Thứ Năm, 12 tháng 4, 2018

Các Câu Đối Ở Hiệp Thiên Cung Cái Răng Cần Thơ - Đỗ Chiêu Đức

                              CÁC CÂU ĐỐI Ở
                      HIỆP THIÊN CUNG CÁI RĂNG
    
Inline image

       Bước vào vòng rào của Hiệp Thiên Cung, ta thấy ngay đôi câu đối chữ vàng viết trên đôi cột to màu đỏ như sau:

                    聖  駕  賁  臨,  欣  蒙  到  處  即  福  地,
               Thánh giá bí lâm, hân mông đáo xứ tức phước địa,
                    神  恩  戾  止,  且  觀  這  裡  樂  春  光。
               Thần ân lệ chỉ, thả quan giá lý lạc xuân quang.

Chú thích :
  * Thánh Giá : Từ gọi chung Thần Thánh hoặc Vua Chúa.
  * Bí Lâm : là ăn mặc đẹp đẽ tề chỉnh để đến đâu đó.
  * Hân Mông : Vui mừng mà mang ơn.
  * Đáo Xứ : là Khắp nơi, là nơi mà thần ngự đến. 
  * Lệ Chỉ : là Đến nơi, là soi rọi đến.
  * Thả Quan : là Hãy xem, chờ mà xem.
  * Xuân Quang : là Quang cảnh của mùa xuân.

Có nghĩa:
          Thần thánh ngự đến nơi đâu, thì nơi đó đó nên mừng là vùng đất phước. (Ý nói sẽ sống yên ổn là làm ăn phát đạt).
          Ơn của thần thánh ban đến nơi nào, thì hãy chờ mà xem, nơi đó dân chúng sẽ vui sống trong quang cảnh của mùa xuân.

Diễn Nôm :
      Thánh ngự đến nơi, mừng đội ơn trên là đất phước,
      Thần ân ban phát, hãy xem khắp chốn thảy vui xuân.
    
       Hai bên cửa ra vào chính có hình của Thần Đồ Uất Luỹ 神荼鬱壘, cũng có đôi câu đối ở phía dưới 4 chữ Tam Dương Khải Thái 三陽啟泰 là:

  元旦參神添百福,Nguyên đán tham thần thiêm bách phước,
  新年入廟納千祥。Tân niên nhập miếu nạp thiên tường.

Có nghĩa :
        Tết Nguyên Đán (ngày đầu của một năm) mà đến đây để tham kiến thần linh, thì sẽ thêm được trăm điều phước.
        Năm mới mà vào chùa (miếu) để cúng bái, thì sẽ nhận được ngàn điều lành.

Diễn Nôm :
            Nguyên Đán lạy thần thêm trăm phước,
            Đầu năm vào miếu nhận ngàn lành.   

            Inline image

          Ngoài ra, hai bên vách của cổng chính cũng có vẽ các bức tranh về sự tích Đào Viên Tam Kết Nghĩa 桃園三結義 giữa Lưu Bị, Quan Công và Trương Phi, như hình của Lưu Quan Trương thử binh khí 劉關張試兵器 (Lưu Quan Trương thí binh khí), Quan Công Xá Tào Tháo 關公赦曹操 (Tích Quan Công tha cho Tào Tháo ở Huê Dung Đạo), Lưu Quan Trương theo kế của Khổng Minh, Hình của Châu Thương và Quan Bình hai người con nuôi đứng hầu hai bên của Quan Công, một người cầm cây Thanh Long yễm Nguyệt Đao, một người bưng cái ấn Hán Thọ Đình Hầu của Quan Công...
 
         Hai bên vách nơi nhô ra còn có hai bài thơ của Thi Tiên Lý Bạch, bên trái là bài "Sơn Trung Vấn Đáp":    

            山中問答                SƠN TRUNG VẤN ĐÁP

         問余何意棲碧山,      Vấn dư hà ý thê bích sơn,
         笑而不答心自閒。      Tiếu nhi bất đáp tâm tự nhàn.
         桃花流水窅然去,      Đào hoa lưu thủy yểu nhiên khứ,
         別有天地非人間。      Biệt hữu thiên địa phi nhân gian.
                    李白                               Lý Bạch

CHÚ THÍCH :
 * Dư : Nhân xưng Đại từ ngôi thứ nhất, là Tôi, Ta, Tao...
 * Thê : là Đậu trên cây, ở đây có nghĩa là Ở, là Cư ngụ.
 * Bích Sơn : tên núi ở TP An Lục tỉnh Hồ Bắc, dưới núi có Đào Hoa Động là nơi Lý Bạch ăn ở và học tập.
 * Đào Hoa Lưu Thủy : Theo Đào Hoa Nguyên Ký của Đào Tiềm có ghi : Vào đời Đông Tấn, ở đất Võ Lăng, có người đánh cá đi lạc vào rừng hoa đào, cuối rừng có núi, trong núi có con đường nhỏ dẫn vào Đào hoa Nguyên, trong đó dân chúng sống thanh bình an cư lạc nghiệp như trong tiên cảnh.
 * Yểu Nhiên : chỉ Âm thầm, Lặng lẽ.
 * Biệt Hữu Thiên Địa : là Có trời đất riêng biệt.

NGHĨA BÀI THƠ :
        Bạn hỏi tôi sao tôi lại chọn nơi Bích Sơn mà ở, là có ý gì? Tôi chỉ cười mà không trả lời câu hỏi của bạn, vì trong lòng tôi tự cảm thấy nhàn nhã là được rồi. Hãy xem kìa, dòng nước cuốn những cánh hoa đào lặng lẽ trôi đi như ở xứ Đào Nguyên tiên cảnh, có trời đất riêng biệt chớ không phải như ở chốn nhân gian nầy!

DIỄN NÔM :
                    HỎI ĐÁP NHAU TRONG NÚI

                  Bạn  hỏi  ý gì chọn Bích Sơn?
                  Cười thôi chẳng đáp nhàn là hơn.
                  Hoa đào nước cuốn trôi êm ả,
                  Là cảnh Đào Nguyên há phải thường!
Lục bát :
                  Bích Sơn bạn hỏi ý chi?
                  Cười mà không đáp lòng thì thảnh thơi.
                  Hoa đào rụng, nước cuốn trôi,
                  Đào Nguyên há phải cảnh đời nhân gian!
                              Đỗ Chiêu Đức

               Inline image

        Bên phải là bài thơ LỤC THỦY KHÚC:

              淥水曲                Lục Thủy Khúc

           淥水明秋月,     Lục Thủy minh thu nguyệt
           南湖採白蘋。     Nam hồ thái bạch tần.
           荷花嬌欲語,     Hà hoa kiều dục ngữ,
           愁殺盪舟人。     Sầu sát đãng chu nhân.
                李白                          Lý Bạch

CHÚ THÍCH :
 * Lục Thủy Khúc: Là Tên của một khúc hát xưa, có nghĩa là Khúc hát về Dòng Nước Trong.
 * Nam Hồ : là Phía nam của Động Đình Hồ.
 * Bạch Tần : Một loại rau nổi trên mặt nước có hoa màu trắng như rau muống, rau ngổ vậy.
 * Hà Hoa : là Hoa Sen, tức là Liên Hoa 蓮花 đó.
 * Sầu Sát : chữ SÁT 殺 đứng sau Động từ là Trạng từ chỉ Mức độ, có nghĩa như Rất, Rất là. Nên Sầu Sát có nghĩa là Rất buồn, là Buồn muốn chết !
 * Đãng Chu Nhân : là Người chèo thuyền, người bơi xuồng.

NGHĨA BÀI THƠ :
          Dòng nước trong trẻo làm cho trăng thu như sáng hơn lên, ta thả thuyền ở phía nam Hồ Động Đình để hái rau bạch tần. Nhìn thấy bông sen nở trên hồ thật đẹp thật sống động như muốn nói chuyện cùng ta, làm cho ta cảm thấy buồn muốn chết đi được vì ta không thể nào đối thoại được với hoa.

DIỄN NÔM :
                     LỤC THỦY KHÚC

                Nước trong sáng trăng thu,
                Bạch tần hồ nam hái,
                Sen đẹp như muốn nói,
                Sầu chết người đãng chu!
Lục bát :
               Nước trong làm sáng trăng thu,
               Rau tần tìm hái bên hồ phía nam.
               Lá xanh bông trắng nhị vàng,
              Tựa như muốn nói sầu sang người chèo!
                               Đỗ Chiêu Đức

            Inline image
           Đứng từ ngoài nhìn vào chùa, ta còn thấy hai bên có hai dãy Nghi Trượng. (NGHI TRƯỢNG là những cờ xí binh khí giàn giá khi các quan ngày xưa đi ra ngoài hoặc thăng đường xử án). Nghi Trượng Sự Thần 儀仗事神 là các giàn giá để thờ thần linh, với các tấm bảng Nghi Trượng hai bên như sau:

   * 協天大帝 Hiệp Thiên Đại Đế: Tước hàm được phong của Quan Công.
   * 天后元君 Thiên Hậu Nguyên Quân: Tước hàm của bà Thiên Hậu.
   * 肅靜迴避 Túc tĩnh Hồi tỵ: là Giữ  Nghiêm túc yên lặng và Tránh sang một bên.
   * 污穢勿近 Ô uế Vật cận: Những gì dơ dáy không sạch sẽ thì tránh sang một bên (đừng đến gần).

                Inline image
         Ngoài cửa chánh vào chùa ra, ta còn thấy có 2 cửa hông hai bên, cửa hông bên phải cũng có đôi câu đối:

       入是門必恭敬止,  Nhập thị môn tất cung kính chỉ,
       由斯道惟孝友于。  Do tư đạo duy hiếu hữu vu.

   * Thị Môn : là Cánh cửa nầy, là lối vào nầy. 
   * Tư Đạo : là Con đường nầy, là Lối đi nầy.

Có nghĩa :
       Đi vào cửa nầy, phải có thái độ cung kính (để nhớ đến các bậc tiền nhân đã tạo ra nó).
       Do đường nầy (tư đạo) mà vào, duy chỉ có những người hiếu thảo (với cha mẹ anh em). 

       Cửa hông bên trái, nơi có treo bảng Ban Quản Lý Chùa 協天宮理事會, cũng có đôi câu đối:

       出入禮門咸迪吉, Xuất nhập lễ môn hàm địch kiết,
       往來義路盡亨通。 Vãng lai nghĩa lộ tận hanh thong.

Có nghĩa :
            Ra vào cửa lễ đều lành tốt,
      Vãng lai đường nghĩa thảy hanh thông.
Ý nói :
           Đi ra đi vào ở cánh cửa lễ nghi nầy thì mọi việc đều được tốt lành. Và...
           Qua lại ở con đường có nghĩa nầy, thì mọi việc đều được suôn sẻ.

                  Inline image
     
       Nói thêm về 4 chữ Tam Dương Khải Thái 三陽啟泰. Khải là Mở ra, mà Khai 開 cũng là Mở ra, nên 4 chữ nầy còn được viết là TAM DƯƠNG KHAI THÁI 三陽開泰...  

      Theo sách Chu Dịch, sau tiết Đông Chí thì khí âm hàn bắt đầu tiêu thoái, và khí dương thì bắt đầu sanh trưởng. Ta thường nghe các Thầy Bói gọi là Âm Tiêu Dương Trưởng, đêm sẽ ngắn dần, ngày sẽ dài thêm ra, cho nên Tháng Mười Một là tháng Tý, thuộc quẻ Phục 復 là Nhất Dương Sanh, Tháng Mười Hai là Tháng Sửu, thuộc quẻ Lâm 臨 là Nhị Dương Sanh, và Tháng Giêng là Tháng Dần, thuộc quẻ Thái 泰 là Tam Dương Sanh. Vì thế nên Tết Nguyên Đán của tháng Giêng mới dùng câu Tam Dương Khai Thái 三陽開泰 mà chúc mừng cho năm mới mở ra vận hội mới, lấy Ý chữ Thái là Lớn, là Thông, như trong tiếng Việt ta thường nói "Hết vận Bỉ rồi thời lại Thái", hoặc "Bỉ cực thì Thái lai" và "Hết cơn Bỉ Cực, đến hồi Thái lai". Có nghĩa: Hết lúc Bế tắt, nghèo khó thì đến lúc Hanh Thông, khá giả!
                                 
          Vì 2 chữ Dương 陽 và 羊 Dương đồng âm, nên ta thường gặp những bức tranh vẽ hình 3 con dê thay thế cho khí dương của trời đất mà chúc nhau bằng câu Tam Dương Khai Thái như ta thường trông thấy!    
        Bước vào cửa chánh, bên trong là một cái sân lộ thiên rồi mới đến chánh điện với 4 chữ hoành phi trên cao:

          丹心貫日           ĐAN TÂM QUÁN NHẬT

Có nghĩa :
            Một tấm lòng son ngang bằng với mặt Trời (chỉ lòng trung thành bền vững của Quan Thánh Đế Quân).

         Dưới 4 chữ trên trên hoành phi là 2 cặp câu đối, cặp bên ngoài là:

     九天日月開新運,  Cửu thiên nhật nguyệt khai tân vận,
     萬國笙歌樂太平。  Vạn quốc sanh ca lạc thái bình.

Có nghĩa :
             Trên chín từng trời, mặt trăng mặt trời đang mở ra vận hội mới, và ở dưới đất...
             Muôn nước muôn nhà đều ca hát mà vui cảnh thái bình.
     Theo quan niệm xưa thì: Trời có 9 từng, gọi là Chín Từng Trời, còn Địa Ngục thì có 18 từng, nên gọi là Mười Tám Từng Địa Ngục

            Cặp câu đối bên trong là :

       萬古桃園生秀色,Vạn cổ Đào viên sanh tú sắc,
      千秋義武見英風。 Thiên thu nghĩa vũ kiến anh phong.
Có nghĩa :
           Chuyện Đào viên kết nghĩa thì muôn năm sau vẫn còn mang màu sắc đẹp đẽ, và...
          Cái vũ dũng nghĩa khí đó thì đến ngàn năm sau vẫn còn thấy được là phong cách của anh hùng.
     
          Kế đến, là đôi cột thứ nhì của chính điện, và đây có thể là câu đối hay nhất, có ý nghĩa nhất, sát sao nhất với cuộc sống của toàn thể cư dân Quận Cái Răng:

     被聖澤, 本市匹民安樂業, Bị thánh trạch, bổn thị thất dân an lạc nghiệp,
     謝神恩, 周城合境保平安。   Tạ thần ân, châu thành hợp cảnh bảo bình an.

  * Bị : Danh từ là cái Mền đắp. Động từ là Phủ kín, là Mang, là Đội, nên BỊ THÁNH TRẠCH là Chịu ơn của thần thánh.
  * Thất Dân : là Dân chúng bình thường.
  * Châu Thành : là Khắp cả Thành phố, Thị Trấn.
  * Hợp Cảnh : là Toàn cảnh, ý chỉ cả cái khuôn viên của nơi ta ở.

Có nghĩa :
              Mang ơn mưa móc của ông Thánh, mà dân thường trong bổn chợ của ta đều được an cư lạc nghiệp,
             Tạ ơn phù hộ của Thần, mà toàn thể khuôn viên của quận ta đều giữ được bình yên. 

    Inline image
 
      Và đôi câu đối trên bảng đỏ chữ đen của hàng cột tiếp là :

           擎天一柱,鐵石為心是漢室,   Kình thiên nhất trụ, thiết thạch vi tâm thị Hán thất, 
           拔地齊峰,春秋得力與尼山。   Bạt địa tề phong, Xuân thu đắc lực dữ Nê sơn.

Có nghĩa :
              Như một cây cột trụ chống trời, sắt đá quyết lòng phò nhà Hán,
              Vượt khỏi mặt đất để lên bằng ngọn núi, Xuân Thu đắc lực cùng với Nê Sơn. (NÊ SƠN là nơi sanh của Khổng Tử. Khổng Tử soạn ra sách Xuân Thu, còn Quan Công thì đọc sách Xuân Thu để noi theo những cái gương trong đó. Ở đây có ý đề cao Quan Công một cách quá đáng, so sánh Quan Công ngang bằng với Khổng Tử vì cả hai đều được phong Thánh).     

        Hàng cột kế tiếp là đôi câu đối ca ngợi công đức của Quan Thánh Đế Quân một cách văn chương thi vị:

         清  夜  讀  春  秋, 半  朵  燭  花  籠  月  色,
   Thanh dạ độc Xuân Thu, bán đóa chúc quang lung nguyệt sắc, 
         赤  心  伸  討  伐, 一  鞘  劍  氣  繞  星  寒。
    Xích tâm thân thảo phạt, nhất sao kiếm khí nhiễu tinh hàn.

Có nghĩa :
            Đêm thanh vắng ngồi đọc sách Xuân Thu, Nửa đóm lửa từ ngọn nến lay động làm lung linh cả ánh trăng, 
            Một tấm lòng thành giúp vua thảo phạt( đánh giặc), một làn kiếm khí vút cao làm lạnh lẽo cả các vì sao.
            Qủa là một câu đối đầy tính văn chương và thi vị.

       Câu đối ở hàng cột áp chót là:

      萬古勳名垂竹帛,  Vạn cổ huân danh thùy trúc bạch,
      千秋義勇壯山河。  Thiên thu nghĩa dũng tráng sơn hà.

Có nghĩa :
          Muôn đời sau chiến công (của Quan Công) vẫn còn ghi lại trên tre, trên vải. (vì ngày xưa chưa có giấy, nên sử sách đều được khắc trên các thanh tre cuốn tròn lại như quyển sách, ta thường gọi là Thanh Sử 青史, hay Sử Xanh. Sau nầy còn được chép lên Vải, lên Lụa. BẠCH 帛 là Vải là Lụa.)
          Ngàn thu sau cái nghĩa khí và cái dũng cảm (của Ngài) vẫn còn làm cho núi sông trở nên hùng tráng hơn.


                Inline image
          Hai bên hông chánh điện còn có các bức hoành phi như :

                  * 義貫千秋    Nghĩa quán thiên thu
Có nghĩa :
     Cái nghĩa của Quan Thánh xuyên suốt từ ngàn thu đến nay và về sau nữa.

                  * 千古一人   Thiên cổ nhất nhân
Có nghĩa :
              Ngàn xưa đến nay chỉ có một người (trung nghĩa như là Quan Công vậy!)


                Inline image
         Cuối cùng là đôi câu đối ở hai bên kham thờ của Quan Thánh Đế Quân là:

       聖德無疆沾萬古, Thánh đức vô cương triêm vạn cổ,
       帝恩靡極頌千秋。  Đế ân mĩ cực tụng thiên thu.
Có nghĩa :
      Cái đức của bậc thánh nhân (ở đây chỉ Quan Công) còn thấm nhuần đến muôn đời sau,
      Ơn vua thì vô cùng, còn ca tụng mãi đến ngàn thu sau.

         Quay ngược ra phía trước, đứng từ trong nhìn ra ngoài, ta thấy mặt trong phía trước có một hoành phi với ba chữ HIỆP THIÊN CUNG bằng chữ Quốc Ngữ, bên dưới là đôi câu đối 4 chữ:

Inline image

                   廣種福田,    Quảng chủng phước điền,
                   為善最樂。    Vi thiện tối lạc.
Có nghĩa :
          Cố gắng mà trồng cho rộng ra cái mảnh ruộng phước đức, và nên hiểu rằng...
          Làm việc thiện là điều vui vẻ nhất trên đời.

          Và đôi câu đối hai bên là:

      帝錫龍章開泰運,    Đế tích long chương khai thái vận,
      千秋神武見英風。    Thiên thu thần võ kiến anh phong.

Có nghĩa :
             Cờ của vua ban cho các Đại tướng đi chinh phạt (Đế tích long chương: ở đây chỉ cờ của Quan Thánh Đế Quân ) mở ra thời vận lớn,
             Cái thần uy và võ dũng của Ngài, ngàn thu sau vẫn còn mang phong độ anh hùng.
    
            Ở sát mặt trong của cửa ra vào, còn có một hoành phi với 4 chữ :

                            萬物並育    Vạn vật tịnh dục
Có nghĩa :
               Muôn vật muôn loài cùng nhau phát triển mà không xâm hại lẫn nhau.

            Inline image
    Ngoài ra,ta còn thấy rải rác các hoành phi trong chính điện như :

                           與天地參    Dữ thiên địa tham
Có nghĩa :
               Bất cứ việc gì cũng phải kết hợp giữa Trời Đất và Con Người, thì mới thuận lý tự nhiên, như ta thường nói phải có "Thiên thời địa lợi và nhân hòa vậy!"

                           義炳乾坤   Nghĩa bỉnh càn khôn
Có nghĩa :
               Cái nghĩa khí tràn đầy cả vũ trụ, trời đất (càn khôn).

                   Inline image
                           浩氣配天   Hạo khí phối thiên
Có nghĩa :
               Cái chí khí to lớn đến có thể phối xứng ngang bằng với trời.

                           氣壯山河   Khí tráng sơn hà
Có nghĩa :
               Cái hào khí có thể làm cho núi sông trở nên hùng tráng hơn.
      

                  Inline image     
                                     
   
             Phía bên trái thờ Phước Đức Chánh Thần, còn có các hoành phi sau:

                        * 人民福地    Nhân dân phước địa
Có nghĩa :
                Đây chính là nơi đất Phước của nhân dân.

                        * 大義聯光    Đại nghĩa liên quang
Có nghĩa :
               Cái nghĩa lớn sáng cả các thần có liên quan với nhau (chỉ cả Quan Thánh Đế Quân, Phước Đức Chánh Thần và Thiên Hậu Nguyên Quân).

                  Inline image

                Phía bên phải của chánh điện thờ bà Thiên Hậu với các Hoành phi:

                        * 聖德如天   Thánh đức như thiên
Có nghĩa :
                Cái đức của ông Quan Thánh ngang bằng như là Trời vậy!

                       * 至大至剛    Chí Đại Chí Cương
Có nghĩa :
     CHÍ : là Đến cùng, là hết mức.
     ĐẠI : là Chính Đại quang minh.
     CƯƠNG : là Cương Trực ngay thẳng, nên...
    CHÍ ĐẠI CHÍ CƯƠNG là Quang minh chính đại tới cùng, Cương trực ngay thẳng tới cùng!

     
Inline imageInline image

     Chí Đại Chí Cương                                      
    Thánh đức như thiên

        Dười đây là hai hình ảnh, một ban ngày một ban đêm của Hiệp Thiên Cung được trang hoàng rực rỡ để đón Tết Mậu Tuất 2018.

Inline image
      Mặt tiền Hiệp Thiên Cung tết Mậu Tuất 2018


Inline image
 Cảnh đêm: Mặt tiền Hiệp Thiên Cung tết Mậu Tuất 2018

              Trên đây là tất cả các câu đối, hoành phi đã đọc thấy được trong Chùa HIỆP THIÊN CUNG Quận CÁI RĂNG, Phường LÊ BÌNH, Thành phố CẦN THƠ. Chép ra đây để cùng tìm hiểu, chiêm nghiệm và đọc chơi tiêu khiển khi trà dư tửu hậu.


                            Đỗ Chiêu Đức kính bút
                             Xuân Mậu Tuất 2018





Không có nhận xét nào: