Thứ Tư, 10 tháng 2, 2016

Những Năm Thân Trong Lịch Sử - Nguyễn Lý Tưởng




NHỮNG NĂM THÂN TRONG LỊCH SỬ
Nguyễn Lý-Tưởng sưu tầm

Năm Thân, biểu tượng của nó là Con Khỉ, đứng hàng thứ 09 trong 12 con giáp.  Khỉ là con vật tinh khôn và đã được các nhà nhân chủng học tin vào thuyết biến hóa (của Darwin) cho rằng con người từ khỉ mà ra. Con khỉ (vượn) trải qua hàng triệu, triệu năm, để thích nghi với thiên nhiên và cuộc sống, dần dần biến hóa từ con vật đi bốn chân, dần dần đứng thẳng dậy được, có xương sống đứng thẳng để trở thành người.
Các nhà nhân chủng học gọi con vượn trước khi chưa thành người là “Pithecanthropus” dịch ra tiếng Hán (tiếng Hoa) là “hầu nhân”. Hà Nội dịch ra là “người vượn”, nghĩa là chuẩn bị để trở thành con người (anthropus). Trong quá trình đó, đòi hỏi phải có 03 điều kiện để được gọi là “con vượn tinh khôn” (homo sapiens).
Ba điều kiện đó là:
-Thứ nhất:-Xương sống đứng thẳng (pithecanthropus erectus): vì con vượn hay con khỉ mà chúng ta thường thấy thì không có xương sống đứng thẳng như con người.  
-Thứ hai là biết sử dụng lửa để nấu, nướng. Vì loài vật thì sợ lửa và không biết sử dụng lửa. Chỉ có con người mới biết sử dụng lửa để sưởi ấm, để nấu nướng...Đó là điều kiện chứng minh con khỉ (con vượn) đó có trí khôn như con người (homo sapiens).
-Thứ ba là có một cái miệng rộng và cái lưỡi lớn để có thể hoạt động được và nói được. Loài vật không nói được vì cái lưỡi nhỏ và vòm miệng hẹp nên lưỡi không uốn được trong miệng, do đó không nói được.
Nếu gặp được một dấu vết nào của loài vượn mà có đủ 03 điều kiện đó thì mới chứng minh được rằng có một loài vượn tinh khôn đã tiến hóa từ khỉ (vượn) đến con người. Điều kiện đó cho đến bây giờ cũng chưa có đủ để chứng minh một cách “khẳng định” rằng”con người từ khỉ, từ vượn mà ra”.
Trong truyện “Tây Du Ký” (tất nhiên là do tác giả tưởng tượng, hư cấu ra)... kể rằng có một vị thần trên trời bị tội, nên bị Thượng Đế phạt cho trở thành một con khỉ bạch, bị đày xuống trần gian, bị một hòn núi lớn đè lên mình, nằm một chỗ không đi đâu được. Về sau gặp được ngài Tam Tạng (Huyền Trang) thời nhà Đường đi từ Trung Quốc qua Tây Thiên (Ấn Độ) để thỉnh kinh, và ngài đã thu nhận vị thần đội lốt khỉ nầy (tức Tề Thiên Đại Thánh với Pháp danh là Tôn Ngộ Không), được Đức Phật Quan Âm cứu ra khỏi núi và trao cho vị Đường Tăng đem đi theo làm đệ tử.
Loài khỉ hay đánh nhau, nên đã có người nghiên cứu thế đánh lợi hại của nó mà đặt ra môn võ gọi là “Hầu Quyền”. Người có tay chân dài như loài vượn thì gọi là có tướng khỉ hay hầu tướng...
Trong Sở Thú có chuồng nuôi khỉ và khách vào xem thấy mặt mày nó xấu xí, với những trò chơi “khiếm nhã” nên người đời thấy bất cứ ai có thói xấu, có mặt mày khó coi, dễ ghét... thì mắng là “đồ khỉ” hoặc “làm trò khỉ”. Khỉ vốn hay bắt chước người, thấy ai làm gì thì nó hay làm theo.
    Khỉ vốn là con vật không ai ưa, không ai thích vì nó hay quậy phá và ranh mảnh, mất dạy... Nhưng thịt khỉ cũng là món ăn ngon đối với một số dân nhậu. Và xương khỉ lại là món thuốc trị bịnh về xương cốt, đau nhức rất công hiệu. Thầy thuốc Bắc dùng xương khỉ nấu thành cao khỉ, làm vị thuốc cao để trị bệnh. Nghe đồn ở Chợ Lớn ngày xưa có món ăn “óc khỉ, não khỉ” rất đặc biệt. Người ta đem con khỉ ra, cạo sạch lông trên đầu, cho nằm dưới bàn, chỉ thò đầu ra mà thôi. Rồi lấy cái búa đập vỡ xương sọ để lấy óc, lấy não của khỉ mà ăn! Mới nghe nói đã thấy khiếp đảm rồi, đừng nói chi đến chuyện chính mình tham gia vào chuyện ăn uống như vậy.
Năm 2016 là năm Giáp Thân,  là năm con  khỉ, cứ 12 năm thì trở lại năm Thân và cứ 60 năm (lục giáp) thì trở lại tên các năm trước. Mỗi lần đến năm Thân thì người Việt Nam chúng ta thường nhắc lại câu Sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm vào thời nhà Mạc (Mặc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê năm 1527) từ Nguyễn Bỉnh Khiêm đến nay gần 500 năm. Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại cho đời những bài thơ tiên tri về vận mệnh đất nước. Người đời sau gọi là Sấm…
Long vỹ, xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ khởi(động) đao binh.
Mã đề dương cước, anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình
(Cuối năm con rồng (Thìn) đầu năm con rắn (Tỵ)
Khắp nơi (xứ xứ) đều có đao binh (chiến tranh)
Đầu năm con ngựa (Ngọ) cuối năm con dê (Mùi) thì anh hùng tận số.
Năm Thân, năm Dậu sẽ thấy cảnh thái bình.)
Trong vòng hai chục năm nay, chiến tranh xảy ra khắp thế giới, nhưng Việt Nam thì chưa. Sấm Trạng Trình nói: năm Ngọ, năm Mùi thì anh hùng tận số. Nhưng anh hùng đó là ai? Đã qua năm Ngọ (2014) và sắp hết năm Mùi (2015) vẫn chưa thấy biến cố gì xảy ra cho nước Việt Nam. Vậy năm Bính Thân (2016) sắp tới có phải là “Thân, Dậu niên lai kiến thái bình” như Sấm Trạng trình đã nói hay không?
Trong một đoạn thơ khác tiếp theo mấy câu thơ trên của Sấm Trạng Trình, có 4 câu sau đây (xem như bổ túc cho 4 câu thơ nói trên):

Cửu cửu càn khôn dĩ định,
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo Dương đầu, mã vĩ.
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An.
(Con số 9 là con số mà trời đất đã định,
Trong tiết thanh minh mà hoa tàn
Kịp đến đầu năm Mùi (dương: dê), cuối năm Ngọ (mã: ngựa)
Quân Hồ (quân phương Bắc 8 vạn sẽ vào Trường An (kinh đô)
Qua 4 câu thơ nầy, người ta chú trọng đến con số 9 vì cho đó là con số hoàn hảo.
Nhìn lại các năm có con số 9 là các năm trong nước Việt Nam có nhiều biến cố lớn: 1945 (4+5), 1954 (5+4), 1963 (6+3), 1972 (7+2)… Nhưng nếu cọng 4 số của năm đó thì không phải là con số 9. Chỉ có năm 2016 sắp đến mới có con số 9 hoàn hảo (2+0+1+6=9) mà năm đó là năm Bính Thân nên người ta tin rằng năm Bính Thân (2016) và năm Đinh Dậu (2017) thì sẽ ứng nghiệm lời Sấm của Trạng Trình.
Trong Kinh Thánh của người Do Thái và người Ki-tô giáo (Christian) thì con số 9 là con số đầy huyền bí và được xem là con số hoàn hảo nhất…
Năm Bính Thân (2016) nầy, Việt Nam cũng như Mỹ có nhiều biến cố quan trọng: việc thi hành hiệp định TPP (đối tác thương mãi Thái Bình Dương) mà Việt Nam đã ký kết trong đó quy định những điều kiện phải thi hành để được tham gia TPP.
Người ta hy vọng, TPP sẽ mở ra cho Việt Nam một con đường sống, tạo công ăn việc làm cho mấy chục triệu người, vốn đầu tư ngoại quốc vào Việt Nam kèm theo đầu tư kỹ thuật và hàng hóa sản xuất của Việt Nam sẽ được lưu thông miễn thuế trong 12 nước tham gia TPP… Việt Nam cam kết sẽ cho thành lập công đoàn tự do để bảo đảm đời sống của giới công nhân lao động theo luật lệ của các nước tự do (tư bản).v.v.  Hy vọng Việt Nam sẽ chuyển hướng từ bỏ chế độ độc tài, thực hiện các quyền tự do dân chủ cho dân… xã hội Việt Nam sẽ thay đổi, dân Việt Nam sẽ thoát Trung để tự lực, tự cường, bảo vệ nhân quyền và nên độc lập của mình. Đại Hội lần thứ XII của Đảng Cộng Sản VN sẽ chọn lãnh đạo mới và chủ trương chính sách mới cho phù hợp với tình thế mới. Năm 2016 nầy, Hoa Kỳ cũng sẽ có lãnh đạo mới và chính sách mới sau cuộc bầu cử Tổng Thống vào 11/2016 nầy. Thế giới cũng sẽ có nhiều thay đổi mới, nhất là các nước Tây phương sẽ liên minh với nhau để đối phó với nạn khủng bố dã man nhất từ trước tới nay do phe Hồi giáo quá khích chủ trương, v.v.  Chờ xem tương lai sẽ diễn tiến như thế nào?
      Nghiên cứu sử sách từ xưa để lại, nhất là các pho cổ sử Viết bằng chữ Hán của nước ta như:
-Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên (đời nhà Lê);
-Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn;
-Đại Nam Thực Lục Chính Biên và Tiền Biên của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn;
-Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên và Chính Biên của Quốc Sử Quán nhà Nguyễn;
-Đại Nam Nhất Thống Chí và các tác phẩm khác,v.v...
     Chúng tôi ghi nhận một số biến cố xảy ra trong nước Việt Nam ta từ đầu thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ 20 như sau:
     Năm Giáp Thân (264) Tháng 7 mùa Thu, nhà Ngô (Ngô Tôn Quyền thời Tam Quốc) chia đất Giao Châu, đặt ra Quảng Châu. Năm ấy, nhà Ngô cắt ba quận Nam Hải, Thương Ngô và Uất Lâm đặt làm Quảng Châu, châu lỵ ở Phiên Ung; Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố làm Giao Châu, châu lỵ ở Long Biên. Việc chia ra Giao Châu và Quảng Châu bắt đầu từ đấy.
     Canh Thân (420), Đỗ Tuệ Độ đánh Lâm Ấp (tức nước Chiêm Thành), Lâm Ấp phải hàng.  Tuệ Đô là quan của nhà Tống cai trị đất Giao Châu, là người làm việc cẩn thận chu đáo, dựng trường dạy học, bài xích các thói tục dị đoan. Các quan lại và nhân dân ai cũng kính nể.


    Mậu Thân (768), nhà Đường đặt nước ta làm An Nam Đô Hộ Phủ. Tháng Tư, Phùng Hưng, người Đường Lâm thuộc Phong Châu, vốn là nhà hào phú, lại có sức khỏe, có thể vật nổi trâu, đánh được hổ. Khoảng năm Đại Lịch (766-779) nhà Đường, nhân thời buổi loạn lạc, Phùng Hưng cùng với em là Phùng Hải đem quân chiếm được các ấp láng giềng, tự xưng là Đô Quân; Phùng Hưng là Đô Bảo. Quan đô hộ nhà Đường là Cao Chính Bình, đánh thuế nặng, dân oán trách. Phùng Hưng đem quân vây phủ. Cao Chính Bình lo sợ mà chết. Dân chúng tôn Phùng Hưng làm Bố Cái Đại Vương.
  Giáp Thân (864), Quân Nam Chiếu (tức nước Đại Lý ở vùng Vân Nam) đánh cướp Ung Châu, quan quân nhà Đường bị thiệt hại nặng. Nhà Đường cho Trương Nhân chỉ huy vạn quân sang thay Thừa Huấn để chỉnh đốn lại mọi việc và tiến đánh người Nam Chiếu, lấy lại các thành đã mất.
   Nhâm Thân (972), vua Đinh Tiên Hoàng (Đinh Bộ Lĩnh) sai con là Đinh Liễn (Nam Việt Vương) sang sứ nhà Tống. Nhà Tống sai sứ sang phong cho vua Đinh Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương, tờ sắc phong có nói rõ: “được cầm binh quyền, tự chủ trong việc đánh dẹp ở phương xa”. Như thế, sau 1000 năm bị Trung Quốc đô hộ, lần đầu tiên, vua Trung Quốc đã phong vương cho vua nước ta. Vì thế, sử sách của ta gọi Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Tiên Hoàng.
   Giáp Thân (984): Vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) cho “xây cung điện ở núi Đại Vân, trang sức bằng vàng bạc, dùng làm nơi vua coi chầu. Phía Đông là điện Phong Lưu; phía Tây là điện Tử Hoa; bên tả là điện Bồng Lai; bên hữu là điện Cực Lạc. Lại làm lầu Đại Vân và điện Trường Xuân làm chỗ ngự tẩm (nơi vua ở). Bên điện Trường Xuân dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc.” (Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục)
     Bính Thân (996) vua Lê Đại Hành cho sứ sang nhà Tống dàn xếp về vấn đề biên giới. Nguyên nhà vua thường dung túng cho dân nơi biên giới lấn cướp bờ cõi nhà Tống. Quan nhà Tống ở Quảng Tây là Trương Quan báo cáo việc đó cho vua Tống, nhưng vua Tống có ý bỏ qua, không muốn gây chuyện để vỗ về dân ở biên giới. Vì thế vua Lê Đại Hành sai sứ sang nhà Tống để trình bày mọi việc. Vua Tống bênh vua nước ta mà cách chức Trương Quan, cho Trần Nghiêu Tẩu làm Quảng Tây chuyển vận sứ. Vua Tống còn cho sứ là Lý Nhược Chuyết đem tờ chiếu và đai ngọc sang ban cho vua nước ta.
     Mậu Thân (1009) vua Lê Long Đĩnh ra lệnh đào sông, mở mang đường sá và dựng đồn ở Ái Châu (Thanh Hóa). Tháng 7, nhà vua đem quân đi đánh dẹp giặc giã ở châu Hoan (Nghệ An). Tháng 10, vua mất, ở ngôi 4 năm, thọ 24 tuổi. Sử chép “nhà vua hoang dâm, tửu sắc, dần mắc bệnh trĩ, nằm mà coi triều, nên người ta gọi là “Ngọa Triều”. Lý Công Uẩn lên làm vua, lập ra nhà Lý, tức Lý Thái Tổ.
Lý Công Uẩn, người làng Cổ Pháp, tỉnh Bắc Giang, con nuôi của nhà sư Vạn Hạnh.  Lý Công Uẩn được làm Điện Tiền chỉ huy sứ. Khi Lê Long Đĩnh mất, nhờ hậu thuẫn của Sư Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn được triều đình suy tôn lên làm vua, lập ra nhà Lý.
    Canh Thân (1020), tháng Chạp, vua Lý Thái Tổ sai con là Thái tử Lý Phật Mã đem quân đi đánh Chiêm Thành ở vùng Bố Chính (Quảng Bình), chém được tướng Chiêm là Bố Lệnh. Chiêm Thành vào thời nhà Đường cũng có tên là nước Lâm Ấp.
    Nhâm Thân (1032) dưới thời vua Lý Thái Tông (Lý Phật Mã), nhà vua đích thân đi cày ruộng tịch điền để khuyến khích nông nghiệp.
    Giáp Thân (1105) tháng 6, danh tướng Lý Thường Kiệt mất. Ông là người họ Nguyễn được vua ban cho họ Lý. Ông làm quan trải ba triều vua nhà Lý, có công phá tan quân Tống và bình định Chiêm Thành, được vua yêu quý và phong tặng chức Thái Úy là tước lớn nhất trong triều đình. Khi chết, ông được phong “Kiểm Hiệu Thái Úy Bình Chương Quân Quốc Trọng Sư: Việt Quốc Công” và được lập miếu thờ.
    Mậu Thân (1128), vua Lý Nhân Tông mất năm trước, thái tử Lý Dương Hoán lên nối ngôi tức Lý Thần Tông, niên hiệu Thiên Thuận năm thứ nhất. Nhân nước Chân Lạp đem hơn hai vạn người vào đánh cướp ở Nghệ An. Tháng Tám, vua sai Nguyễn Hà Viêm và Dương Ổ đem quân ở Thanh Hóa đi đánh dẹp, quân địch thua trận phải rút lui.
    Giáp Thân (1164), tháng Bảy, nhà Tống sai sứ sang phong cho vua Lý Anh Tông làm An Nam Quốc Vương và đổi Giao Chỉ làm An Nam Quốc.
    Bính Thân (1176) vua Lý Cao Tông đổi niên hiệu là Trinh Phù năm thứ nhất.
    Canh Thân (1200), trong nước mất mùa, dân đói. Vua ra lệnh đem thóc lúa phát cho dân nghèo (gọi là phát chẩn).
     Nhâm Thân (1212): Trong nước có loạn, vua sai Đoàn Thượng đi đánh dẹp. Đoàn Thượng chiêu mộ người ở Hồng Châu, tự ý làm nhiều điều trái phép bị các quan lên tiếng buộc tội. Nhân đó, Đoàn Thượng làm phản, chiếm vùng Hồng Châu, tự xưng làm vua, chống lại triều đình.
     Giáp Thân (1224). Vua Lý Huệ Tông truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng.  Trước đây nhân thời loạn lạc, kinh thành bị cướp phá, vua phải chạy về Hải Dương và gia đình Trần Lý đã đem con cháu và người nhà bảo vệ vua, đánh được giặc Đoàn Thượng, đưa vua trở lại Thăng Long. Vua lập con gái họ Trần làm Hoàng Hậu, bà nầy sinh được hai người con gái, người con gái thứ hai là Phật Kim được phong làm Chiêu Thánh công chúa và được vua truyền ngôi cho tức Lý Chiêu Hoàng. Vua Lý Huệ Tông lên làm Thái Thượng Hoàng và ra ở riêng tại chùa Chân Giáo. Trần Thủ Độ làm Thái Sư cho cháu là Trần Cảnh vào hầu vua rồi sau trở nên chồng của Lý Chiêu Hoàng. Tháng Chạp năm đó Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh tức Trần Thái Tông (lập ra nhà Trần). Trần Thủ Độ giết Thái Thượng Hoàng nhà Lý là Lý Huệ Tông...
    Thân (1248), vua Trần ra lệnh cho các địa phương đắp đê Đỉnh Nhĩ (tục gọi là đê tai vạc) từ đầu nguồn đến bãi bể; đặt chức Hà Đê chánh sứ và phó sứ để trông coi.
     Canh Thân (1260) vua Mông Cổ là Hốt Tất Liệt lên ngôi, tức Thế Tổ nhà Nguyên, đem quân đánh nhà Tống (Trung Quốc).
     Nhâm Thân (1272), sử gia Lê Văn Hưu vâng lệnh ghi chép lịch sử nước ta từ Triệu Đà đến Lý Chiêu Hoàng, lấy tên sách là Đại Việt Sử Ký, tất cả 30 quyển.  Vua ra lệnh cho in thành sách để phổ biến trong nước. Tháng 4, nhà Nguyên sai tướng Ngột Lương (tức Ngột Lương Hợp Thai) sang hỏi cột mốc biên giới thời Mã Viện. Vua nhà Trần sai Lê Kính Phu đi họp với tướng nhà Nguyên về vấn đề nầy.  Người nhà Tống thua trận, chạy sang nước ta, xin gia nhập quân đội nước ta. Vua Trần chấp thuận và cho họ ở phường Giai Tuân ngoài kinh thành.
    Giáp Thân (1284), Tháng Tám, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tổ chức cuộc duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu, rồi chia quân ra đóng giữ ở Bến Than và các nơi xung yếu để chống quân xâm lược nhà Nguyên (quân Mông Cổ). Tháng 11, quân Nguyên họp nhau ở Hồ Quảng, chuẩn bị sang đánh nước ta. Vua Trần Anh Tông cho Trần Phủ sang gặp quân Nguyên xin hoãn binh, nhà Nguyên không cho. Thái tử Thoát Hoan của nhà Nguyên nói là mượn đường đi đánh Chiêm Thành, thực ra là đem quân xâm phạm nước ta. Vua Trần cho triệu tập thân hào nhân sĩ trong nước đến điện Diên Hồng để hỏi mưu kế chống giặc. Các kỳ lão đều tâu: “Phải đánh!” Tháng Chạp, quân Nguyên tiến vào nước ta. Quân ta thua, vua Trần phải chạy sang Hải Đông. Trần Hưng Đạo họp quân các nơi về ở Vạn Kiếp, dưới quyền tiết chế của Trần Hưng Đạo, chia quân đóng ở Bắc Giang để chống cự.
     Bính Thân (1296). Luật nhà Trần nghiêm cấm đánh bạc. Nguyễn Hưng, tước thượng phẩm, có tội, vua ra lệnh đánh cho đến chết.
     Mậu Thân (1308). Thái Thượng Hoàng (Trần Nhân Tông) xuất gia, ở am Ngọa Vân, núi Yên Tử, tự hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ, qua đời vào tháng 11 năm Mậu Thân dưới đời Trần Anh Tông.
     Canh Thân (1320), tháng 3, Thượng Hoàng (Trần Anh Tông) mất. Ngài là vị vua đã triệu tập Hội Nghị Diên Hồng và đã ủy thác cho Trần Hưng Đạo chỉ huy toàn quân đánh thắng được quân Nguyên (Mông Cổ). Ngài gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chiêm Thành là Chế Mân để đổi lấy đất châu Ô, châu Lý (bây giờ là Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam). Sau một thời gian làm vua, ngài nhường ngôi cho con là Trần Minh Tông (1314), rồi lên làm Thái Thượng Hoàng.
Tháng 11, năm Canh Thân (1320), Thượng Tướng Phạm Ngũ Lão mất, thọ 66 tuổi.  Ông là bậc danh tướng nhà Trần và cũng là người đạo đức được mọi người kính trọng, sau khi chết, được nhân dân lập đền thờ.
     Nhâm Thân (1332): dưới thời Trần Hiến Tông, Thuận Thánh Bảo Từ Hoàng Thái Hậu là mẹ vua mất. Vua sai các quan chọn ngày lành để an táng. Có người tâu rằng “năm nay an táng không có lợi cho tế chủ (vua)...” Thượng Hoàng là Trần Minh Tông sai người hỏi lại người ấy rằng: “Ta tất nhiên không chết à?” Người ấy thưa rằng: “Điều ấy tôi không dám biết”. Thượng Hoàng nói: “Nếu ta không tránh khỏi chết, thì lo việc tang mẫu hậu cho xong xuôi, chả còn hơn để khỏi chết uổng hay sao? Này, việc vui mừng, việc buồn rầu, theo điển lễ phải chọn ngày, là để cho việc được trịnh trọng đấy thôi, chứ có phải như thuyết nhà âm dương câu nệ về việc họa phúc đâu?” Bèn cử hành lễ hợp táng.
Tháng 7 năm Nhâm Thân (1332), vua bổ nhiệm Nguyễn Trung Ngạn lo việc xét xử.  Những người bị can không ai bị oan uổng hoặc bị xử quá đáng. Nhà vua tỏ ý khen ngợi. Nguyễn Trung Ngạn là gương sáng cho những người làm công việc xét xử tại Tòa Án vậy.
    Giáp Thân (1344), Tháng Hai, người huyện Trà Lương là Ngô Bệ họp đồng bọn đi cướp phá ở vùng Yên Phụ. Vua cho quân đi bắt, bọn chúng tan rã. Trần Hiến Tông (Thượng Hoàng) mất đã bốn năm, đến tháng Tám năm Giáp Thân ( 1344) mới làm lễ an táng. Theo luật thì sau khi vua mất trong vòng 7 tháng thì làm lễ an táng.  Đây là trường hợp ngoại lệ. Năm nầy, trong nước mất mùa đói kém, nhân dân nhiều người vô chùa hoặc đi làm gia nô cho các nhà giàu để sống.
     Bính Thân (1356), Tháng Ba, vua Trần Dụ Tông rước Thượng Hoàng Trần Minh Tông đi tuần nơi biên giới đến tận Nghệ An. Tháng 8, Thượng Hoàng đau nặng, tháng Hai năm sau (1357), Thượng Hoàng mất, ở ngôi 15 năm, nhường ngôi 28 năm. Thọ 58 tuổi. Ngài là người rất nhân từ và công bằng chính trực, được gọi là người hiền.  Khi gần chết, mọi người dâng thuốc, ngài không uống. Các hoàng tử đến gần, ngài bảo: “Cứ xem việc làm của cổ nhân mà bắt chước, điều hay thì bắt chước, điều dở thì tránh xa, chứ cần gì phải phiền cha dạy bảo”....
     Canh Thân (1380), Tháng Hai, vua Chiêm Thành là Chế Bồng Nga, đánh vào Nghệ An, Thanh Hóa. Tháng 5, Hồ Quý Ly đem quân đánh bại Chiêm Thành ở Ngưu Giang.
      Nhâm Thân (1392) dưới thời vua Trần Đế Hiện (lên ngôi năm 1377), Hồ Quý Ly làm Thái Sư, chuyên quyền và mưu chiếm ngôi nhà Trần. Trần Nhật Chương biết rõ việc đó nên lập mưu giết Hồ Quý Ly, việc bất thành nên bị đem ra xử tử. Vua ban cho Hồ Quý Ly họ Lê. Tháng 4 năm đó, vua hạ chiếu trưng cầu lời nói trung thực. Bùi Mộng Hoa dâng sớ hạch tội Hồ Quý Ly và báo động cho vua Trần biết:
“Quý Ly đang dòm ngó ngai vàng nhà Trần.” Thượng Hoàng đem việc đó cho Hồ Quý Ly biết. Sau này, khi Hồ Quý Ly nắm trọn quyền hành trong nước thì Bùi Mộng Hoa trốn vào trong núi ẩn dật, không ra làm quan. Con Hồ Quý Ly là Hồ Hán Thương lên ngôi vua năm 1403 (Tân Mùi).
     Giáp Thân (1404), con của Hồ Quý Ly là Hồ Hán Thương lên làm vua, đặt Hồ Quý Ly làm Thái Thượng Hoàng, sai sứ sang nhà Minh. Nguyên người Chiêm Thành dâng nước ta hai thớt voi để xin hòa. Về sau, Chiêm Thành lại tâu với nhà Minh là nước ta đòi hỏi Chiêm Thành phải nộp hai thớt voi rồi lấy voi đó làm lễ cống cho nhà Minh. Nhà Minh biết tình hình nước ta, nhà Hồ mới cướp ngôi nhà Trần nên kiếm cớ, cho sứ sang hỏi. Hồ Hán Thương sai Phan Hòa Phủ đem hai con voi của Chiêm Thành dâng, nộp cho nhà Minh. Trong nước, Hồ Hán Thương cho mở khoa thi, cứ ba năm một lần thi Hương, năm sau thi Hội. Có 170 người trúng tuyển thi Hương, chưa kịp thi Hội thì quân Minh sang xâm lấn nước ta, nên thôi không thi nữa. Ngoài ra nhà Hồ cũng tổ chức tuyển lính và củng cố lại quân đội, đóng thuyền chiến, trên thuyền có thể đi lại được, đào cảng từ Tân Bình đến giáp giới Thuận Hóa, nhưng không thành công. Trần Khang tự xưng là Trần Thiêm Bình, nói dối là con của Trần Nghệ Tông, trốn sang Trung Quốc tố cáo Hồ Quý Ly bạo nghịch, cướp ngôi nhà Trần. Vua nhà Minh sai Lý Kỳ sang nước ta tra hỏi, xem xét tình hình rồi trở về báo cáo mọi chuyện cho nhà Minh biết. Vì thế năm 1406, nhà Minh viện cớ đó cho quân sang chiếm nước ta.
     Bính Thân (1416), nước ta bị nhà Minh cho quân xâm chiếm, bọn quan nhà Minh tha hồ vơ vét, bắt dân phải đóng thuế nặng, khai thác tài nguyên mặt biển và rừng để làm giàu và dâng nộp cho vua nhà Minh. Vua nhà Minh ban khen bọn Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung và cho chúng làm quan Tham Chính. Riêng Nguyễn Huân được làm Bố Chính Sứ là chức quan lớn có trách nhiệm tham dự bàn bạc việc triều chính.


     Mậu Thân (1428), từ 1418-1427, Lê Lợi khởi nghĩa, kháng chiến chống quân Minh trong 10 năm gian khổ, đã đánh đuổi được ngoại xâm, giành độc lập cho dân tộc.  Năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi (Lê Thái Tổ), lên ngôi lấy niên hiệu Thuận Thiên, lập ra nhà Hậu Lê. Lúc đầu kháng chiến, Lê Lợi lập Trần Cao (tự xưng con cháu nhà Trần) lên làm vua để dùng danh nghĩa nhà Trần gởi thư cho nhà Minh... Nhưng đến khi Lê Lợi chiến thắng quân Minh rồi, Trần Cao lo sợ, thấy mình không có công lao gì, bèn bỏ trốn rồi bị bắt. Cao uống thuốc độc chết. Sau khi thắng quân Minh, nhà vua sai Nguyễn Trãi viết bài Bình Ngô Đại Cáo, công bố chiến thắng cho toàn dân biết. Khi lên ngôi, 1428, Lê Thái Tổ lập trường học, ban thưởng cho công thần, ghi tên những người có công lao vào sử sách, cho những người có công được mang quốc tính (họ vua tức họ Lê). Tháng 3, vua sai sứ sang nhà Minh xin phong vương cho Trần Cao (con cháu nhà Trần). Nhưng khi sứ nhà Minh đến nơi thì Trần Cao đã chết, sứ nhà Minh là Lý Kỳ bèn trở về. Lê Thái Tổ sai sứ sang cám ơn nhà Minh và báo cáo việc Trần Cao chết. Vua ban cho Nguyễn Trãi tước Quan phục hầu; Trần Nguyên Hãn làm Tả tướng quốc, Phạm Văn Xảo làm Thái Úy. Đó là 3 người giữ chức vụ lớn nhất trong triều đình và được ban quốc tính. Các tướng đã hy sinh vì tổ quốc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh như Lê Thạch, Lê Lễ, Lê Triện... đều được phong tước và lập miếu thờ. Vua cho tổ chức lại việc hành chánh, nội trị, giáo dục, binh bị, luật lệ...
Nhà Minh vẫn chủ trương lập con cháu nhà Trần và đòi ta phải trả lại cho họ số quan lại và quân lính đã bị ta bắt và số võ khí đã bị giữ lại. Tháng 10, vua sai Hà Lật và Đỗ Như Hùng sang nhà Minh đem người vàng (thay mạng Liễu Thăng, tướng nhà Minh bị ta giết) và sản vật địa phương sang biếu nhà Minh. Sứ bộ của ta tâu lên vua Minh rằng, con cháu nhà Trần không còn ai nữa. Vua cho các quan và thân hào nhân sĩ trong nước cùng ký tên xác nhận con cháu nhà Trần không còn ai và đồng lòng suy tôn Lê Lợi lên làm vua nước ta. Vua cũng xin trả hết số quan và lính nhà Minh bị bắt cùng khí giới ta tịch thu được của họ. Vua cũng đòi nhà Minh trả lại người con gái của vua bị Mã Kỳ bắt và đem sang Trung Quốc khi mới 9 tuổi. Nhà Minh trả lời người đó đã chết vì bệnh đậu mùa. Riêng bọn Trần Phong và Lương Nhữ Hốt là người nước ta, theo làm quan cho nhà Minh, bị bắt. Vua đã tha tội chết cho chúng. Nhưng chúng còn gởi thư cho nhà Minh, xin đem quân qua đánh nước ta và xin làm nội ứng. Vì thế chúng bị xử tử.
Tháng Tư năm Mậu Thân (1428) vua lên ngôi ở Đông Dô (Hà Nội), niên hiệu Thuận Thiên, đặt tên nước là Đại Việt. Vua ở ngôi được 6 năm thì mất (1433), thọ 49 tuổi. Con là Lê Nguyên Long lên nối ngôi tức Lê Thái Tông. 
      Canh Thân (1440), vua Lê Thái Tông hạ chiếu cho quần thần cứ thẳng thắn bàn về những chính sự trong nước còn thiếu sót. Chiếu rằng: “Đại thần và bách quan văn võ ăn lộc của vua, nên lo điều lo của vua. Phàm những chính sự và mệnh lệnh nếu có hại cho quân và dân, những việc làm của trẫm (vua) lỡ có điều gì không thích đáng, thì ai nấy đều nên tranh luận cho rõ ràng, can ngăn cho vỡ vạc, giúp đỡ cho những điều trẫm không nghĩ tới. Như thế thì, từ trước đến sau, vua và tôi mới giữ toàn vẹn được công danh sự nghiệp, cùng nhau chung hưởng vinh hiển. Há chẳng tốt lắm sao?”. Vua lập Nghi Dân làm Thái tử để nối ngôi. Vua thân hành đem quân đi đánh dẹp loạn lạc trong nước, giết thổ tù Hà Lai ở châu Thu Vật. Tên Nghiễm, thổ tù ở Thuận Mỗi, nổi loạn, cũng xin hàng.
     Nhâm Thân (1452), dưới thời Lê Nhân Tông, (lên ngôi, 1443), vua sai sứ sang nhà Minh chúc mừng việc Minh Cảnh Đế (1450-1456) lập Hoàng Thái Tử. Vua Lê Thái Tông mất sớm, vua Lê Nhân Tông nối ngôi khi còn nhỏ tuổi. Đến tháng 11 năm Nhâm Thân (1452) mới chính thức cầm chính quyền. Vua đổi lại niên hiệu là Diên Ninh (1454) và đại xá cho cả thiên hạ, tặng thưởng cho các công thần...
      Giáp Thân (1464), dưới thời vua Lê Thánh Tông (lên ngôi 1460), ra lệnh hủy bỏ án “tru di tam tộc” cho Nguyễn Trãi, phục hồi danh dự và quyền lợi cho con cháu. Trong vụ án vua Lê Thái Tông chết bất đắc kỳ tử tại nhà Nguyễn Trãi, triều đình quy tội giết vua cho Thị Lộ và Nguyễn Trãi bị án “tru di tam tộc”. Người vợ bé của ông là Phạm Thị, lúc đó đang có thai, trốn vào xứ Bồn Man (ở với người thiểu số), sinh ra Nguyễn Anh Vũ. Về sau Nguyễn Anh Vũ đi thi đậu hương cống (cử nhân). Đến nay vua Lê Thánh Tông ra lệnh hủy bỏ án cho Nguyễn Trãi vì bị tội oan và cấp trả 100 mẫu ruộng tự điền lại cho con cháu, hạ chiếu lục dụng con cháu Nguyễn Trãi. Nguyễn Anh Vũ được bổ nhiệm chức Đồng Tri Châu. Vua sai sứ sang nhà Minh mừng việc Minh Hiến Tông lên ngôi. Vua trừng phạt những quan nào can tội tham nhũng và ban thưởng cho con cháu các công thần.
     Bính Thân (1476), vua nhà Minh sai sứ sang khuyên vua Lê Thánh Tông trả lại đất đai cho Chiêm Thành. Theo sử nhà Minh, vua Lê sai sứ sang tâu nói: “Chiêm Thành không phải là đất màu mỡ gì, lấy được đất nước ấy không thể ở được, bắt được dân nước ấy không thể sai khiến được. Nay vâng tờ minh chiếu bảo tôi trả lại đất đai cho nước ấy, vậy xin bệ hạ sai sứ thần của triều đình sang vạch rõ lại giới mốc đất đai, để cho dân ở biên cảnh hai nước được yên nghỉ, như thế tôi rất lấy làm mãn nguyện”.
     Mậu Thân (1488), Vua thấy trong nước hạn hán mất mùa, nghĩ rằng việc cai trị dân có điều bất công nên ra lệnh cho các quan lo việc xét xử phải giải quyết án lệnh cho dứt khoát: việc kiện nhỏ thì phải giải quyết trong vòng 5 ngày; việc lớn thì phải xét xử trong vòng 10 ngày, không được bê trễ.
    Vua cho sứ sang nhà Minh để giải quyết một số việc giữa nước ta và Trung Quốc. 
   -Sau khi quân ta chiếm được nước Chiêm Thành, con cháu vua Chiêm là Cổ Lai đem gia quyến chạy sang Trung Quốc. Vua Hiến Tông nhà Minh sai đưa Cổ Lai về nước, lập làm quốc vương, rồi gởi thư cho vua Lê Thánh Tông, buộc phải chấp nhận việc đó.
   -Hiến Tông nhà Minh mới lên ngôi, sai sứ sang báo tin cho vua nước ta và ban cho vua Lê lụa hoa. Vì thế vua Lê Thánh Tông mới cho sứ bộ sang nhà Minh chúc mừng và nói rằng vì Chiêm Thành quấy nhiễu ngoài biên giới nước ta nên ta phải đem quân trừng phạt chúng. Vua đồng ý trả lại đất cho Chiêm Thành.
    Canh Thân (1500), vua Lê Thánh Tông mất, Lê Hiến Tông nối ngôi, sai sứ sang nhà Minh báo tang và xin phong vương. Vua Minh sai Từ Ngọc và Lương Trừ sang phong vương cho Lê Hiến Tông. Vua Lê thân hành đón sứ nhà Minh tại trạm Lữ Côi.  Khi bọn Từ Ngọc và Lương Trừ ra về, vua cho đem vàng bạc lụa hoa để tặng và tiễn đưa. Sứ nhà Minh không nhận. Vua làm thơ để tiễn đưa. Sau đó, vua cho sứ thần là Nguyễn Duy Trinh, Lê Lan Hinh và Nguyễn Nho Tôn qua nhà Minh tạ ơn.
     Nhâm Thân (1512), thời suy tàn của nhà hậu Lê, từ năm 1510, Lê Tương Dực giết Lê Uy Mục, lên nối ngôi. Khi sứ nhà Minh đến phong vương cho Lê Tương Dực, có nhận xét như sau:  “Quốc vương dung mạo đẹp nhưng lệch mình, tính đa dâm, trông như tướng con lợn, chả bao lâu nữa sẽ bị loạn vong”. Sau đó, quả thật có nhiều biến cố xảy ra. Trong nước nhiều loạn lạc, các tướng tranh chấp, đem quân đánh nhau. Trần Cao nổi loạn xâm phạm kinh thành... Trịnh Duy Sản giết vua, lập vua mới. Mạc Đăng Dung đem quân đi đánh dẹp, lập em vua tên là Xuân lên ngôi tức Lê Cung Hoàng, để thao túng triều đình... Về sau Mạc Dăng Dung cướp ngôi nhà Lê năm 1527.
      Giáp Thân (1524): Mạc Dăng Dung tự phong làm Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Thái Phó, Nhân Quốc Công.
      Bính Thân (1536): Vua Lê ở Thanh Hóa sai Trịnh Duy Liễu đi ngã Lào qua Trung Quốc báo cáo tình hình nước ta cho nhà Minh. Không thấy Liễu trở về, vua lại sai Trịnh Viễn đi sang nhà Minh. Khi Viễn đi đến Vân Nam thì gặp quan nhà Minh là Đào Phượng Nghi, ông liền trình bày việc họ Mạc cướp ngôi nhà Lê và thỉnh cầu nhà Minh đem quân sang hỏi tội nhà Mạc. Vua Minh trao việc nầy cho triều đình xét. Bộ Lễ và Bộ Binh đều nói: “Mạc Đăng Dung có mười tội lớn không thể không đánh được”.
      Mậu Thân (1548): Tháng Giêng, vua Lê Trang Tông mất ở Thanh Hóa, thái tử Lê Duy Huyên lên nối ngôi tức Lê Trung Tông.
      Canh Thân (1560): Bấy giờ Trịnh Kiểm đem quân ra đánh ở các xứ Kinh Bắc (Bắc Ninh) Sơn Tây rồi lại đánh ra các tỉnh phía Đông. Vua nhà Mạc là Mạc Phúc Nguyên phải chạy đi Thanh Đàm. Trịnh Kiểm sai Hoàng Đình Ái giữ Lạng Sơn, Lê Khắc Thận giữ Thái Nguyên, Vũ Văn Mật đi đánh Tuyên Quang, Đặng Định về giữ Hưng Hóa. Dân chúng ủng hộ nhà Lê, đem thóc gạo tiếp tế cho quân Trịnh. Năm nầy được mùa to, Trịnh Kiểm hạ lệnh cho vùng Kinh Bắc gặt lúa để cung cấp cho quân đội.
      Nhâm Thân (1572): Nguyên vào năm 1570, Trịnh Kiểm mất, trao quyền cho con trưởng là Trịnh Cối. Trịnh Tùng bắt vua Lê đem vào Nghệ An rồi nhân danh vua, chống lại Trịnh Cối. Mạc Kính Điển (chú của vua Mạc Mậu Hợp) được tin liền đem quân đánh Thanh Hóa. Trịnh Cối lưỡng đầu thọ địch, nên đã đầu hàng nhà Mạc.  Tướng nhà Lê là Lập Bạo (ở Bố Chính) đem quân đầu hàng mạc và được trao cho chỉ huy quân đội vào đánh Thuận Hóa. Lập Bạo đem 60 chiến thuyền đi đường biển vào đóng ở đền Thanh Tương, xã Lãng Uyển. Nguyễn Hoàng đóng quân ở bờ sông Ái Tử (sông Thạch Hãn) thuộc tỉnh Quảng Trị. Ban đêm nghe trên sông có tiếng “trảo trảo” lấy làm lạ, bỗng nằm mộng thấy một người đàn bà mặc áo xanh đến trước mặt thưa rằng:“ Tướng quân nên dùng mỹ kế để thắng giặc”. Nguyễn Hoàng hiểu ra “mỹ kế” là “mỹ nhân kế”, bèn dùng người hầu gái tên là Ngô Thi Ngọc Lâm (hay Trà) đi liên lạc với Lập Bạo, hẹn gặp gỡ bên bờ sông. Lập Bạo nghe theo.  Nguyễn Hoàng liền dựng lều tranh và cho võ sĩ đào hầm mai phục... Lập Bạo đến, bị trúng kế, bèn bỏ chạy ra bờ sông định tẩu thoát nhưng không kịp. Ông bị quân của Nguyễn Hoàng bắn chết. Nguyễn Hoàng bắt được hơn 5000 lính của Lập Bạo cho lập nghiệp ở vùng đất đỏ Gio Linh gọi là Bát Phường (ở giữa Khe Sanh và sông Bến Hải, hướng Tây Bắc tỉnh Quảng Trị). Số lính thua trận còn lại không bị bắt, đã trốn tránh ở vùng Hồ Xá và lập ra đảng cướp. Nơi đó gọi là “Truông Nhà Hồ”...
      Giáp Thân (1584): Tháng Hai, Trịnh Tùng đem quân đánh ra Trường An. Tháng 10, hai huyện Thụy Nguyên và An Định ở Thanh Hóa bị động đất.
      Bính Thân (1596): Tháng Giêng, Tướng của nhà Lê là Phan Ngạn, trấn thủ Hải Dương đánh thắng quân Mạc, bắt được Mạc Kính Chương ở Vạn Ninh. Năm đó, bầy tôi của nhà Mạc bại trận qua báo cáo với nhà Minh rằng “Người cầm đầu cai trị ở nước ta lúc đó là Trịnh Tùng chứ không phải con cháu nhà Lê” Vì thế, vua nhà Minh cho sứ đến biên giới và đòi vua Lê phải đến gặp họ để chứng minh... Tháng Hai, vua phải thân hành lên Trấn Nam Quan (ải) mang theo hình dạng hai quả ấn: một là hình dạng ấn An Nam Đô Thống Sứ Ty của nhà Mạc và một là hình dạng ấn An Nam Quốc Vương ngày trước, kèm theo 100 cân vàng, 1000 lạng bạc với mấy chục người kỳ mục trong nước. Các tướng của ta là Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu, Nguyễn Hoàng (chúa Nguyễn) và Trịnh Đỗ (Thái Phó) đem hơn một vạn quân và voi đi theo hộ tống vua cùng hội họp với quan nhà Minh. Bên nhà Minh đưa ra nhiều yêu sách khác như đòi phải có tượng người bằng vàng... và không chịu đến hội họp. Vua đợi lâu không được nên tháng Ba, phải trở về. Năm đó, trong nước xảy ra hạn hán, sao chổi xuất hiện, nước ở sông ngòi sôi vọt lên...  Vua sai cầu đảo thì trời mưa.  Tháng 11, Phạm Hàng ở Sơn Nam nổi loạn, vua sai Bùi Văn Khuê đem quân đi đánh, giết được Hàng.
       Mậu Thân (1608) Trong nước đại hạn, khắp nơi, dân bị đói to.
       Canh Thân (1620): Trịnh Tùng nắm hết quyền hành, coi vua Lê Kính Tông không ra gì. Vua bèn âm mưu với Trịnh Xuân, con Trịnh Tùng, tổ chức ám sát Trịnh Tùng.  Việc bất thành, Trịnh Xuân bị bắt. Tùng sai người bắt giam vua Lê Kính Tông rồi bức tử vua và phao tin vua tự thắt cổ chết. Việc xẩy ra vào tháng Năm năm Kỷ Mùi (1619). Tháng 6 năm Kỷ Mùi (1619), Trịnh Tùng lập con trưởng của vua là Lê Duy Kỳ lên ngôi tức Lê Thần Tông. Qua tháng Giêng năm Canh Thân (1620), vua Lê Thần Tông đi tế Nam giao.
      Giáp Thân (1644). Đời vua Lê Chân Tông (lên ngôi năm 1643), tháng Chạp, Trịnh Tạc đem quân đánh dư đảng nhà Mạc là Mạc Kính Hoàn tại Cao Bằng, chém tỳ tướng Mạc, bắt được đồ đảng họ Mạc rồi kéo quân về.
Tháng Tư, Thế tử Dũng Lễ Hầu Nguyễn Phúc Tần đánh tan đoàn thuyền của người Hòa Lan ở cửa Eo, đốt cháy thuyền, thuyền trưởng tự tử, chỉ có một chiếc thoát nạn về tới Batavia. Chiến thắng nầy vang dội, khiến cho người Âu Châu phải kiêng nễ lực lượng hải quân của chúa Nguyễn. Nguyễn Phúc Tần sau nầy lên ngôi tức chúa Hiền (Hiền Vương).
      Bính Thân (1656): quân Trịnh do Vũ Văn Thiêm, Đào Quang Nhiên đánh nhau với quân Nguyễn do Nguyễn Hữu Tiến chỉ huy, ở Mẫn Trường và Bình Lãng. Nguyễn Hữu Dật tiến quân đến núi Hồng Lĩnh. Quân Trịnh thua to. Trịnh Tráng sai con là Trịnh Tuyền vào giữ Nghệ An.
      Mậu Thân (1668): Trịnh Tạc đánh thắng quân Mạc trở về. Nhân đó, Tạc tự phong làm Đại Nguyên Soái Thượng Sư Thái Phụ Tây Vương và phao tin rằng đã được sắc phong của vua Lê.


      Nhâm Thân (1692): Con cháu nhà Mạc là Mạc Kính Chư chạy qua ẩn núp ở vùng Long Châu, Trung Quốc. Trấn thủ Cao Bằng là Ngô Sách Tuân sai Bế Công Quỳnh là người thiểu số ở Cao Bằng dò xét và bắt được Mạc Kính Chư cùng đồ đảng là Đinh Công Đĩnh giải về kinh xử tử. Ngô Sách Tuân được thăng Thị Lang bộ Công, Bế Công Quỳnh được phong tước Quận công.
    Vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh làm phản, đem quân đi cướp của, giết dân ở phủ Diên Ninh (Diên Khánh, Ninh Hòa thuộc tỉnh Khánh Hòa ngày nay). Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh (Kính) và Nguyễn Đình Quang đem quân ở Chính Dinh và Quảng Nam, Bình Khang đi đánh.
      Giáp Thân (1704): Trịnh Luân và Trịnh Phát định mưu giết Trịnh Cương. Việc bị bại lộ, bị Trịnh Cương bắt giam và xử tử. Nguyễn Công Cơ có công phát giác nội vụ, được thăng chức thị lang.
      Bính Thân (1716): Vua Lê Hy Tông mất, hưởng thọ 54 tuổi. Ở ngôi 30 năm, nhường ngôi cho con là Lê Dụ Tông trong 12 năm. Lê Hy Tông được gọi là Thái Thượng Hoàng.
      Mậu Thân (1728): Nước Ai Lao sai sứ sang thông hiếu với chúa Trịnh. Nhà Thanh trả lại cho nước ta mỏ đồng ở Tụ Long. Trước đây có chuyện tranh chấp biên giới giữa nước ta và Trung Quốc, bên Trung Quốc lấn chiếm nước ta đến 40 dặm.  Nhưng dân thiểu số ở vùng biên giới vẫn theo về với nước ta. Do đó, vua nhà Thanh mới xét lại vùng biên giới và trả lại phần đất đã lấn chiếm cho nước ta.
      Canh Thân (1740): Tháng Giêng, Trịnh Doanh tự phong Nguyên soái, tổng quốc chính, Minh Đô vương, phong cho Trịnh Giang làm Thái Thượng Vương. Trịnh Doanh được bọn Nguyễn Quý Cảnh ủng hộ lên cầm chính quyền thay Trịnh Giang. Nguyễn Quý Cảnh được làm Tham Tụng (Thủ Tướng). Trịnh Doanh ép vua Lê Ý Tông truyền ngôi cho Lê Duy Diêu là con của Lê Thuần Tông và tôn vua Lê Ý Tông làm Thái Thượng Hoàng.  Lê Duy Diêu lên ngôi tức Lê Hiển Tông.
     Nhâm Thân (1752): Trước đây Lê Duy Mật, con cháu nhà Lê nổi lên chống họ Trịnh, chiếm cứ xã Ngọc Lâu và Vĩnh Đồng. Khi nào quân Trịnh đến thì họ trốn vào rừng. Nay Đàm Xuân Vực và Nguyễn Nghiễm đem quân đánh phá. Tướng của Lê Duy Mật là Tương thua trận, rồi chết. Lê Duy Mật vẫn còn lẫn trốn biệt tích. Trịnh Doanh thưởng cho Đàm Xuân Vực và Nguyễn Nghiễm cùng quân sĩ 20 lạng bạc, 2000 quan tiền.
     Bính Thân (1776): Từ năm 1772, Tây Sơn khởi nghĩa rồi dần chiếm các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi tiến ra Quảng Nam. Tháng 5 năm Giáp Ngọ (1774), Trịnh Sâm sai tướng Hoàng Ngũ Phúc đem quân vượt sông Gianh vào chiếm Thuận Hóa. Cuối năm đó, chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định. Quân Trịnh chiếm Phú Xuân từ 1775. Cuối năm Ất Mùi (1775-1776), Chúa Trịnh Sâm triệu Hoàng Ngũ Phúc về và cho Bùi Thế Đạt vào thay. Năm Bính Thân (1776), Bùi Thế Đạt cai trị đất Thuận Hóa, có Lê Quý Đôn là văn thần giúp, tổ chức lại việc hành chánh, mở khoa thi, tha thuế cho dân, khuyến khích khai hoang, buôn bán, v.v...
      Mậu Thân (1788): Sau khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt được họ Trịnh, được vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân. Vua Lê Hiển Tông mất, Nguyễn Huệ lập cháu của Lê Hiển Tông là Lê Duy Kỳ lên làm vua (tức Lê Chiêu Thống). Nguyễn Nhạc được tin liền từ Quy Nhơn kéo quân ra Bắc khuyên Nguyễn Huệ rút quân về, để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại. Con cháu họ Trịnh là Trịnh Bồng và Trịnh Lệ trở lại Thăng Long tranh chấp quyền hành, lấn ép vua Lê. Lê Chiêu Thống gọi Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An ra giúp. Chỉnh loại được thế lực họ Trịnh, củng cố ngai vàng cho nhà Lê. Sau đó, Chỉnh lại chuyên quyền. Nguyễn Huệ ở Phú Xuân được tin, cho Vũ Văn Nhậm đem quân ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Chỉnh bị thua, bị giết.
Tháng Giêng năm Mậu Thân (1788), vua Lê Chiêu Thống bỏ kinh thành trốn lên phía Bắc nương nhờ Dương Đình Tuấn. Vũ Văn Nhậm bắt được em của Dương Đình Tuấn tên là Lung tra hỏi. Vua sợ Tuấn thay lòng đổi dạ nên cùng Nguyễn Đình Giản bỏ trốn qua huyện Gia Định. Bấy giờ chỉ có Vũ Trinh, Ngô Chí và Trần Danh Án ở bên cạnh vua mà thôi. Tháng Hai, vua đi đến Chí Linh và truyền hịch cần vương. Thổ hào các nơi nổi dậy ủng hộ vua Lê, chống Tây Sơn...
Tháng Tư năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ được tin Vũ Văn Nhậm cậy công lộng quyền. Vũ Văn Nhậm là con rể Nguyễn Nhạc mà lúc đó giữa anh em Tây Sơn đang có chuyện bất hòa: Nguyễn Huệ đem quân đánh Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn. Vì thế, sau khi giải quyết vụ tranh chấp nội bộ xong, Huệ liền đem quân ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm và trao quyền cho Ngô Văn Sở. Nguyễn Huệ ra lệnh lùng bắt vua Lê Chiêu Thống không được bèn đặt người chú của vua Lê là Lê Duy Cẩn lên làm Giám Quốc, cho Ngô Thời Nhậm làm Lại bộ tả thị lang, Phan Huy Ích làm Hình bộ tả thị lang...để giúp Ngô Văn Sở. Sau đó, Huệ rút quân về Phú Xuân.
Tháng 7, năm Mậu Thân (1788) Hoàng Thái Hậu, mẹ vua Lê Chiêu Thống, qua nhà Thanh xin quân cứu viện. Nguyên vào tháng Giêng năm Mậu Thân (1788) khi vua Lê Chiêu Thống chạy ra khỏi kinh thành thì Thái Hậu cũng như Hoàng Hậu mỗi người một ngã, không gặp được vua. Thái Hậu đến Cao Bằng bị chặn đường, may có Lê Quýnh và các trung thần bảo vệ đưa bà qua Long Châu (Trung Quốc). Thái Hậu có đem theo người con của vua Lê Chiêu Thống và được Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị đón tiếp. Tôn Sĩ Nghị trình lên vua Càn Long nhà Thanh xin đem quân qua đánh Tây Sơn... Tôn Sĩ Nghị nhận được thơ trả lời của vua Càn Long “đồng ý cho cử đại binh chinh phục An Nam” liền cho Lê Quýnh trở về nước báo tin cho vua Lê Chiêu Thống biết. Vua Lê Chiêu Thống nghe tin đó, liền sai Lê Duy Đản và Trần Danh Án lên biên giới đón quân nhà Thanh.
Tháng 10 năm Mậu Thân (1788), quân Thanh vào nước ta, tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở cùng các quan Tây Sơn theo kế hoạch rút lui giữ đèo Tam Diệp để đợi quân Nguyễn Huệ từ Phú Xuân kéo ra Bắc. Bấy giờ vua Lê Chiêu Thống đang trốn tránh ở vùng Phượng Nhãn (Bắc Ninh) liền trở về Thăng Long theo chân quân Tôn Sĩ Nghị... Tháng 11, nhà Thanh phong cho Lê Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương.  Thái Hậu từ Trung Quốc trở về nước. Vua Lê Chiêu Thống vào Thăng Long, trị tội những người bất trung với vua và ban thưởng cho những người có công.
Nguyễn Huệ ở Phú Xuân được tin liền tự tôn lên ngôi vua, đổi tên là Nguyễn Quang Bình, niên hiệu là Quang Trung Hoàng Đế, trước khi đem quân ra Bắc, đến Thanh Nghệ, dừng chân tuyển thêm quân, được 8 vạn người, tạm đóng quân ở Thọ Hạc, cho người đưa thư cho Tôn Sĩ Nghị “xin đầu hàng”, trong thư lời lẽ rất khiêm tốn. bấy giờ là tháng Chạp năm Mậu Thân, Nguyễn Huệ cho tướng sĩ ăn Tết trước và hẹn sẽ vào thành Thăng Long trước ngày 7 Tết năm sau (Kỷ Dậu, 1789).
      Canh Thân (1800): Võ Tánh bị vây trong thành Bình Định.  Tháng Giêng, bộ binh của Trần Quang Diệu (Tây Sơn) đánh tới Thạch Tân (Bến Đá), thủy binh của Võ Văn Dũng vào cửa Thị Nại (Quy Nhơn). Trước thế mạnh của quân Tây Sơn, các tướng Nguyễn rút quân vào trong thành Bình Định, giữ chặt, không ra đánh. Võ Tánh sai Lê Chất về Gia Định báo cáo tình hình cho vua Gia Long biết.  Quân Tây Sơn tiến sát chân thành khiêu chiến, Võ Tánh vẫn không ra. Trần Quang Diệu nói với Võ Văn Dũng rằng:“Tánh không ra đánh là muốn làm già yếu quân ta.”
    Diệu cho dắp lũy ở ngoài thành, chu vi 4340 trượng, mỗi trượng đặt hai người canh giữ, quân bao vây mấy vòng quanh thành. Võ văn Dũng thì đem tàu chiến chận cửa biển Thị Nại. Tháng 4 năm Canh Thân (1800), quân Gia Định do Nguyễn Đức Xuyên chỉ huy đã đến Diên Khánh, lưu lại đó chờ lệnh. Thuyền của vua Gia Long vào cửa Cù Huân (thuộc Phú Yên), Nguyễn Văn Thành đánh Hội An (thuộc Phú Yên). Võ Tánh nghe quân cứu viện đến liền mở cửa thành ra đánh quân Tây Sơn, đốt phá rồi chiều lại rút vô thành. Trần Quang Diệu vẫn cho quân bao vây bên ngoài thành, vẫn để cho người trong thành ra vào, cố ý cho người trong thành trốn ra xin đầu hàng.  Lợi dụng tình trạng đó, Võ Tánh cho người liên lạc với vua Gia Long để thông báo tin tức. Quân Gia Định hai mặt thủy bộ không thông với nhau, cũng không làm thế nào giải vây cho Võ Tánh được.
      Nhâm Thân (1812): vua Gia Long sai Nguyễn Hữu Thận (người làng Đại Hòa, Triệu Phong, Quảng Trị) đi sứ nhà Thanh. Thận là người giỏi về toán học, thiên văn, địa lý và các môn khoa học khác, trong thời gian tiếp xúc với các nhà khoa học Trung Quốc, ông đã trao đổi, học hỏi thêm được nhiều điều. Vua từng cùng bàn bạc với ông về thiên tượng, rất khen ngợi. Hiếu Khang Hoàng Hậu (mẹ vua Gia Long) mất. Vua chọn chỗ đất để an táng và định ngày ninh lăng. Hoàng Thái Hậu là người làng An Du, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Nguyễn Văn Thành dâng cho vua một phong thư dán kín, đề nghị 4 điều:
   -1.xin sớm lập thái tử và phong tước hiệu cho các hoàng tử để yên lòng người;
   -2. xin cho khắc in và ban hành luật để rõ pháp luật;
   -3. xin chọn nho thần để sung vào Sử Cục;
   -4. Xin chế phục nước Phiên để chốn biên cương được yên. Vua cho Lê Văn Duyệt làm Tổng Trấn Gia Định thay Nguyễn Văn Nhân và cho Trương Tấn Bửu là Phó Tổng Trấn.
     Giáp Thân (1824): Vua Minh Mạng ra lệnh tiếp tục đào kênh Vĩnh Tế, lấy dân các trấn thuộc thành và nước Chân Lạp (Cao Miên) gồm 24.700 người để làm việc. Vua dụ rằng: “Việc đào sông Vĩnh Tế là vâng theo thánh toàn của Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta mà làm, thực là quan yếu cho quốc kế biên trù. Nhưng khai đào mới bắt đầu, công việc còn khó, trẫm vâng theo chí trước, năm ngoái đã đào, còn lại hơn 1.700 trượng, ấy là còn thiếu cái công một sọt đất. Nay nước nhà nhàn rỗi, chính nên kịp thời làm tiếp cho xong, để làm kế nhọc một lần được rỗi mãi mãi”. Cho Phạm Đăng Hưng làm Thượng Thư bộ Lễ. Hai người Pháp là Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng) và Vannier (Nguyễn Văn Chấn) đã từng giúp vua Gia Long lập được nhiều công lớn. Vua Gia Long cho làm đến chức Chưởng Cơ, chỉ huy tàu Phi Long và tàu Phi Phụng. Sau khi Gia Long mất, họ dần dần trở nên cô đơn và có nhiều điều không vừa lòng với vua Minh Mạng, năm 1824, họ xin nghỉ việc và xin về nước.
      Bính Thân (1836): Bộ Công tâu: “Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa (Hoàng Sa xứ: tức là đảo Hoàng Sa) rất là hiểm yếu. Trước đã phái vẽ bản đồ mà hình thể nó xa rộng, mới chỉ được một nơi, cũng chưa rõ ràng. Hàng năm nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng Giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ Giám Thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng Hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định thuê một chiếc thuyền của dân hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi, và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ.  Lại xét ngày khởi hành, từ cửa biển nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ biển, đối thẳng vào là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về dâng trình”. Vua y lời tâu, sai suất đội Thủy quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi dựng làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ “Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy binh chánh đội trưởng, suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ” (trích Đại Nam Thực Lục chính biên, đệ nhị kỷ, năm Minh Mạng thứ 17, bản dịch Viện Sử Học Hà Nội, 1967, trang 30-31)


       Mậu Thân (1848):Vua Thiệu Trị mất vào tháng 9 năm Đinh Mùi (1847), tháng 10 năm đó, hoàng tử thứ hai là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm lên nối ngôi nhưng qua năm sau, Mậu Thân (1848) mới chính thức lấy niên hiệu là Tự Đức nguyên niên (năm thứ nhất). Nhân ngày Tết, vua mặc áo cát phục, thân đến cung hoàng mẫu (Thái hậu Từ Dũ, mẹ của vua) chúc mừng và dâng 100 lạng vàng, 1000 lạng bạc. Lễ xong, vua ngự điện Văn Minh để cho các quan đến chúc mừng. Vua sai Phan Thanh Giản, Thượng Thư bộ Hình bói ngày tốt để làm lễ tế Nam Giao. Vua mới lên ngôi, nên ở nhà riêng làm việc vì đang có tang, không ngự ở điện Càn Thành. Vua dùng điện Hoàng Phúc làm nhà để tang.
Vua nước Cao Miên là Nặc Ông Chăn trước đây đã thần phục nước ta. Khi Nặc Ông Chăn mất, con gái là Ngọc Vân lên nối ngôi.  Xá Ông Giun là em vua Nặc Ông Chăn đã chạy qua nước Xiêm và vua Xiêm cho 100 người đến Ô-dong phong cho Xá Ông Giun làm vua nước Cao Miên. Vì thế vua Thiệu Trị mới cho Trương Minh Giảng đem quân qua bảo hộ Cao Miên, giúp Ngọc Vân cai trị nước ấy. Vua phong cho Ngọc Vân làm Mỹ Lâm Quận Chúa và đổi tên nước Cao Miên làm Trấn Tây Thành. Về sau Xá Ông Giun về quy thuận nước ta. Vua lại cho Xá Ông Giun làm vua Cao Miên và Ngọc Vân làm Quận Chúa như trước. Nhưng vì áp lực của nước Xiêm, nên Xá Ông Giun lại nhận sự phong vương của vua Xiêm.
Đại thần Võ Xuân Cẩn (Đông Các đại Học Sĩ) tâu xin vua Tự Đức phong tước cho dòng dõi của Anh Duệ Thái Tử (tức Nguyễn Phúc Cảnh, con trưởng vua Gia Long).  Nguyên từ thời vua Minh Mạng, hai người con của Thái Tử Nguyễn Phúc Cảnh là Nguyễn Phúc Mỹ Đường và Nguyễn Phúc Mỹ Thùy bi tội. Mỹ Đường bị truất phế làm dân thường, Mỹ Thùy vì ốm bệnh mà chết. (Thực ra cả hai người nầy đều bị hại do sự ganh ghét của vua Minh Mạng không muốn cho dòng con trưởng của vua Gia Long có thế lực sợ tranh đoạt ngôi vua của con cháu Minh Mạng sau nầy). Dòng dõi Thái Tử Cảnh chỉ còn một người cháu nội là Lệ Chung (con Mỹ Đường) đã được phong làm Cảm Hóa Hầu để coi giữ việc thờ tự tổ tiên (Nguyễn Phúc Cảnh tức Anh Duệ Hoàng Thái Tử). Võ Xuân Cẩn đã nhắc lại công lao của Hoàng Hậu vua Gia Long và con của bà là Thái Tử Nguyễn Phúc Cảnh đối với việc khai sáng nhà Nguyễn thời Gia Long để xin vua Tự Đức xét lại bản án thời Minh Mạng và phong tước cho họ. Vua đồng ý.
Tù trưởng nước Thủy Xá và Hỏa Xá (người thiểu số ở Tây Nguyên) đến chúc mừng và dâng các sản phẩm địa phương như ngà voi, sừng tê giác, trầm hương...
Vua ban hành lệnh cấm đạo Thiên Chúa: “Từ nay phàm những đạo trưởng ở Tây Dương lén đến nước ta thì cho quân dân mọi người ai có thể bắt được giải nộp quan, thưởng cho 300 lạng bạc. Còn người đạo trưởng Tây Dương ấy do quan sở tại xét hỏi rõ ràng lai lịch, lập tức đem việc dâng tâu, cho đem đích thân tên phạm ấy ném bỏ xuống sông biển. Còn như những đạo trưởng và bọn theo đạo “người trong nước”, xin cho các nha xét việc hình 2, 3 lần bảo cho biết tội, nếu chúng biết hối cải bỏ đạo, bước qua thập giá, thì thả ra ngay. Người nào không chịu bước qua thập giá thì người đạo trưởng phải bị xử tử; dân theo đạo thì thích chữ “tả đạo” vào mặt, đuổi về, ghi tên vào sổ dân. Nếu biết hối cải, thì cũng cho đến quan để xóa bỏ chữ ấy. Lại các người can phạm về đạo Da-tô hiện đương giam cầm xin cũng phân biệt đạo trưởng và người dân theo đạo, chiếu theo như trên mà làm”. (Trích dịch nguyên văn trong Đại Nam Thực Lục Chính Biên, đệ tứ kỷ, quyển II) (Chú thích: chữ “Cristus” từ tiếng Latin dịch ra tiếng Anh là Christ, được phiên âm qua chữ Hán là Da-tô tức là Jesus Christ là tên của Đức Chúa Giêsu, Đấng sáng lập ra đạo Thiên Chúa hay còn gọi là đạo Công Giáo).
Theo đề nghị của Võ Xuân Cẩn (Đông Các Đại Học Sĩ) vua cho xét lại vụ án Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất là các khai quốc công thần thời Gia Long; cho tìm con cháu của các vị đó là: Nguyễn Văn Toại (cháu Nguyễn Văn Thành), Lê Văn Diễn (cháu gọi Lê Văn Duyệt bằng ông chú bác), Lê Luận (cháu lê Chất) cho được bổ dụng làm cai đội.
      Canh Thân (1860): Quân Pháp đánh chiếm nhiều nơi ở Gia Định và đóng quân ở đó; đồng thời cũng đánh phá các đồn phòng giữ cửa biển của ta như Chân Sảng, Định Hải, Trà Sơn, An Hải, Điện Hải. Vua sai Nguyễn Trọng Thao đến Gia Định để đôn đốc việc quân. Vua sai đình thần hội bàn hòa ước do Pháp đề nghị (11 khoản).  Vua nói rằng có 8 điều quan trọng trong đó có 3 điều như:“không nên bắt giữ xét hỏi và xâm phạm tài sản của người trong nước theo đạo” thì tạm theo được. Bọn theo đạo ấy chỉ có bấy nhiêu người mà thôi (số ít), ai già chết thì thôi, không được thêm người khác. Nếu làm trái điều đó thì trị tội không tha.  Nước ta bắt được đạo trưởng, nếu xét ra nó không dụ dỗ người ngoài, cũng không làm điều gì sai trái, cũng tha không gông cùm hay giết chết, nhưng giao cho họ nhận về không được ở lại. Nếu còn chiêu dụ người khác cũng là can phạm phép nước thì trị tội không tha...”
Tháng Ba năm canh Thân (1860), quân Pháp đánh phá, đốt hết các đồn Trà Sơn, An Hải, Diện Hải (thuộc Đà Nẵng) rồi rút đi. Vua dụ cho quân thứ Quảng Nam phải tính cách phòng bị và các địa phương có cửa biển, bờ biển thì phải canh phòng.
Các tỉnh tâu về nói việc nghị hòa là hỏng và xin “đánh Pháp”. Vua hỏi ý Trương Đăng Quế (Phụ Chính Đại Thần), ông tâu rằng:“Nay đánh nó thì thể chưa đánh nổi, đuổi nó thì cơ cũng chưa tiện. Nay họ xin hòa thì chước lượng mà tòng quyền, có điều gì không nên, mà nói nhiều cho rườm ra! Cứ như lời các người bàn đều nói rằng: không nên hòa, thế thì đánh giữ thế nào để giữ vững bờ cõi, xử trí thế nào cho dân binh được nghỉ ngơi?”
Người Cao Miên thấy quân Pháp đến uy hiếp nước ta thì nổi loạn, đem quân đánh vào các tỉnh biên giới phía Nam. Về sau, họ tìm cách liên lạc với Pháp và rước người Pháp vào nước họ, nhận sự bảo hộ của Pháp để chống lại nước ta. Vua phải ra lệnh cho Trương Minh Giảng rút quân về.
      Nhâm Thân (1872): Sửa sang đê điều ở 4 phủ huyện Khoái Châu, Tiên Hưng, Phú Cừ và Hưng Nhân thuộc tỉnh Hưng Yên. Giặc giả, cướp bóc nổi lên khắp nơi ở miền Bắc. Bọn Cờ Đen (Lưu Vĩnh Phúc), Cờ Trắng (Bành Văn Nhị), Cờ Vàng (Hoàng Sùng Anh) từ Trung Quốc tràn sang nước ta, quấy nhiễu. Vua Tự Dức phải viết thư cho Đề Đốc Phùng Tử Tài của nhà Thanh (ở Long Châu) để phối hợp bình định giặc.  Ông Ích Khiêm và Nguyễn Di phá tan sào huyệt giặc ở Quán Ty (tỉnh Hưng Hóa), lấy lại được huyện lỵ Trấn Yên. Đàm Quang Văn, tri huyện Hoành Bồ ở Quảng Yên đã phá được giặc quấy phá ở vùng Cát Bà. Đề đốc Đinh Hội, phó Đề đốc Trần Môn, Án sát Hoàng Diệu cùng quân lính phá được giặc ở tỉnh Bắc Ninh. Thống Đốc Hoàng Tá Viêm được thưởng lên một cấp. Phó Đề đốc Trần Mân, Tham tán Ông Ích Khiêm, Tán lý Nguyễn Văn Tường phá được đồn Thanh Dã, tỉnh Thái Nguyên do bọn cướp từ Trung Quốc sang. Tất cả đều được ban thưởng. Các tỉnh Sơn Tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương bị đói... dân phải xiêu tán, chết ngoài đường... Tổng đốc là Hoàng Tá Viêm tâu trình việc đó lên vua. Vua ra lệnh cho các quan tỉnh tìm cách giúp đỡ và kêu gọi dân giàu bỏ tiền ra giúp hoặc chia nhau nuôi dưỡng dân nghèo. Hoàng Sùng Anh (giặc Cờ Vàng) ra hàng tại tỉnh Tuyên Quang và xin lập công chuộc tội. Đê Văn Giang và đê ở Hưng Yên bị vỡ, nhiều nơi khác đê cũng bị vỡ như vậy, mặc dù đê mới được sửa sang. Ruộng bị lụt ngập, mất mùa, dân đói...
      Giáp Thân (1884): Vua Tự Đức mất vào ngày 14 tháng 6 năm Quý Mùi (1883), sau đó là cuộc khủng hoảng tại triều đình Huế gọi là vụ “Tứ nguyệt tam vương” (trong 4 tháng mà có đến 03 người được lập lên làm vua. Đó là Dục đức, Hiệp Hòa và Kiến Phước). Các quan Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chịu trách nhiệm trong việc phế lập nầy. Riêng quan Phụ chính Trần Tiễn Thành, vì bất đồng ý kiến với hai ông Tường và Thuyết nên đã từ chức. Sau đó cũng bị giết chết một cách mờ ám. Vua Kiến Phúc tên thật là Ưng Đăng, con nuôi thứ ba của vua Tự Đức, em ruột Ưng Đường (thường gọi là hoàng tử Chánh Mông, là con nuôi thứ hai của vua Tự Đức). Cả hai người đều là con của Kiên Thái Vương (Hường Cai), em ruột vua Tự Đức. Ưng Đường lên làm vua sau khi vua Hàm Nghi lưu vong, tức là vua Đồng Khánh.
Dưới thời vua Kiến Phúc (tháng 11-1883 đến ngày 6 tháng 4 năm Giáp Thân tức 30-4- 1884, vua mất) và dưới thời vua Hàm Nghi, nối ngôi vua Kiến Phúc từ tháng 5-1884 đến cuối năm 1884, có mấy biến cố quan trọng sau đây:
     -Quân Pháp đánh chiếm các thành trì ở các tỉnh miền Bắc (Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Kay) do quân nhà Thanh chiếm đóng, quân Tàu phải bỏ thành rút lui.
    -Triều đình Huế và Pháp lập Hòa Ước ngày 6-6-1884, dưới thời vua Hàm Nghi gọi là Hòa Ước Giáp Thân (hay Hòa Ước Patenôtre) ký kết giữa Patenôtre (đại diện Pháp) và Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất Phan (đại diện Việt Nam), gồm 19 điều khoản. Việt Nam công nhận quyền bảo hộ của nước Pháp. Hòa Ước nầy thay thế Hòa Ước Quý Mùi (hay Hòa Ước Harmand) gồm 27 điều khoản, được ký kết ngày 23 tháng 7 năm 1883 giữa Toàn Quyền Pháp là Harmand và De Champeaux (đại diện nước Pháp) và Trần Đình Túc (Khâm Sai toàn quyền), Nguyễn Trọng Hợp (phó Khâm Sai) đại diện cho Việt Nam. 
    -Việc tấn tôn vua Hàm Nghi lên ngôi do hai quan Phụ Chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chủ trương mà không báo trước cho Pháp biết nên Pháp phản đối và buộc triều đình phải làm đơn xin phép. Nguyễn Văn Tường phải qua gặp Khâm Sứ Pháp tại Huế để thương lượng, cuối cùng phải tổ chức lễ tấn phong vua Hàm Nghi với sự chứng kiến của đại diện Pháp...
Bính Thân (1896): Phan Đình Phùng lập chiến khu ở núi Vụ Quang (Ngàn Trươi) tỉnh Hà Tĩnh, đánh nhau với Pháp từ 1886 (sau khi kinh thành Huế thất thủ) đến 1895. Cụ Phan Đình Phùng sinh năm Đinh Mùi (1847) tại làng Đông Thái, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tịnh, thân phụ là Phan Đình Tuyển. Phan Đình Phùng đỗ cử nhân năm 1876 và tiến sĩ năm 1877 (đỗ đầu kỳ thi Đình nên gọi là Đình nguyên). Nhân việc hai quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truất phế vua Dục Đức (1883), cụ bị bãi chức đuổi về quê vì lý do đã công khai phản đối việc làm của hai ông giữa triều đình. Sau ngày kinh đô Huế thất thủ (23-5 Ất Dậu), Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra Quảng Trị... Phan Đình Phùng hưởng ứng hịch cần vương, nổi lên ở Hà Tịnh, đóng bản doanh ở vùng núi Vụ Quang. Ông được Cao Thắng giúp đúc được súng theo kiểu Tây, nhiều trận đánh thắng quân Pháp, gây ảnh hưởng lớn từ Nghệ-Tịnh đến phía Bắc Quảng Bình. Hoàng Cao Khải, lúc đó đang làm Kinh Lược Bắc Kỳ, với tư cách người bạn đồng hương, đã viết thư khuyên cụ ra hàng nhưng cụ không chịu. Triều đình cho Nguyễn Thân làm Khâm Mạng Đại Thần đem quân ra đánh dẹp. Nguyễn Thân đã dùng chiến thuật bao vây, cắt đứt mọi nguồn tiếp tế lương thực cũng như nhân lực của chiến khu, khiến cho nghĩa quân càng ngày thêm khốn đốn. Sau khi Cao Thắng bị thương tại trận và bị chết, nghĩa quân yếu thế rất nhiều. Tiếp đến, cụ Phan Đình Phùng cũng bị bệnh mất tại chiến khu trước khi quân Nguyễn Thân tiến chiếm được căn cứ Vụ Quang.
        Mậu Thân (1908): Sau khi phong trào Cần Vương và phong trào Văn Thân thất bại vào những thập niên cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, các sĩ phu và Nho sĩ trong nước theo gương Nhật Bản duy tân. Cụ Phan Bội Châu thành lập Việt Nam Quang Phục Hội hoạt động khắp trong Nam ngoài Bắc, đưa thanh niên Việt Nam qua Nhật, qua Tàu du học và hoạt động cách mạng. Lúc bấy giờ Cụ Hoàng Hoa Thám, nguyên là một võ quan của triều đình, ly khai chống Pháp, lập chiến khu ở vùng Yên Thế, trong mấy chục năm liền gây cho Pháp nhiều tổn thất. Quân Pháp phải vất vả lắm mà chưa thể dẹp yên được. Năm 1908 (Mậu Thân), ông Lương Ngọc Quyến (con cụ cử nhân Lương Văn Can) bắt liên lạc với lính Việt trong quân đội Pháp ở Hà Nội, định đầu độc lính Pháp, cướp súng ống, nổi dậy...Nhóm nầy có cho người liên lạc với cụ Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế xin yểm trợ. Nhưng vào giờ chót thì kế hoạch bị bại lộ, một số người bị bắt, bị xử tử, bị tù đày. Sử gọi biến cố đó là “Vụ Hà Thành Đầu Độc”.
    Canh Thân (1920): Chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra tại Âu Châu từ 1914-1918, vừa chấm dứt. Trong thời gian nầy một số người Việt được đưa qua Pháp làm lính thợ (gọi là ONS = Ouvriers non spécialisés) có cơ hội học hỏi thêm và có phần tiến bộ hơn trước. Một số thanh niên du học bắt đầu tham gia các hoạt động chính trị. Các đảng chính trị có khuynh hướng thiên tả, chống Pháp ra đời sau khi chấm dứt chiến tranh thế giới lần thứ I.
    Nhâm Thân (1932): Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái Học thành lập tại Hà Nội ngày 25-12-1927 đã tổ chức cuộc khởi nghĩa vào mùa Xuân 1930 thất bại.  Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí bị xử tử, số khác bị bắt, bị tù đày hoặc trốn qua Trung Quốc. Năm 1930, Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) đã thống nhất ba đảng Cộng Sản tại Trung, Nam, Bắc và lấy tên là Đảng Cộng Sản Đông Dương, bắt đầu hoạt động mạnh ở trong nước, thu hút được một số thanh niên và thành phần lao động. Năm Nhâm Thân (1932) là thời điểm chính quyền Pháp lùng bắt, đàn áp các “Phong trào yêu nước chống thực dân...” rất dữ dội.
      Giáp Thân (1944): Quân Nhật chiếm Đông Dương, lấy lý do mượn đường tiếp tế cho quân Nhật đang chiến đấu ở vùng Hoa Nam chống lại quân đội của Tưởng Giới Thạch. Máy bay Mỹ ném bom, đánh phá cầu, đường, các trục lộ giao thông, đường xe lửa và các cơ quan quân sự của Nhật tại Việt Nam. Các nhà cách mạng Việt Nam lưu vong tại Trung Quốc đã họp nhau thành lập “Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội” do các ông Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần lãnh đạo. Tổ chức nầy được Mỹ và Tưởng Giới Thạch ủng hộ, dự tính đưa người về nước hoạt động kháng Nhật, một số thanh niên Việt Nam có mặt ở Trung Quốc được Chính Phủ Tưởng Giới Thạch giúp đỡ và đưa vào học quân sự tại các trường đào tạo sĩ quan của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Nhưng về sau Mỹ bỏ kế hoạch đổ bộ Đông Dương bằng bộ binh và đã sử dụng bom nguyên tử để giải quyết chiến tranh Mỹ-Nhật nên các chương trình của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội không thực hiện được. Năm 1945, sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh, Mặt Trận Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo, cướp chính quyền thành công tại Hà Nội. Phe Quốc Gia đi chậm sau Việt Minh một bước và đã để lỡ cơ hội nắm chính quyền tại Việt Nam lúc đó.
    Bính Thân (1956): Chiến tranh Việt-Pháp bùng nổ sau ngày quân Pháp trở lại Đông Dương vào tháng 9-1945 tại Miền Nam và tháng 12-1946 tại Miền Trung và Miền Bắc. Sau khi căn cứ Điện Biên Phủ của Pháp bị Việt Minh chiếm đóng, Hiệp định đình chiến giữa Pháp và Việt Minh được ký kết tại Genève, thủ đô nước Thụy Sĩ, ngày 20-7-1954. Từ vĩ tuyến 17 trở ra Bắc được đặt dưới quyền kiểm soát của Việt Minh và từ vĩ tuyến 17 trở vô Nam do Pháp và Chính Quyền Bảo Đại kiểm soát. Ông Ngô Đình Diệm được Quốc Trưởng Bảo đại bổ nhiệm làm Thủ Tướng và về nước chấp chính ngày 7-7-1954, được toàn quyền hành động. Một triệu người Miền Bắc đã di cư vào Nam tìm tự do. Ngày 23-10-1955, Ông Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý, lật đổ Quốc Trưởng Bảo Đại và tuyên bố thành lập chế độ Cộng Hòa. Ông Ngô Đình Diệm là Tổng Thống của VNCH đầu tiên. Năm Bính Thân (1956) là năm ban hành Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa do Quốc Hội Lập Hiến (sau biến thành Quốc Hội Lập Pháp) và là năm thành công của chính quyền do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo: thống nhất quân đội, vãn hồi an ninh trật tự, xây dựng dân chủ, phát triển kinh tế, tiêu diệt cơ sở hạ tằng của Cộng Sản nằm vùng.


        Mậu Thân (1968): Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị các Tướng lãnh Miền Nam lật đổ và giết chết cùng với bào đệ là Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu (01 và 02 tháng 11-1963), Cộng Sản Bắc Việt tăng cường xâm nhập, quấy phá Miền Nam. Mỹ can thiệp mạnh vào chiến tranh Việt Nam, ném bom Miền Bắc để ngăn chận sự xâm nhập quân đội và vũ khí của CS Miền Bắc vào Miền Nam. Lợi dụng lệnh hưu chiến vào dịp Tết Mậu Thân (1968), CSVN tổ chức tổng tấn công trên toàn lãnh thổ VNCH, đặc biệt tại thành phố Huế. Trong gần một tháng bị CS chiếm đóng, hàng ngàn người vô tội tại Huế và tỉnh Thừa Thiên đã bị CS sát hại, chôn chung trong một nấm mồ tập thể...Ngoài thành phần công chức và quân nhân bị CS bắt, còn có các linh mục, tu sĩ, giáo sư, bác sĩ, thanh niên, sinh viên học sinh và thường dân vô tội bị bắt đem đi mất tích hoặc bị giết. Các tỉnh và thành phố khác tại Miền Nam cũng bị CS tấn công và gây tổn thất về nhân mạng và tài sản khiến cho hàng trăm ngàn đồng bào mất nhà cửa, phải cảnh màn trời chiếu đất...
      Canh Thân (1980): Lợi dụng Hiệp Định đình chiến được ký kết tại Paris ngày 27-01-1973, quân Mỹ rút khỏi Miền Nam VN, ngưng các cuộc ném bom trên lãnh thổ Miền Bắc và đường mòn Hồ Chí Minh (dọc theo dãy núi Trường Sơn), CSVN đã tăng cường xâm nhập vũ khí và quân lính vào Miền Nam để mở cuộc tấn công quy mô, cưỡng chiếm toàn Miền Nam. Sau khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức (vào tháng 4-1975) và trao quyền lại cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, các phe nhóm chính trị khuynh tả đã vận động với Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Đại Tướng Dương Văn Minh. (Việc nầy trái với Hiến Pháp VNCH mặc dầu có sự đồng ý của Lưỡng Viện Quốc Hội). Trước áp lực của CS Hà Nội, ngày 30-4-1975, Đại Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho toàn thể Quân Lực VNCH buông súng đầu hàng CS vô điều kiện. Năm Canh Thân (1980) toàn dân Việt Nam từ Bắc chí Nam sống dưới gót giày độc tài, bóc lột của CSVN. Những người đã phục vụ trong chính quyền Miền Nam (tức VNCH) như các sĩ quan, viên chức hành chánh, cán bộ của các chính đảng và cả đến các cấp lãnh đạo tôn giáo, các nhà tu hành, những người làm nghề tự do, buôn bán... cũng bị CSVN đày đi lao động khổ sai trong các Trại tù (mệnh danh là Trại Cải Tạo) tại Miền Bắc và tại những vùng núi non xa xuôi, khí hậu khắc nghiệt, những nơi rừng thiêng nước độc, phải chết dần chết mòn trong cảnh đói rét, thiếu ăn thiếu mặc, thiếu cả thuốc men... Các Giáo Hội bị đàn áp, nhà thờ, thánh thất, chùa chiền, tu viện, trường học, bệnh viện... bị tịch thu. Các cấp lãnh đạo các Giáo Hội bị bắt giam, bị bức tử hay bị đem ra xử tử công khai...Do đó, nhiều thanh niên trí thức và cả những tín đồ của các tôn giáo nổi dậy, tranh đấu đòi CSVN thực hiện các quyền tự do dân chủ nhất là tự do tôn giáo. Người trong nước vượt biên, vượt biển, trốn ra nước ngoài...Kẻ thì bị Công An phục kích bắn chết giữa đường, người thì bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, giết chết trên biển cả hoặc bị đắm thuyền, đem thân làm mồi cho cá mập. Cảnh tượng rất bi đát, dã man, chưa bao giờ có trong lịch sử Việt Nam và nhân loại. Có thể nói năm Canh Thân (1980) là năm đen tối nhất của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Nhâm Thân (1992): Do sự can thiệp của Hoa Kỳ, CSVN đã thỏa thuận cho những thành phần sĩ quan và viên chức của chế độ VNCH đã bị bắt đi “học tập cải tạo” từ 03 năm trở lên (có người trên 17 năm), được xuất ngoại cùng với gia đình, đến định cư tại Hoa Kỳ...Năm 1992 (Nhâm Thân) là năm có những chuyến ra đi công khai chính thức từ VN qua Mỹ, rầm rộ nhất.
Giáp Thân (2004): cách nay 12 năm, các phong trào tranh đấu đòi tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam, càng ngày càng lớn mạnh ở trong nước nhưng CSVN đã ra tay đàn áp dã man, nhiều người bị tù đày…dân oan bị cướp đất, mất nhà, mất việc, kéo nhau lên Sài Gòn, ra Hà Nội khiếu kiện. Phong trào chống Trung cộng bành trướng, thao túng toàn bộ nền kinh tế Việt Nam, hàng lậu, hàng giả từ Trung hoa tràn vào làm tê liệt nền kinh tế quốc dân Việt Nam. Nạn tham nhũng từ Trung Ương đến địa phương…
Hiện nay, hơn 70% đảng viên CSVN đều muốn thoát Trung, muốn từ bỏ chế  độ độc tài, thay đổi đường lối và chuyển qua chế độ dân chủ. Khối cựu chiến binh và gia đình, đảng viên tiến bộ, trí thức trẻ, tín đồ các tôn giáo, v.v. chiếm tuyệt đại đa số của hơn 90 dân Việt Nam đều muốn thay đổi Hiến Pháp, muốn đa nguyên đa đảng. Đòi hỏi thực hiện các quyền tư do dân chủ cho dân… chế độ CSVN chắc chắn sẽ cáo chung trong tương lai.

 Nguyễn Lý-Tưởng


Không có nhận xét nào: