đạo trưởng và bọn theo đạo “người trong nước”, xin cho
các nha xét việc hình 2, 3 lần bảo cho biết tội, nếu chúng biết hối cải bỏ đạo,
bước qua thập giá, thì thả ra ngay. Người nào không chịu bước qua thập giá thì
người đạo trưởng phải bị xử tử; dân theo đạo thì thích chữ “tả đạo” vào mặt, đuổi
về, ghi tên vào sổ dân. Nếu biết hối cải, thì cũng cho đến quan để xóa bỏ chữ
ấy. Lại các người can phạm về đạo Da-tô hiện đương giam cầm xin cũng phân biệt đạo
trưởng và người dân theo đạo, chiếu theo như trên mà làm”. (Trích dịch nguyên văn
trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ tứ kỷ, quyển II) (Chú thích: chữ
“Cristus” từ tiếng Latin dịch ra tiếng Anh là Christ, được phiên âm qua chữ Hán
là Da-tô tức là Jesus Christ là tên của Đức Chúa Giêsu, Đấng sáng lập ra đạo
Thiên Chúa hay còn gọi là đạo Công Giáo).
Theo
đề nghị của Võ Xuân Cẩn (Đông Các Đại Học Sĩ) vua cho xét lại vụ án Nguyễn Văn
Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất là các khai quốc công thần thời Gia Long; cho tìm
con cháu của các vị đó là: Nguyễn Văn Toại (cháu Nguyễn Văn Thành), Lê Văn Diễn
(cháu gọi Lê Văn Duyệt bằng ông chú bác), Lê Luận (cháu lê Chất) cho được bổ
dụng làm cai đội.
Canh
Thân (1860): Quân Pháp đánh chiếm nhiều nơi ở Gia Định và đóng quân ở đó; đồng
thời cũng đánh phá các đồn phòng giữ cửa biển của ta như Chân Sảng, Định Hải,
Trà Sơn, An Hải, Điện Hải. Vua sai Nguyễn Trọng Thao đến Gia Định để đôn đốc
việc quân. Vua sai đình thần hội bàn hòa ước do Pháp đề nghị (11 khoản). Vua nói rằng có 8 điều quan trọng trong đó có
3 điều như:“không nên bắt giữ xét hỏi và xâm phạm tài sản của người trong nước
theo đạo” thì tạm theo được. Bọn theo đạo ấy chỉ có bấy nhiêu người mà thôi (số
ít), ai già chết thì thôi, không được thêm người khác. Nếu làm trái điều đó thì
trị tội không tha. Nước ta bắt được đạo
trưởng, nếu xét ra nó không dụ dỗ người ngoài, cũng không làm điều gì sai trái,
cũng tha không gông cùm hay giết chết, nhưng giao cho họ nhận về không được ở
lại. Nếu còn chiêu dụ người khác cũng là can phạm phép nước thì trị tội không
tha...”
Tháng
Ba năm canh Thân (1860), quân Pháp đánh phá, đốt hết các đồn Trà Sơn, An Hải,
Diện Hải (thuộc Đà Nẵng) rồi rút đi. Vua dụ cho quân thứ Quảng Nam phải tính
cách phòng bị và các địa phương có cửa biển, bờ biển thì phải canh phòng.
Các
tỉnh tâu về nói việc nghị hòa là hỏng và xin “đánh Pháp”. Vua hỏi ý Trương Đăng
Quế (Phụ Chính Đại Thần), ông tâu rằng:“Nay đánh nó thì thể chưa đánh nổi, đuổi
nó thì cơ cũng chưa tiện. Nay họ xin hòa thì chước lượng mà tòng quyền, có điều
gì không nên, mà nói nhiều cho rườm ra! Cứ như lời các người bàn đều nói rằng:
không nên hòa, thế thì đánh giữ thế nào để giữ vững bờ cõi, xử trí thế nào cho
dân binh được nghỉ ngơi?”
Người
Cao Miên thấy quân Pháp đến uy hiếp nước ta thì nổi loạn, đem quân đánh vào các
tỉnh biên giới phía Nam. Về sau, họ tìm cách liên lạc với Pháp và rước người
Pháp vào nước họ, nhận sự bảo hộ của Pháp để chống lại nước ta. Vua phải ra
lệnh cho Trương Minh Giảng rút quân về.
Nhâm
Thân (1872): Sửa sang đê điều ở 4 phủ huyện Khoái Châu, Tiên Hưng, Phú Cừ và Hưng
Nhân thuộc tỉnh Hưng Yên. Giặc giả, cướp bóc nổi lên khắp nơi ở miền Bắc. Bọn
Cờ Đen (Lưu Vĩnh Phúc), Cờ Trắng (Bành Văn Nhị), Cờ Vàng (Hoàng Sùng Anh) từ
Trung Quốc tràn sang nước ta, quấy nhiễu. Vua Tự Dức phải viết thư cho Đề Đốc
Phùng Tử Tài của nhà Thanh (ở Long Châu) để phối hợp bình định giặc. Ông Ích Khiêm và Nguyễn Di phá tan sào huyệt
giặc ở Quán Ty (tỉnh Hưng Hóa), lấy lại được huyện lỵ Trấn Yên. Đàm Quang Văn,
tri huyện Hoành Bồ ở Quảng Yên đã phá được giặc quấy phá ở vùng Cát Bà. Đề đốc Đinh
Hội, phó Đề đốc Trần Môn, Án sát Hoàng Diệu cùng quân lính phá được giặc ở tỉnh
Bắc Ninh. Thống Đốc Hoàng Tá Viêm được thưởng lên một cấp. Phó Đề đốc Trần Mân,
Tham tán Ông Ích Khiêm, Tán lý Nguyễn Văn Tường phá được đồn Thanh Dã, tỉnh
Thái Nguyên do bọn cướp từ Trung Quốc sang. Tất cả đều được ban thưởng. Các
tỉnh Sơn Tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương bị đói... dân phải xiêu tán,
chết ngoài đường... Tổng đốc là Hoàng Tá Viêm tâu trình việc đó lên vua. Vua ra
lệnh cho các quan tỉnh tìm cách giúp đỡ và kêu gọi dân giàu bỏ tiền ra giúp
hoặc chia nhau nuôi dưỡng dân nghèo. Hoàng Sùng Anh (giặc Cờ Vàng) ra hàng tại
tỉnh Tuyên Quang và xin lập công chuộc tội. Đê Văn Giang và đê ở Hưng Yên bị
vỡ, nhiều nơi khác đê cũng bị vỡ như vậy, mặc dù đê mới được sửa sang. Ruộng bị
lụt ngập, mất mùa, dân đói...
Giáp
Thân (1884): Vua Tự Đức mất vào ngày 14 tháng 6 năm Quý Mùi (1883), sau đó là
cuộc khủng hoảng tại triều đình Huế gọi là vụ “Tứ nguyệt tam vương” (trong 4
tháng mà có đến 03 người được lập lên làm vua. Đó là Dục đức, Hiệp Hòa và Kiến
Phước). Các quan Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chịu
trách nhiệm trong việc phế lập nầy. Riêng quan Phụ chính Trần Tiễn Thành, vì
bất đồng ý kiến với hai ông Tường và Thuyết nên đã từ chức. Sau đó cũng bị giết
chết một cách mờ ám. Vua Kiến Phúc tên thật là Ưng Đăng, con nuôi thứ ba của
vua Tự Đức, em ruột Ưng Đường (thường gọi là hoàng tử Chánh Mông, là con nuôi
thứ hai của vua Tự Đức). Cả hai người đều là con của Kiên Thái Vương (Hường
Cai), em ruột vua Tự Đức. Ưng Đường lên làm vua sau khi vua Hàm Nghi lưu vong,
tức là vua Đồng Khánh.
Dưới
thời vua Kiến Phúc (tháng 11-1883 đến ngày 6 tháng 4 năm Giáp Thân tức 30-4-
1884, vua mất) và dưới thời vua Hàm Nghi, nối ngôi vua Kiến Phúc từ tháng
5-1884 đến cuối năm 1884, có mấy biến cố quan trọng sau đây:
-Quân Pháp đánh chiếm các thành trì ở các tỉnh miền Bắc (Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Kay) do quân nhà Thanh chiếm đóng, quân Tàu phải bỏ thành rút lui.
-Triều đình Huế và Pháp lập Hòa Ước ngày 6-6-1884, dưới thời vua Hàm Nghi gọi là Hòa Ước Giáp Thân (hay Hòa Ước Patenôtre) ký kết giữa Patenôtre (đại diện Pháp) và Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Phan (đại diện Việt Nam), gồm 19 điều khoản. Việt Nam công nhận quyền bảo hộ của nước Pháp. Hòa Ước nầy thay thế Hòa Ước Quý Mùi (hay Hòa Ước Harmand) gồm 27 điều khoản, được ký kết ngày 23 tháng 7 năm 1883 giữa Toàn Quyền Pháp là Harmand và De Champeaux (đại diện nước Pháp) và Trần Đình Túc (Khâm Sai toàn quyền), Nguyễn Trọng Hợp (phó Khâm Sai) đại diện cho Việt Nam.
-Việc tấn tôn vua Hàm Nghi lên ngôi do hai quan Phụ Chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chủ trương mà không báo trước cho Pháp biết nên Pháp phản đối và buộc triều đình phải làm đơn xin phép. Nguyễn Văn Tường phải qua gặp Khâm Sứ Pháp tại Huế để thương lượng, cuối cùng phải tổ chức lễ tấn phong vua Hàm Nghi với sự chứng kiến của đại diện Pháp...
-Quân Pháp đánh chiếm các thành trì ở các tỉnh miền Bắc (Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Kay) do quân nhà Thanh chiếm đóng, quân Tàu phải bỏ thành rút lui.
-Triều đình Huế và Pháp lập Hòa Ước ngày 6-6-1884, dưới thời vua Hàm Nghi gọi là Hòa Ước Giáp Thân (hay Hòa Ước Patenôtre) ký kết giữa Patenôtre (đại diện Pháp) và Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Phan (đại diện Việt Nam), gồm 19 điều khoản. Việt Nam công nhận quyền bảo hộ của nước Pháp. Hòa Ước nầy thay thế Hòa Ước Quý Mùi (hay Hòa Ước Harmand) gồm 27 điều khoản, được ký kết ngày 23 tháng 7 năm 1883 giữa Toàn Quyền Pháp là Harmand và De Champeaux (đại diện nước Pháp) và Trần Đình Túc (Khâm Sai toàn quyền), Nguyễn Trọng Hợp (phó Khâm Sai) đại diện cho Việt Nam.
-Việc tấn tôn vua Hàm Nghi lên ngôi do hai quan Phụ Chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chủ trương mà không báo trước cho Pháp biết nên Pháp phản đối và buộc triều đình phải làm đơn xin phép. Nguyễn Văn Tường phải qua gặp Khâm Sứ Pháp tại Huế để thương lượng, cuối cùng phải tổ chức lễ tấn phong vua Hàm Nghi với sự chứng kiến của đại diện Pháp...
Bính
Thân (1896): Phan Đình Phùng lập chiến khu ở núi Vụ Quang (Ngàn Trươi) tỉnh Hà
Tĩnh, đánh nhau với Pháp từ 1886 (sau khi kinh thành Huế thất thủ) đến 1895. Cụ
Phan Đình Phùng sinh năm Đinh Mùi (1847) tại làng Đông Thái, tổng Việt Yên,
huyện La Sơn, tỉnh Hà Tịnh, thân phụ là Phan Đình Tuyển. Phan Đình Phùng đỗ cử
nhân năm 1876 và tiến sĩ năm 1877 (đỗ đầu kỳ thi Đình nên gọi là Đình nguyên).
Nhân việc hai quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truất phế vua
Dục Đức (1883), cụ bị bãi chức đuổi về quê vì lý do đã công khai phản đối việc
làm của hai ông giữa triều đình. Sau ngày kinh đô Huế thất thủ (23-5 Ất Dậu),
Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra Quảng Trị... Phan Đình Phùng hưởng ứng hịch
cần vương, nổi lên ở Hà Tịnh, đóng bản doanh ở vùng núi Vụ Quang. Ông được Cao
Thắng giúp đúc được súng theo kiểu Tây, nhiều trận đánh thắng quân Pháp, gây
ảnh hưởng lớn từ Nghệ-Tịnh đến phía Bắc Quảng Bình. Hoàng Cao Khải, lúc đó đang
làm Kinh Lược Bắc Kỳ, với tư cách người bạn đồng hương, đã viết thư khuyên cụ
ra hàng nhưng cụ không chịu. Triều đình cho Nguyễn Thân làm Khâm Mạng Đại Thần đem
quân ra đánh dẹp. Nguyễn Thân đã dùng chiến thuật bao vây, cắt đứt mọi nguồn
tiếp tế lương thực cũng như nhân lực của chiến khu, khiến cho nghĩa quân càng
ngày thêm khốn đốn. Sau khi Cao Thắng bị thương tại trận và bị chết, nghĩa quân
yếu thế rất nhiều. Tiếp đến, cụ Phan Đình Phùng cũng bị bệnh mất tại chiến khu
trước khi quân Nguyễn Thân tiến chiếm được căn cứ Vụ Quang.
Mậu
Thân (1908): Sau khi phong trào Cần Vương và phong trào Văn Thân thất bại vào
những thập niên cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, các sĩ phu và Nho sĩ trong nước
theo gương Nhật Bản duy tân. Cụ Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Quang Phục Hội
hoạt động khắp trong Nam ngoài Bắc, đưa thanh niên Việt Nam qua Nhật, qua Tàu
du học và hoạt động cách mạng. Lúc bấy giờ Cụ Hoàng Hoa Thám, nguyên là một võ
quan của triều đình, ly khai chống Pháp, lập chiến khu ở vùng Yên Thế, trong
mấy chục năm liền gây cho Pháp nhiều tổn thất. Quân Pháp phải vất vả lắm mà chưa
thể dẹp yên được. Năm 1908 (Mậu Thân), ông Lương Ngọc Quyến (con cụ cử nhân Lương
Văn Can) bắt liên lạc với lính Việt trong quân đội Pháp ở Hà Nội, định đầu độc
lính Pháp, cướp súng ống, nổi dậy...Nhóm nầy có cho người liên lạc với cụ Hoàng
Hoa Thám ở Yên Thế xin yểm trợ. Nhưng vào giờ chót thì kế hoạch bị bại lộ, một
số người bị bắt, bị xử tử, bị tù đày. Sử gọi biến cố đó là “Vụ Hà Thành Đầu Độc”.
Canh
Thân (1920): Chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra tại Âu Châu từ 1914-1918,
vừa chấm dứt. Trong thời gian nầy một số người Việt được đưa qua Pháp làm lính
thợ (gọi là ONS = Ouvriers non spécialisés) có cơ hội học hỏi thêm và có phần
tiến bộ hơn trước. Một số thanh niên du học bắt đầu tham gia các hoạt động
chính trị. Các đảng chính trị có khuynh hướng thiên tả, chống Pháp ra đời sau
khi chấm dứt chiến tranh thế giới lần thứ I.
Nhâm
Thân (1932): Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái Học thành lập tại Hà Nội
ngày 25-12-1927 đã tổ chức cuộc khởi nghĩa vào mùa Xuân 1930 thất bại. Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí bị xử tử, số
khác bị bắt, bị tù đày hoặc trốn qua Trung Quốc. Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc (tức
Hồ Chí Minh) đã thống nhất ba đảng Cộng Sản tại Trung, Nam, Bắc và lấy tên là Đảng
Cộng Sản Đông Dương, bắt đầu hoạt động mạnh ở trong nước, thu hút được một số
thanh niên và thành phần lao động. Năm Nhâm Thân (1932) là thời điểm chính
quyền Pháp lùng bắt, đàn áp các “Phong trào yêu nước chống thực dân...” rất dữ
dội.
Giáp
Thân (1944): Quân Nhật chiếm Đông Dương, lấy lý do mượn đường tiếp tế cho quân
Nhật đang chiến đấu ở vùng Hoa Nam chống lại quân đội của Tưởng Giới Thạch. Máy
bay Mỹ ném bom, đánh phá cầu, đường, các trục lộ giao thông, đường xe lửa và
các cơ quan quân sự của Nhật tại Việt Nam. Các nhà cách mạng Việt Nam lưu vong
tại Trung Quốc đã họp nhau thành lập “Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội” do các
ông Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần lãnh đạo. Tổ chức nầy được Mỹ và Tưởng
Giới Thạch ủng hộ, dự tính đưa người về nước hoạt động kháng Nhật, một số thanh
niên Việt Nam có mặt ở Trung Quốc được Chính Phủ Tưởng Giới Thạch giúp đỡ và đưa
vào học quân sự tại các trường đào tạo sĩ quan của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Nhưng
về sau Mỹ bỏ kế hoạch đổ bộ Đông Dương bằng bộ binh và đã sử dụng bom nguyên tử
để giải quyết chiến tranh Mỹ-Nhật nên các chương trình của Việt Nam Cách Mạng Đồng
Minh Hội không thực hiện được. Năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, Mặt
Trận Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo, cướp chính quyền thành công tại Hà Nội.
Phe Quốc Gia đi chậm sau Việt Minh một bước và đã để lỡ cơ hội nắm chính quyền
tại Việt Nam lúc đó.
Bính
Thân (1956): Chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ sau ngày quân Pháp trở lại Đông Dương
vào tháng 9-1945 tại Miền Nam và tháng 12-1946 tại Miền Trung và Miền Bắc. Sau
khi căn cứ Điện Biên Phủ của Pháp bị Việt Minh chiếm đóng, Hiệp định đình chiến
giữa Pháp và Việt Minh được ký kết tại Genève, thủ đô nước Thụy Sĩ, ngày
20-7-1954. Từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc được đặt dưới quyền kiểm soát của Việt
Minh và từ vĩ tuyến 17 trở vô Nam do Pháp và Chính Quyền Bảo Đại kiểm soát. Ông
Ngô Đình Diệm được Quốc Trưởng Bảo đại bổ nhiệm làm Thủ Tướng và về nước chấp
chính ngày 7-7-1954, được toàn quyền hành động. Một triệu người Miền Bắc đã di
cư vào Nam tìm tự do. Ngày 23-10-1955, Ông Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân
ý, lật đổ Quốc Trưởng Bảo Đại và tuyên bố thành lập chế độ Cộng Hòa. Ông Ngô Đình
Diệm là Tổng Thống của VNCH đầu tiên. Năm Bính Thân (1956) là năm ban hành Hiến
Pháp Việt Nam Cộng Hòa do Quốc Hội Lập Hiến (sau biến thành Quốc Hội Lập Pháp)
và là năm thành công của chính quyền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo:
thống nhất quân đội, vãn hồi an ninh trật tự, xây dựng dân chủ, phát triển kinh
tế, tiêu diệt cơ sở hạ tằng của Cộng Sản nằm vùng.
Mậu
Thân (1968): Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị các Tướng lãnh Miền Nam lật đổ
và giết chết cùng với bào đệ là Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu (01 và 02 tháng
11-1963), Cộng Sản Bắc Việt tăng cường xâm nhập, quấy phá Miền Nam. Mỹ can
thiệp mạnh vào chiến tranh Việt Nam, ném bom Miền Bắc để ngăn chận sự xâm nhập
quân đội và vũ khí của CS Miền Bắc vào Miền Nam. Lợi dụng lệnh hưu chiến vào
dịp Tết Mậu Thân (1968), CSVN tổ chức tổng tấn công trên toàn lãnh thổ VNCH, đặc
biệt tại thành phố Huế. Trong gần một tháng bị CS chiếm đóng, hàng ngàn người
vô tội tại Huế và tỉnh Thừa Thiên đã bị CS sát hại, chôn chung trong một nấm mồ
tập thể...Ngoài thành phần công chức và quân nhân bị CS bắt, còn có các linh
mục, tu sĩ, giáo sư, bác sĩ, thanh niên, sinh viên học sinh và thường dân vô
tội bị bắt đem đi mất tích hoặc bị giết. Các tỉnh và thành phố khác tại Miền
Nam cũng bị CS tấn công và gây tổn thất về nhân mạng và tài sản khiến cho hàng
trăm ngàn đồng bào mất nhà cửa, phải cảnh màn trời chiếu đất...
Canh
Thân (1980): Lợi dụng Hiệp Định đình chiến được ký kết tại Paris ngày
27-01-1973, quân Mỹ rút khỏi Miền Nam VN, ngưng các cuộc ném bom trên lãnh thổ
Miền Bắc và đường mòn Hồ Chí Minh (dọc theo dãy núi Trường Sơn), CSVN đã tăng cường
xâm nhập vũ khí và quân lính vào Miền Nam để mở cuộc tấn công quy mô, cưỡng
chiếm toàn Miền Nam. Sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức (vào tháng
4-1975) và trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, các phe nhóm chính
trị khuynh tả đã vận động với Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Đại
Tướng Dương Văn Minh. (Việc nầy trái với Hiến Pháp VNCH mặc dầu có sự đồng ý
của Lưỡng Viện Quốc Hội). Trước áp lực của CS Hà Nội, ngày 30-4-1975, Đại Tướng
Dương Văn Minh đã ra lệnh cho toàn thể Quân Lực VNCH buông súng đầu hàng CS vô điều
kiện. Năm Canh Thân (1980) toàn dân Việt Nam từ Bắc chí Nam sống dưới gót giày độc
tài, bóc lột của CSVN. Những người đã phục vụ trong chính quyền Miền Nam (tức
VNCH) như các sĩ quan, viên chức hành chánh, cán bộ của các chính đảng và cả đến
các cấp lãnh đạo tôn giáo, các nhà tu hành, những người làm nghề tự do, buôn
bán... cũng bị CSVN đày đi lao động khổ sai trong các Trại tù (mệnh danh là Trại
Cải Tạo) tại Miền Bắc và tại những vùng núi non xa xuôi, khí hậu khắc nghiệt,
những nơi rừng thiêng nước độc, phải chết dần chết mòn trong cảnh đói rét,
thiếu ăn thiếu mặc, thiếu cả thuốc men... Các Giáo Hội bị đàn áp, nhà thờ, thánh
thất, chùa chiền, tu viện, trường học, bệnh viện... bị tịch thu. Các cấp lãnh đạo
các Giáo Hội bị bắt giam, bị bức tử hay bị đem ra xử tử công khai...Do đó,
nhiều thanh niên trí thức và cả những tín đồ của các tôn giáo nổi dậy, tranh đấu
đòi CSVN thực hiện các quyền tự do dân chủ nhất là tự do tôn giáo. Người trong
nước vượt biên, vượt biển, trốn ra nước ngoài...Kẻ thì bị Công An phục kích bắn
chết giữa đường, người thì bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, giết chết trên biển
cả hoặc bị đắm thuyền, đem thân làm mồi cho cá mập. Cảnh tượng rất bi đát, dã
man, chưa bao giờ có trong lịch sử Việt Nam và nhân loại. Có thể nói năm Canh
Thân (1980) là năm đen tối nhất của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Nhâm
Thân (1992): Do sự can thiệp của Hoa Kỳ, CSVN đã thỏa thuận cho những thành
phần sĩ quan và viên chức của chế độ VNCH đã bị bắt đi “học tập cải tạo” từ 03
năm trở lên (có người trên 17 năm), được xuất ngoại cùng với gia đình, đến định
cư tại Hoa Kỳ...Năm 1992 (Nhâm Thân) là năm có những chuyến ra đi công khai
chính thức từ VN qua Mỹ, rầm rộ nhất.
Giáp
Thân (2004): cách nay 12 năm, các phong trào tranh đấu đòi tự do tôn giáo, dân
chủ và nhân quyền cho Việt Nam, càng ngày càng lớn mạnh ở trong nước nhưng CSVN
đã ra tay đàn áp dã man, nhiều người bị tù đày…dân oan bị cướp đất, mất nhà,
mất việc, kéo nhau lên Sài Gòn, ra Hà Nội khiếu kiện. Phong trào chống Trung
cộng bành trướng, thao túng toàn bộ nền kinh tế Việt Nam, hàng lậu, hàng giả từ
Trung hoa tràn vào làm tê liệt nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Nạn tham nhũng từ
Trung Ương đến địa phương…
Hiện
nay, hơn 70% đảng viên CSVN đều muốn thoát Trung, muốn từ bỏ chế độ độc tài, thay đổi đường lối và chuyển qua
chế độ dân chủ. Khối cựu chiến binh và gia đình, đảng viên tiến bộ, trí thức
trẻ, tín đồ các tôn giáo, v.v. chiếm tuyệt đại đa số của hơn 90 dân Việt Nam đều
muốn thay đổi Hiến Pháp, muốn đa nguyên đa đảng. Đòi hỏi thực hiện các quyền tư
do dân chủ cho dân… chế độ CSVN chắc chắn sẽ cáo chung trong tương lai.
Nguyễn Lý-Tưởng
Nguyễn Lý-Tưởng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét