Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2025

Chữ Nghĩa Làng Văn - Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

 Chữ Nghĩa Làng Văn

Ngộ Không Phí Ngọc Hùng


“Chữ nghĩa làng văn” đôi khi chỉ là một chữ, cụm từ, đoạn văn cô đọng, diễn nghĩa, diễn giải một áng thơ văn hoặc một thể tài nào đó. Những trích dẫn được góp nhặt qua sách vở, trên mạng lưới của nhiều tác giả thành danh hay khuyết danh, không ngoài góc nhìn tận tín thư bất như vô thư. Ấy là chưa kể nhiều từ ngữ, đề mục trong bộ sưu tập đang còn trong vòng nghi vấn, cần phải thẩm định lại nếu có thể được với những bậc thức giả văn kiến súc tích. Những phụ chú, dẫn chứng hay giai thoại do người viết kể lại, với chủ quan, khách quan chỉ cách nhau một sợi tóc. Vì vậy người sưu tầm không đặt ra “sai” hay “đúng”, vì cái sai hiện tại có thể là cái đúng ở một thời điểm nào khác. Xin chân thành cảm tạ và cáo lỗi những tác giả đã đóng góp bài vở trong sưu tập này, nhưng vì phương tiện eo hẹp nên người sưu tầm không thể thỉnh ý tác giả trước khi đăng tải – Ngộ Không Phí Ngọc Hùng.


***


Chữ Việt cổ


Cái tỉn: đồ đựng bằng sành

bầu bụng, giống cái hũ mà trịch miệng

(Đại Nam quốc âm tự vị - Huỳnh Tịnh Paulus Của)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ 

Ước gì em hoá thành trâu

Để anh là đỉa anh bâu lấy đùi


Nếu sinh vào tháng nào thì tính cách ứng với loại cây nào?

Theo như có những người sinh vào những tháng khác nhau, cũng sẽ có khí chất, khuôn mẫu khác nhau. Bạn sinh vào tháng mấy, bởi sách Lễ Ký có câu: "Tháng đầu Xuân, đức lớn tại Mộc". Cây cối mọc vào các mùa khác nhau, mỗi mùa đều có tính chất riêng.

Tháng 4, cây hoa ngọc lan
Hướng ráng chiều ta sinh sắc tía

Biến giọt sương mai thành bụi thơm
("Ngọc lan" - Mục Thạch).


4 - Tháng tư - cây ngọc lan

Hoa ngọc lan với những bông hoa lớn màu trắng tượng trưng cho tư cách đạo đức cao đẹp. Sinh vào tháng 4, bạn có vẻ ngoài lạnh lùng nhưng bên trong lại rất ấm áp. Bạn tốt bụng và chính trực, hiểu rõ yêu ghét và dám là chính mình. Làm việc cũng không để ý ánh mắt của người khác, chỉ cầu không thẹn với lương tâm.

(Lý Văn Hàm)


Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ 

Hoa hồng thì phải có gai

Con gái thì phải phá thai đôi lần


Nâu sồng

Nâu sồng: sồng là một loại cây dùng vỏ nấu thành màu đỏ sẫm dùng để nhuộm vải, thường nhuộm sồng trước, sau đó mới nhuộm nâu thì vải mới bền.


Họa si Tú Duyên và thủ ấn họa

Tú Duyên đã khai sinh ra loại hình tranh khắc gỗ nghệ thuật không rập khuôn theo cách làm từ trước, qua kỹ thuật in bằng bàn tay - kiểu in không cần con lăn. Xét về kỹ thuật, nét đặc thù nổi bật của ‘nghệ thuật thủ ấn họa’ của Tú Duyên gồm những điểm tân kỳ độc đáo, như sau :


 Tu Duyen_ThuyKieuThuyVan


1/. Khắc ít bản mà in được nhiều màu.  

2/.Chỉ khắc hai bản : một bản dương (bản lồi) và một bản âm (bản lõm) và cách tô chuyển màu trên bề mặt bản dương trước khi in giúp cho tác giả có thê tạo ra một tác phẩm ‘thủ ấn họa’ đẹp mắt. 

3/. Họa sĩ xử lý khâu chuyển màu trước trên tờ giấy, như tô màu trộn bột điệp làm nền tranh, nhưng tá giả tô chuyển màu nhẹ nhàng rồi sau đó mới in tiếp theo bằng bản âm hoặc bản dương theo chủ ý của mình. 

4/. Trên mặt bản dương (lồi), họa sĩ tô và chuyễn màu không đều nhau theo ý mình. Thao tác này khác với kỹ thuật xưa là tô thật đều một màu trên bản in. 

Đặc biệt hình ảnh trong tranh của họa sĩ Tú Duyên có những sắc thái độc đáo. Tú Duyên có khuynh hướng tạo những đường cong khi hình thành họa phẩm nên gây được cảm giác lý thú cho người thưởng ngoạn về nét đan xen với nhau giữa một không gian được chuyển màu tinh tế nghệ thuật chan hòa nét sáng tạo.

                          (Nguyễn Thanh)   



Thi sĩ Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương 

Những thiên tài bạc mệnh của Sài Gòn xưa

Vũ Hoàng Chương lại đổi nhà một lần nữa. Lần này anh mướn nhà ở đường Nguyễn Khắc Nhu, ở gần nhà Bình Nguyên Lộc. Tuy được đi dự Hội Nghị Thi Ca Quốc Tế ở nước ngoài, có thơ dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiền kiếm được có thể mua một căn nhà bực trung nhưng họ Vũ vẫn đi ở nhà thuê. Vào các năm 1973 – 1975, vợ chồng anh được nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội mời về cho ở một căn gác tại toà biệt thự đồ sộ của bà.

Nói là cho ở nhưng họ Vũ phải trả tiền điện, tiền nước và tiền điện thoại. Anh đặt tên chỗ ở mới này là “Gác Mây”. Tôi và bạn bè đã có lần uống rượu với Vũ Hoàng Chương, nghe anh đọc thơ Tuy Lý Vương và phát hiện ra cái thôn Vỹ Dạ ở Huế đã đi vào thơ Hàn Mạc Tử không phải là Vỹ Dạ mà là Vỹ Dã (cánh đồng lau). 


Nhưng rồi Vũ Hoàng Chương cũng không an trú lại “Gác Mây” được bao lâu. Sài Gòn sụp đổ, bạn bè cách mạng của chủ nhân Mộng Tuyết vào ra thăm bà tấp nập; có lẽ thấy sự hiện diện của Vũ Hoàng Chương ở tại nhà mình có sự không tiện nên bà đánh tiếng để họ Vũ dọn đi. Phải đi thôi nhưng phải đi đâu? Anh đành dắt díu vợ con về tá túc tại căn nhà bé bằng bàn tay của bà quả phụ Đinh Hùng bên khu Khánh Hội. Đinh Hùng ra đi vào tháng 8 năm 1967, trước Vũ Hoàng Chương. Anh mất vì bệnh ung thư tại bệnh viện Bình Dân, an táng tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Đám tang trọng thể. Thuở sinh thời, Đinh Hùng từng viết trong thơ:

Khi tôi chết các em về đấy nhé
Cảm tấm lòng tri ngộ với nhau xưa
Tay cầm hoa, xõa tóc đến bên mồ…


Điều mong ước đó, kỳ diệu thay lại biến thành hiện thực: trong đám tang của anh người ta thấy có hai chục cô thiếu nữ mặc áo trắng, xõa tóc, tay cầm hoa lặng lẽ sắp hàng đi theo linh cửu. Họ đến bên mồ và lặng lẽ thả những bó hoa xuồng lòng huyệt, ngậm ngùi tiễn đưa người thi sĩ. 

      (Tô Kiều Ngân)



Những tác phẩm trong… sọt rác

Người bạn tôi, chỉ biết thấy giá trị những tác giả đã thành danh, không thấy được những hạt ngọc lóng lánh lăn ra từ những cõi viết còn vô danh chưa tên tuổi đã liệng đi cái hạt ngọc văn xuôi ấy là truyện ngắn Rượu chưa đủ, truyện đầu tay của một người trẻ tuổi mới viết văn bấy giờ là Dương Nghiễm Mậu. Hạt ngọc bị vất bỏ ấy và tôi đã tình cờ lượm được, đúng là một hạt ngọc. Bao năm rồi không đọc lại tôi chẳng thể nhớ hết từng chi tiết của truyện chỉ nhớ cái chàng nào đó với bút hiệu Dương Nghiễm Mậu đã có ở Rượu chưa đủ một đoạn văn kết thúc tuyệt hay. 


Đoạn văn tả người anh đến đón em ở viện mồ côi. Hai anh em cùng mồi côi cha mẹ từ sớm. Hai anh em đi lang thang một ngày trong thành phố, không có một đồng xu nhỏ. Buổi chiều, trước khi đưa em trở về viện, người anh dẫn em vào một công viên, yên lặng lấy đất đắp thành những mô hình sông núi quê hương, thầm nghĩ hai anh em trơ trọi giữa đời, thôi bầy trò chơi đắp hình, sông núi với em, để có được cùng em, dù một cách rất tội nghiệp buồn rầu, một ý niệm về điểm tựa, về nguồn gốc. Thật là chửng chạc và cũng thật là cảm động. 

Đó là truyện ngắn thứ nhất của Dương Nghiễm Mậu.

(Mai Thảo)


Đỗ Ngọc Yến giữa bạn bè - 1
Một thân hữu khác, nhà văn Thảo Trường lại có cách đánh giá khác về Ðỗ Ngọc Yến, qua bài “Mr Do Y.” với đầy cảm xúc:
“...Yến làm báo và hoạt động ở Sài Gòn từ trước 1975, nhưng tôi mới chỉ biết anh từ 1993. Mấy ngày đầu tiên sống trên đất Mỹ, tôi còn đang loay hoay lái xe thích nghi với đường sá và tốc độ lưu thông thì có điện thoại của Trần Dạ Từ, tôi đến nơi thì đã có Nhã Ca, Kiều Chinh, Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh, Ðỗ Ngọc Yến, họ đang bàn chuyện xuất bản thêm tờ tạp chí ngoài hai tờ báo Người Việt và Việt Báo Kinh Tế đang phát hành. Tạp chí Người Việt Thế Giới ra được 8 số rồi ngưng vì mọi người muốn dồn nỗ lực vào hai tờ nhật báo sẽ ra 7 số một tuần. 


Tôi nhớ Yến đã nói với tôi: Anh muốn làm việc ở đâu cũng được, bên này hay bên kia (NV hay VBKT) tùy ý anh thích. Yến ân cần với tôi như thế, nhưng tôi đã không có một ngày nào làm việc ở tòa soạn hai tờ nhật báo đó. Và cho đến bây giờ, 13 năm qua, tôi vẫn chỉ mò mẫm làm việc một mình với cái computer trong căn phòng ở nhà. Tôi đã không hội nhập được vào ‘dòng chính’ ở đây và tôi cũng không nhập cuộc nổi với nghề làm báo ở nước Mỹ. In như ngày xưa ở Sài Gòn, Việt Nam tôi cũng không nhập được vào nghề làm báo chuyên nghiệp. Tôi chỉ đứng ngoài gởi bài tới các báo kiểu 'cậy đăng'. Tôi đã đóng góp bài vở cho các báo của các bạn khi gần Tết bằng cách click một cái attachment. Trong khi đó, các bạn tôi bây giờ đã làm truyền thông với kỹ thuật cao, có người đang điều hành những công ty đa truyền thông phức tạp một cách thuần thục như... Mỹ.”

“Bệnh nhân room 206 đang thiêm thiếp là một người đã làm báo và đạt đến trình độ ấy. Nay anh lâm trọng bệnh. Nghe tin, tôi đến thăm. Nhưng anh ngủ bình thản.
“Chợt tôi để ý tới ở đầu giường có tờ giấy, nửa trên ghi tên bệnh nhân, nửa dưới ghi tên bác sĩ điều trị. Tên anh là Do Y. Vâng anh Yến, bây giờ với dòng chính anh đã là Mr. Do. Tôi sờ trán lấm tấm mồ hôi của anh, tôi nhìn gương mặt hiền hậu của anh. Chợt anh mở mắt mệt mỏi nhìn tôi hồi lâu sau anh gọi tên tôi, xong anh nói cám ơn...” (tr. 328-329)

(Vũ Ánh) 


Chữ nghĩa làng… nhậu


Z - Bui Xuan Phai_Ga say


Đắng cay chua ngọt đã từng
Anh mà bỏ rượu, em đừng có mơ

(tranh Bùi Xuân Phái)



Đỗ Ngọc Yến giữa bạn bè - 2
Hồi tôi làm Tổng Thư Ký tờ Người Việt, lâu lâu lại thấy ông Yến dẫn một người vào giới thiệu với tôi và yêu cầu sắp xếp một phần đất nào đó cho ông ta viết bài. Tôi cũng từng trải qua những kinh nghiệm nên cũng biết rằng ông chỉ muốn giúp người này hay người kia có đất dụng võ trong nghề nghiệp. Tôi hiểu lòng tốt của ông cho nên dù biết nhu cầu của tờ báo không cần, vẫn cứ phải cắn răng tìm “đất” để cho họ viết bài. Ðiều đáng nói nhất nơi Ðỗ Ngọc Yến là tính tốt ấy của ông được thể hiện rất thoải mái, chẳng chút bận tâm như lời tác giả Tiểu Quyên:
“Bạn bè thường gọi Yến là 'Bồ Tát mắt mờ' vì đôi kính cận quá dày. Có khi anh phải ‘lén giúp đỡ’ vài ba nhân vật mà những người cộng sự với ông cho là ‘họ khá nguy hiểm’. Dùng tiền túi để thuê nhà giúp một du học sinh bị bỏ rơi, ký giấy tờ bảo đảm cho người quen di cư từ xứ khác đến Mỹ, hoặc đưa một người đang cần việc làm vô tòa báo dù cho báo chẳng cần người... đều là những chuyện Yến thường làm rất thoải mái, chẳng chút bận tâm! Những cộng tác viên của anh trong ban trị sự chỉ đành 'kêu trời như bọng' trước những quyết định thuần tình cảm đó...” (tr. 348)

Tình cảm mà Ðỗ Ngọc Yến dành cho bằng hữu, dành cho những văn nghệ sĩ, dành cho tất cả những người có liên quan hay không liên quan đến nghề nghiệp của anh đã được nhà văn Thụy Khuê mô tả bằng những từ ngữ trang trọng trong bài “Anh Yến”:
“...Nhiều người đồng hóa anh chị Yến với báo Người Việt. Ðiều đó đúng mà cũng chưa hẳn như thế. Phải nói là báo Người Việt mang tinh thần của anh Yến (tất nhiên là cả chị). Anh tế nhị, anh luôn luôn đứng đằng sau để dặn dò đằng trước, bởi anh không quên điều gì, từ việc chọn những đóa hoa cho một người bạn từ phương xa đến, hay phải đưa đón những ai, kể cả khi anh không có đó, anh cũng đã lo lắng, chu tất hết mọi việc từ trước. Anh Yến dặn, anh Yến bảo như thế, như thế...”
(Vũ Ánh)



Trịnh Công Sơn với những khuất lấp

Trịnh Công Sơn bị nhiễm cái lạ trong thơ Bùi Giáng để nạp năng lượng cho ca khúc của mình. Theo Bảo Trúc nói, Trịnh Công Sơn đã mượn của Bùi Giáng một số câu hoặc ý thơ để viết nên những ca khúc rất hay. Vì thế có người dẫn chứng ở ca khúc “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”  họ Trịnh có lời hát như :


Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui

Chọn những bông hoa và những nụ cười

Tôi nhặt gió trời, mời em giữ lấy để mắt em cười tựa lá bay


Vài trích đọan từ cuốn Trong đống tro tàn

(đạo diễn Trần Văn Thủy)

Picture1


Cách đây không lâu Larry Berman, nhà sử học, nhà văn người Mỹ tới Hà Nội, mời chúng tôi tới dự buổi ra mắt bản dịch tiếng Việt cuốn “Điệp viên hoàn hảo” (Perfect spy) của anh ở phố Phạm Ngũ Lão.

Mọi người ca ngợi tác giả, tác phẩm, và nhân vật của cuốn sách. Tôi chỉ ngồi nghe thôi, nhưng lại là người được mời phát biểu sau cùng. Tôi đã nói vắn tắt những cảm nghĩ xung quanh cuốn sách đó và tôi không ngần ngại bày tỏ nghi ngờ sự trung thực của bản dịch. Trước hàng trăm quan chức quân đội, tình báo, nhà văn, nhà báo, máy ghi âm và máy quay phim tôi đã thưa một số điều mà tôi cho là cần thiết:

- Larry Berman! Anh đã kiểm tra lại bản dịch tiếng Việt cuốn “Điệp Viên Hoàn Hảo” của anh chưa? Ở nước Mỹ của anh không có bộ văn hóa, không có ban tuyên huấn, không có Hội Đồng Lý Luận Trung Ương nghĩ gì anh viết nấy. Còn ở đây, ở Việt Nam này có đầy đủ những thứ đó, bởi vậy, cho phép tôi được nói thật, cũng là một lời nhắc nhở anh: Tôi không tin bản dịch tiếng Việt tâm đắc của anh được in nguyên si như bản gốc. Tôi bảo đảm với anh là nó đã bị “Thiến” đi không ít chỗ, bị kiểm duyệt kỹ lưỡng. Tôi đã kiểm chứng trên Internet trước khi tôi tới đây chia vui với anh…


Bất ngờ là toàn hội trường vang lên tiếng vỗ tay to nhất và dài nhất của buổi giao lưu hôm đó. 


Bài thơ Qua Đèo Ngang

Trong Contes et Légendes du Pays d’Annam của Lê Văn Phát, viết năm 1913, có bài "Le Râle d’eau "  . Trong " Le Râle d'eau " lại có bài "Đèo Ngang", vô danh, rặt chữ Nôm, văn phong rất mộc mạc, còn nội dung thì giống hệt nội dung bài "Qua Đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan.


Bài  " Le Râle d’eau " kể chuyện ngày xưa. Chuyện vua La Hoa (?) nước Chiêm Thành đem quân đánh Giao Chỉ. Môt cận thần tên Quốc đã hết lời can gián và xin hoãn lại cuộc viễn chinh, nhưng nhà vua không nghe. Biết rằng trận chiến này thế nào cũng đem lại thất bại, Quốc xin theo, hầu quyết tâm bảo vệ an toàn cho chúa. Cuộc chiến xảy ra ở Đèo Ngang. La Hoa, quá hiếu chiến, quá chủ quan, tiến thẳng đến trận tiền, nên bị trúng tên mà chết. Quá đau đớn, Quốc liều xông ra chém giết giữa muôn tên ngàn giáo để báo thù. Nhưng đơn thương độc mã, nên Quốc đã chết dưới làn sóng của địch quân. Quá uất ức, hồn của Quốc không siêu thoát được, cứ phảng phất quanh Đèo Ngang để tìm xác chủ, nhưng vô hiệu quả. Sau đó Quốc tái sinh dưới dạng con chim Cuốc để đêm đêm rít lên những tiếng kêu bi ai của một vị trung thần khóc quốc vương tử trận: "Quốc Quốc, La Hoa ", Quốc ở  đây, còn La Hoa ở  đâu ?


Một văn nhân vô danh, đi qua Đèo Ngang, nhớ lại chuyện xưa, đã làm bài thơ "Đèo Ngang" :

Qua ải Đèo Ngang bóng ác tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen ba.
Non cao rải rác tiều vài lão,
Đất rộng lai rai xóm mấy nhà.
Nhớ chúa đau lòng con Quốc-Quốc,
Kêu người mỏi miệng tiếng Hoa-Hoa.
Dừng chơn ngóng cổ miền non nước,
Một tấm lòng riêng ta với ta. 


Vậy phải chăng bà Huyện đã lấy bài đó, đã có từ lâu, và trau chuốt lại thành một bài thơ bất hủ “Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà – Cỏ cây chen đá, lá chen hoa” như ta đã biết?
  
(Nguyễn Vĩnh-Tráng - Chimviet.free.fr)



Ai là tác giả Chinh Phụ ngâm diễn âm


01220328_hinh%206a

Phải chăng tác giả Chinh Phụ ngâm diễn âm hiện hành Nguyễn Thị Điểm?

Đầu thập niên 70, GS. Bùi Văn Nguyên, lúc này đang là Giảng viên Khoa Ngữ Văn trường Đại Học Sư phạm Hà Nội cùng GS. Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam về Hải Dương, gặp bố và chú của ông Nguyễn Trác Cách là Nguyễn Trác Thức và Nguyễn Trác Ngữ để hỏi cụ thể về việc dịch thuật của bà Nguyễn Thị Điểm. 


Các nhà nghiên cứu tìm đến gia tộc Nguyễn Trác thì điều không may là gia phả, sắc phong và cả ngôi nhà thờ họ năm gian mang tên Duy Ái Từ đã cháy trong kháng chiến. Tại đây, ông Nguyễn Trác Cách sinh năm 1936, trưởng tộc họ Nguyễn Trác đã kể lại các giai thoại văn chương giữa Nguyễn Trác Luân với em gái là Nguyễn Thị Điểm, ham học khi còn nhỏ và thường cùng anh xướng họa thơ văn. Các giai thoại này dòng họ ông vẫn lưu truyền và ông khẳng định chính bà Nguyễn Thị Điểm mới là tác giả của Tục Truyền Kỳ và bản dịch Chinh Phụ Ngâm. (1)


Sau đợt nghiên cứu, trên Tạp Chí Văn học, số 6 năm 1977, GS. Bùi Văn Nguyên viết bài “Bà Điểm nào trong hai bà Điểm, tương truyền có tham gia dịch một bản Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn”. GS Bùi Văn Nguyên cho rằng: Sự thật, có hai bà Điểm khác nhau (1), một bà họ Nguyễn, một bà họ Đoàn, hai bà sống đồng thời, ở cùng một vùng, nay là tỉnh Hải Hưng, đều có người anh trùng tên là Luân và đều giỏi văn thơ, pha nghề dạy học.

(Nguyễn Cẩm Xuyên)


(1) Nguồn của người sưu tầm Chữ Nghĩa Làng Văn: Bà Đoàn Thị Điểm (1705-1748), tổ quán ở Bắc Ninh. Bà là con ông Đoàn Doãn Nghi, tổ tiên vốn họ Nguyễn, sau đổi họ Đoàn.



Ngô Thì Sỹ với Tán Lý Thường 

Trước khi mất Ngô Thì Nhậm có làm bài thơ gửi Đặng Trần Thường nhắc lại chuyện của Hàn Tín sau khi công thành thì bị Hán Cao Tổ Lưu Bang khiến vợ là Lã Hậu giết ở cung Vị Ương:


Ai tai Đặng Trần Thường            Thương thay Đặng Trần Thường

Chân như yến xử đường             Tổ yến nhà xử đường 

Vị Ương cung cố sự                     Vị Ương cung chuyện cũ

Diệc thị như thu trường.              Khó tránh kiếp tai ương. 

(Ngô Thì Nhậm)                           (Phan Thượng Hải dịch)


Ông Đặng Trần Thường (1759-1813) làm đến Binh Bộ Thượng Thư sau bị vua Gia Long giết (1813) đúng như bài thơ tiên đoán của Ngô Thì Nhậm (1746-1803) mười năm về trước. Trước khi chết, ông có làm “Hàn Vương Tôn Phú” tự ví mình với Hàn Tín, có lẽ ông nhớ lại bài thơ khuyên của ông Ngô Thì Nhậm. 

(Kể chuyện câu đối Việt Nam - Vũ Xuân Đào)



Khoa cử thời xưa

Danh vị


Quan Vo

(quan võ thời nhà Nguyễn)


Đốc Đồng: Thời nhà Trần đặt 1631 đặt quan võ (như thi tiến sĩ) làm Trấn quan các trấn (thời Lê Trịnh là Đô ty). 

Và một viên quan văn làm Đốc Đồng trông coi việc xử án.

Đô Đốc: Lê Thánh Tôn đặt võ quan trông coi việc bảo vệ kinh đô

Đề Đốc: võ quan phụ trách việc binh bị ở một tỉnh lớn (tỉnh nhỏ là Lãnh Binh)

(Tiến sĩ Nho học Thăng Long Hà Nội - Bùi Xuân Đính)



Đền Ngọc Sơn

Qua Đài Nghiên là đến cầu Thê Húc, đầu cầu bên kia là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) tức cũng là cổng đền Ngọc Sơn. Đền là nơi thờ Văn Xương, Quan Vũ, và Trần Hưng Đạo.

Năm 1882, sau khi cầu vào đền Ngọc Sơn bị đốt, người ta sửa chữa, lát ván dọc theo cầu để cho dân chúng vào lễ. Trong cuốn Hà Nội và Những Vùng Phụ Cận của Claudius Madrolle xuất bản năm 1892, tác giả viết: "Cầu Thê Húc được trùng tu vào năm 1888 để thay thế chiếc cầu ọp ẹp. Nó được thay bằng một chiếc cầu gỗ sơn màu đỏ có dáng uốn cong như cầu vồng".


Tết 1952, người dân đi lễ đền quá đông và cầu Thê Húc bị sập. Thị trưởng Hà Nội lúc đó là Thẩm Hoàng Tín đã cho phá bỏ cầu cũ, xây cầu mới. Để có thiết kế đẹp, ông tổ chức cuộc thi thiết kế mẫu và trong hơn ba chục mẫu của các kiến trúc sư cả Pháp lẫn Việt tham gia, thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Diệm được lựa chọn.


 CauTheHuc

Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Diệm (1908 –1999) tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương năm 1939.

(Phạm Vũ - Hà Nội 36 phố phường)



Ngọc Sơn Từ

Theo sách Tang Thương Ngẫu Lục của Phạm Đình Hổ thì cũng chẳng có cung Thụy Khánh của chúa Trịnh trên cái gò đất cách bờ mấy trăm thước, rộng bốn, năm sào mà xưa kia gọi là Tượng Nhĩ Sơn, tức núi Tai Voi. Gò có một gian miếu nhỏ bằng nứa lợp tranh thờ Hà Bá. Vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long đổi tên là núi Ngọc Tượng. 


Ho-Hoan-Kiem-Ha-Noi 2

(lối vào Ngọc Sơn tự)


Thời chúa Trịnh, người Hoa Kiều xin phép sở quan, dựng ngôi đền nhỏ thờ Quan Công. Minh Mạng năm 1838, xây cất thêm đền thờ Đức Thánh Trần, Lã Đồng Tânđiện Văn Xương Đế Quân, ngôi sao chủ cho việc văn chương khoa cử, nơi các thầy đồ sau này thường tới xin sâm trước khi đi thi và được đặt tên là Ngọc Sơn Từ trên đảo Ngọc Sơn nên được gọi là đền Ngọc Sơn


Chửi mất gà ở Huế

Hôm qua tau mất con gà mái dầu khoang cổ. Hôm ni tau mất con gà mái nổ khoang bông. Con mô bắt là gái trốn chúa lộn chồng. Thằng mô bắt là ba đời đi ở đợ... Tụi bay hãy vén mái tai, gài mái tóc, chống cửa ngõ cho cao, chặt hàng rào cho thấp mà nghe tao chửi... Bay ăn cho chồng bay sợ, cho vợ bay kinh. Bay ăn cho ngã miếu sập đình, cho mồ cha bay chết hết để một mình bay ăn


Văn hóa ẩm thực

Bánh chưng, bánh tét, bánh dày, xôi và cốm

Sự tích suy nguyên về bánh chưng và bánh dày mà ngày nay chúng ta đều biết và xác tín là do Tiết Liêu/ Lang Liêu - một trong các người con của vua Hùng - làm ra là câu chuyện được ghi chép trong Lĩnh Nam Chích Quái (thế kỷ XV).
Truyện kể rằng: Sau khi vua Hùng Vương phá được giặc Ân (nhà Thương) phán rằng: “Ta muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý, cuối năm nay mang trân cam mỹ vị đến để tiến cúng tiên vương cho ta được tròn đạo hiếu thì sẽ được ta truyền ngôi”.


Thế là các con đều đua nhau đi tìm của ngon vật lạ khắp trên cạn dưới bể. Duy có vị công tử thứ 18 là Tiết Liêu, bà mẹ trước kia vốn bị vua ghẻ lạnh, ít người giúp đỡ, khó xoay xở, nên đêm ngày lo lắng. Một đêm kia mộng thấy thần nhân tới nói rằng: “Các vật trên trời đất và mọi của quý của người không gì bằng gạo. Nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng trưng hình đất và trời

(Huỳnh Ngọc Trảng)


Tản mạn về tiếng Việt 

Chiếc

Chiếc lá, chiếc khăn, chiếc gối, chiếc nón, chiếc bánh, chiếc máy bay, chiếc phi cơ, chiếc đồng hồ, chiếc đũa, chiếc giầy, chiếc xe và con xe, như thường gọi con thuyền, con tầu.... Nhưng không ai gọi thế, mà cứ gọi là chiếc. 


Tôi xuýt quên: Còn chiếc bóng nữa. Và đây mới là điều quan trọng. Và 2 từ chiếc bóng thường đứng trước hai chữ lẻ loi. Điều này nhắc chúng ta rằng trong chữ chiếc, có hàm ý không có đôi. Cho nên đáng lý ra chỉ những thứ gì có đôi mới nên dùng mạo từ chiếc, khi nó thiếu đôi. Chiếc bóng lẻ loi vì chỉ có một người hoặc góa vợ, góa chồng. Cũng như giầy phải có đôi, dép phải có đôi, đũa phải có đôi. Khi nói chiếc đũa, chiếc giầy, chiếc dép là có ý chỉ đũa, giầy, dép lẻ loi, dép nửa đôi.

(Minh Võ)


Thăm Bà Cả Đọi

Sài Gòn thiếu gì hàng cơm bình dân, chắc chắn một phần lý do khiến nhiều người thích lui tới hàng bà Cả chính vì vẻ tươi tắn, đôn hậu, chính vì lối trò chuyện từ tốn, chân thật của bà chủ quán, hoàn toàn không giống như tính cách của bà chủ hàng cơm mà các tiểu thuyết ưa mô tả là lanh lẹn và đanh đá.

Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt không khỏi mỉm cười khi câu chuyện nhắc tới quán cơm bà Cả Ðọi ngày nào:

– Ðám nhà báo không hiểu sao rất thích bà Cả. Tòa soạn báo Sống nằm trên đường Lê Thánh Tôn, trưa nào Chu Tử cũng kéo anh em đến đó ăn cơm.

Nhà thơ nghĩ một lúc rồi xòe tay đếm.

– Có Anh Quân, Tú Kếu, Nguyễn Thụy Long (1), Trần Tuấn Kiệt…

Ông tỏ vẻ ngạc nhiên.

– Cái quán thì nhỏ xíu, có mỗi một gian phòng, tới giờ nghỉ trưa ai cũng ùa đến, ngồi chen chúc đụng cả vào nhau ồn ào.


Quả vậy, gian phòng không rộng lắm, khi đông quá, khách phải leo bậc thang gỗ ở gian trong để lên ngồi trên lầu. Hẳn là sự đông đúc náo nhiệt cũng là một yếu tố thu hút khách và giới làm báo có thói quen đến đấy tụ tập, một số chọn như là chỗ đóng đô nên chắc chắn cứ tạt qua gặp mặt đủ cả. Quán cơm bà Cả Ðọi là chỗ họp mặt văn nghệ như La Pagode, như Thanh Thế…


Bà Cả tỏ vẻ vui thích khi kể:

– Cậu Trường Kỳ lần nào về Saigon cũng ghé tôi chơi, có cả cậu Jo Marcel, cậu Tùng Giang…

Bà hay nhắc tới tên Trường Kỳ vì ngày xưa chính anh là người đã bỡn cợt gọi quán cơm của bà là quán “Bà Cả Ðọi.”  (1) Cứ khi cạn túi, hết tiền thì ghé đấy ăn bữa cơm vừa rẻ, vừa ngon vừa no. 

Giới văn nghệ có cảm tình đặc biệt, quán được nhắc đến đây đó trên báo luôn tới nỗi về sau thành chết tên.

“Cả” chứ không phải “Hai”

(Nguyễn Thị Hàm Anh)


(1) nhiều nguồn khác: Nguyễn Thụy Long đặt tên “Bà Cả Đọi”


Chuyện lông rùa sừng thỏ 

Tôi gặp một ông người Hoa hỏi: Người Tầu nói 80 phần trăm dân Tầu theo đạo Phật, nhưng tôi thấy người Hoa các tỉnh cục nam thờ bà Quan Âm Nam Hải, bà Mã Hậu, và nhất là Quan Vân Trường. Vào các chùa Tầu, gọi là chùa nhưng chỉ thấy thờ Quan Vân Trường chứ có thờ ông Thích Ca đâu


Tôi hỏi lại thì người Hoa nói: Ông Thích Ca ai mà thờ làm chi. Người ta tới chùa là cầu phước lộc chứ có ai thờ mấy ông: Không, Không, Không (sắc tức thị không…) Người ta muốn danh hanh thông, lợi phát tài… mà mấy ông cho chữ không thì… mời ông đi chỗ khác chơi… Người Tầu quả là người thực dụng nhất. Tôi không thực dụng như thế nhưng đọc những “Công Án“ của các cao tăng Đường, Tống không đã bằng đọc “góp nhặt cát đá“ của một thiền sư Nhật Bản.

Chuyện chiêm bao nghe cũng thơ mộng đấy nhưng chỉ nên nghe trong lúc chiêm bao mà thôi.

(Chân Diện Muc)


Những vai phụ “láy”, “đệm” trong ngôn ngữ Việt 

Những "từ đệm", qua đó, dần dà có được "bản sắc". 

Nhóm chữ "bản sắc" được nằm trang trọng trong ngoặc kép, vì chúng chỉ có "xác" mà không có "hồn", có "chữ" mà không có "nghĩa" (ngoại trừ những trường hợp được lặp lại). Là chiếc bóng đơn điệu, dị dạng, vô ngũ quan của tính từ chính: qua những thí dụ nêu trên là "ngăn" của "ngắn", "xanh" của "xanh", "xam" của "xám", "ngòn" của "ngọt", "mằn" của "mặn" và "khen" của "khét". Căn cứ theo đó, tôi (đã) mạo muội và liều lĩnh đi đến kết luận:


a/ Cho các tính từ có thanh bằng, không dấu và dấu huyền, "từ đệm" được lặp lại y hệt, thơm thơm, xa xa, vàng vàng, bùi bùi, …

b/ Cho các tính từ có thanh trắc: "từ đệm" được lặp lại y hệt, hoặc lặp lạkhông dấu cho thanh sắc, thanh hỏi và thanh ngã, 

thí dụ: sướng sướng hoặc sương sướng, 

tửng tửng, tưng tửng,

 khẽ khẽ hoặc khe khẽ…


Và với dấu huyền cho thanh nặng,

thí dụ: nặng nặng hoặc nằng nặng, 

chậm chậm hoặc chầm chậm, 

nhọn nhọn hoặc nhòn nhọn, …


(Ngô Nguyên Dũng)


Chữ nghĩa làng văn

Một số từ ngữ cổ hiện nay vẫn còn dùng


Bếp núc

– Bếp là nơi nấu ăn;

Núc là ‘đồ đắp bằng đất thường làm ra ba hòn, có thể bắc nồi nấu ăn’, cho nên có thể hiểu núc chính là ông Táo. (theo Huỳnh Tịnh Của, Đại Nam quốc âm tự vị).

(Nguyễn Lương Thịnh)



Cua cáy phiếm lược - cua dẹp


5   

 
Cua dẹp, ở Cù Lao Chàm gọi là cua đá. Đây là loài cua cạn lớn thứ 2 ở nước ta, sau cua xe tăng chỉ có ở Côn Đảo. Vùng phân bố của chúng thường là khu vực rừng núi ven biển ở các đảo, nơi có nhiều hang hốc đá nên cũng có tên là… cua đá.


Phụ bản: 

Trên Cù Lao Chàm có miếu ông Bổn, tức Thái giám Trịnh Hòa (1371-1435). Trong chuyến hải hành qua Trung Đông (ông này gốc Ả Rập) ghé Cù Lao Chàm. Trong hải hành ký, ông viết về mít thành Bình Định mà ông kêu là Vaja. Ốc tai voi trên đảo Ốc Tai Voi ở nam Hoàng Sa, trong bụng có nhiều hạt châu đen to bằng trái hột gà mà cụ Lê Quý Đôn gọi là huyền châu. Nhưng không thấy ông ‘’nhắc nhớ” đến con cua đá. 


***

Cua đá là một loài cua đất lớn thuộc chi Gecarcoidea. Loài cua này mai màu tím sậm, chân dài và càng ngắn. 


2


Nó là loài động vật ăn đêm, ban ngày trú ẩn trong hang. So với loài cua đỏ đảo Christmas Gecarcoidea natalis, cua đá có vùng phân bố rất rộng trong vùng Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, từ quần đảo Andaman trở về phía đông. Ở Việt Nam, cua đá có tại vùng Lý Sơn, Cù Lao Chàm, ở các hòn Lao, hòn Giai, hòn Ông, hòn Là và hòn Mồ; trong đó, hòn Lao là nơi cua đá có nhiều nhất.

Đơn giản như đan rổ, có thể nói, cua đá đã trở thành một món ăn dân dã, "đặc sản" của Lý Sơn. Lý Sơn là hòn đảo duy nhất của Quảng Ngãi, nằm về phía Đông Bắc, cách đất liền 15 hải lý. Hòn đảo là vết tích còn lại của núi lửa với 5 miệng, được hình thành cách đây 25-30 triệu năm. Tuy môi trường sinh sống chính là rừng và suối đá, nhưng đến mùa sinh sản, cua dẹp thường “rủ nhau” di cư xuống những vùng biển nông quanh đảo, nơi có nhiều bãi đá nửa nổi nửa chìm để đẻ trứng, và khi trứng nở, cua con lại lần tìm về với rừng để sinh trưởng và phát triển, kết thúc một vòng đời của mình.


Mỗi con cua dẹp trung bình chỉ lớn bằng nắm tay, và có màu sắc rất ấn tượng, mai và các chi màu nâu tím, phần bụng dưới ngả màu vàng ươm. Chúng rất khoẻ, chạy nhanh, và thường chỉ lú đầu khỏi hang khi đêm xuống để đi ăn. Đó cũng là lúc những cư dân trên đảo đi săn cua. Một thợ săn cua cho biết, đi săn mà gặp 10 con, bắt được 4 - 5 con là nghề lắm rồi. Cũng do cái “tội” nhanh chạy, dẻo dai, leo núi khoẻ, lại chuyên “ăn chay” nên thịt cua dẹp rất ngon, từ cái nước luộc cua đã đượm vị ngọt nhẹ, dịu thanh, thịt cua dai hơn hẳn cua biển, cua đồng, không chút mùi tanh. Giở ngược cái mai cua, xé một đường, con cua mới luộc còn hơi nóng, phả làn khói nhẹ từ phần thịt nằm dưới mai, xông lên mũi phảng phất thơm mùi cua….


Theo người dân đảo Lý Sơn, cua dẹp rửa sạch rồi để nguyên con chế biến, ăn sẽ ngon hơn. Đơn giản nhất là nướng và hấp bia, phức tạp một chút thì xào me, cháy tỏi. Chất lượng thịt và gạch của cua đã đủ để làm nên độ ngon, không cần phải chế biến nhiều. Cua dẹp có màu tím; khi chín thì chuyển sang màu gạch tuyệt đẹp và thơm lừng.


Có thế biến bằng cách đốt đống lửa to, đợi khi than củi rã ra là ta cho từng con cua lên nướng. Nướng kiểu này không có gia vị nhưng khi con cua chín có mùi thơm ngầy ngậy. Cua hấp sả cũng là một món ngon tuyệt. Món này phải làm số lượng nhiều và có nhiều người cùng ăn mới... khí thế. Mùi cua thơm lừng, to khỏe thật nhưng chả thấy cua dẹp… dẹp ở cái khổ nào? Dẹp bao nhiêu, mấy ly? Hay cua dẹp vì… “ăn chay”?


Ẩm thực miền Bắc

Nhắc tới ẩm thực miền Bắc là nhắc tới cốt cách, tinh hoa văn hóa ẩm thực lâu đời. Do đó, món ăn miền Bắc dung dị mà tinh tế, được sàng lọc, trở thành chuẩn mực không dễ thay đổi. Văn hóa ẩm thực miền Bắc kết hợp hài hoà, hương vị vừa phải, không quá chua, không quá cay, không quá mặn và không quá nồng. Đặc trưng ẩm thực miền Bắc luôn đề cao tính đạm bạc, thanh tao, tinh túy trong món ăn. Đến với ẩm thực Bắc Bộ bạn sẽ được khám phá những món ăn ngon đặc sản riêng từng vùng.


Phở Hà Nội - 1

Phở là món ăn đặc của miền Bắc.


Ẩm thực miền Bắc, tinh hoa văn hóa ẩm thực lâu đời  - Ảnh 2.  Ẩm thực miền Bắc, tinh hoa văn hóa ẩm thực lâu đời  - Ảnh 1. 


Phở có phở bò, phở gà, nước dùng được ninh từ xương lợn hoặc xương bò, cùng gia vị gừng, hồi, uqees, thảo quả, hành khô nướng, đinh hương, hạt mùi, sá sùng tạo nên hương vị thơm ngon đặc biệt.

Bánh phở được làm theo kiểu truyền thống từ bột gạo, tráng mỏng, cắt sợi, ăn dai dai. Để có được bát phở ngon phải tùy thuộc vào tay nghề, kinh nghiệm, bí quyết riêng của từng người. Trong đó, quan trọng nhất là cách nấu nước dùng ngon.

(Hằng Nga)



"Ông Văn Nghệ" Võ Thắng Tiết 

Ông không giữ lại tên Lá Bối vì cái tên này, theo ông, sau cuộc đổi đời tại miền Nam đất Việt, đã không còn thích hợp với tình cảnh lưu vong của người Việt tại hải ngoại. Ông đã chôn dưới biển sâu pháp danh Từ Mẫn thì cái tên Lá Bối cũng không nên tồn tại. Ông bắt đầu một giai đoạn mới trong đời ông. Ông bộc bạch: “Tôi nghĩ ở hoàn cảnh mới, giai đoạn mới, nên chọn một cái tên mới thì thích hợp hơn”. Cái tên mới của nhà xuất bản trích ra từ tên tạp chí “Văn Học Nghệ Thuật” của hai ông Võ Phiến và Lê Tất Điều. Tờ báo này, khi trao lại cho nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã đổi tên thành “Văn Học”.


Khi ông Võ thành lập nhà xuất bản Văn Nghệ thì ông Thành Tôn nhất định phải tiếp tay, Ông “Bụt Sách” đã tái xuất giang hồ thì ông “Đạo Sách” làm sao mà ngồi yên được. Thành Tôn, ngoài giờ đi làm kiếm cơm, đã lăn lộn giúp ông Võ Thắng Tiết không quản công lao. Mỗi lần tôi qua chơi Cali, leo lên xe ông Thành Tôn, thế nào cũng có màn ghé tiệm sách Văn Nghệ. Ông Thành Tôn kết với nhà sách như thế nào thì tôi ở cũng la cà trong tiệm chẳng kể giờ giấc. Hai ông bị sách hớp hồn coi sách như những vật trân quý nhất trên đời. Trân quý nhưng không giữ riệt. Khi chở sách trên xe, dừng xe nơi nào, ông Võ cũng không khóa cửa xe. Ông không sợ bị trộm sách. Nếu may gặp tên trộm sách phải mừng vì người đó còn quý sách! Quý sách là đức tính số một của ông Văn Nghệ. Sau này khi ông đã gác bỏ nhà xuất bản, ngụ tại một phòng trong nhà Nguyễn Mộng Giác, tôi thường hay gặp ông. Biết ông mê sách, mỗi khi xuất bản cuốn nào, tôi đều nhờ Thành Tôn mang hai cuốn tới tặng Giác và ông. Một lần ông nói riêng với tôi: “Anh gửi một cuốn là được. Tôi đọc chung với anh chị Giác. Cuốn kia anh tặng cho ai biết quý sách. Hai cuốn uổng quá!”.


Nhà xuất bản Văn Nghệ mở hàng in cuốn hồi ký “Đời Viết Văn Của Tôi” của Nguyễn Hiến Lê. Chắc để ghi lại mối duyên văn nghệ giữa hai người nay đã hai phương cách biệt. Cuốn này đã phải tái bản vì bán rất chạy. Nhưng cuốn hồi ký bán chạy kỷ lục là cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày" của Vũ Thư Hiên được in vào năm 1997. Sách bán chạy tới ngỡ ngàng. Chỉ 15 ngày sau khi phát hành đã phải tái bản! Ông Võ cho biết: “Nó như một phép lạ, chưa từng xảy ra ở hải ngoại cũng như ở trong nước trước đây”.

(Khuyết danh)



Hội An

- Những người Âu đầu tiên tới nước ta là người Bồ Đào Nha khoảng năm 1516.

- Năm 1524, thương nhân Bồ Đào Nha là D. Coenlo đã đến Hội An. Năm 1535 A. de Pharia ghé thuyền đến đây và viết: “Một thành phố lớn có tường bao quanh hàng vạn nóc nhà”.



Phỏng vấn nhà văn Song An Hoàng Ngọc Phách

- Tôi sinh ngày mồng mười, tháng ba, năm 1898, tức là ngày 18 tháng hai năm Mậu Tuất ở làng Đông Thái, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhiều thế hệ, nhà tôi vẫn giữ được cái cựu truyền về khoa cử và văn học. Vỡ lòng, tôi học chữ nho với các ông tú, ông cử trong làng là chỗ chú bác anh em thân thuộc.


Năm 13 tuổi, thấy sự học chữ Tây đã thịnh mà trong lúc ấy thì chữ nho còn trọng dụng lắm, tôi ra Bắc bắt đầu học chữ Pháp ở một trường tư ở ấp Thái Hà. Trường của cụ Bùi Đình Tá, một trường tư rất lớn, có một đặc sắc là học trò hầu hết, nếu không phải là ông ấm thì cũng là con một nhà giầu về thời bấy giờ. Mới vào, tôi chỉ là một cậu bé nhà quê còn để chỏm bên những ông học trò có búi tóc, có râu ria. Phần nhiều là lưu học sinh, sáng đến các ông còn được người nhà đem vào trường cho cái điếu và ấm nước trà tầu để các ông “điểm tâm”. Tối đến có ông mở cửa đi tiêu khiển ở phố ấp.

Nói thế, ông chớ tưởng trong trường quy củ không được trọng, sự học không được tấn tới. Cụ đốc Tá và mấy cụ giáo khác, thuộc phái tân học mà có vẻ nho phong, rất đạo mạo và tận tâm nên học trò kính sợ lắm.


Riêng về sự học của tôi, thấy rất tấn tới. Sau hai năm, tôi đã vượt mấy lớp, kể cả lớp nhì - hồi bấy giờ không có học bạ, không có hạn một năm mới lên lớp.

Sau tôi ra học lớp nhất trường Hàng Vôi, tức là trường Nguyễn Du bây giờ, cùng một lớp với Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu. 

(Lê Thanh)


Năm 1943, nhà phê bình Lê Thanh (1913-1944) có phỏng vấn 8 nhà văn, nhà nghiên cứu vào thời điểm đó, là Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Đôn Phục, Ngô Văn Triện, Hoàng Ngọc Phách, Vũ Đình Long, Tú Mỡ và Đào Duy Anh. Sau ông in thành cuốn sách có tựa đề “Cuộc Phỏng Vấn Các Nhà Văn” do Nhà xuất bản Đời Mới, Hà Nội, ấn hành năm 1943.


Đây là cuốn sách không chỉ thể hiện phong cách phỏng vấn hiện đại, chiều sâu của Lê Thanh mà là nguồn tư liệu quý cung cấp những thông tin rất chuẩn xác về cuộc đời, sự nghiệp cũng như nhận định của các nhà văn được phỏng vấn về thế cuộc và văn chương, lịch sử lúc bấy giờ.


Bà la sát

La sát chính ra là La-sát-bà (Rakshasa) trong tiếng Phạn là quỉ ăn thịt người, ta quen gọi là bà La Sát.

Chằn là con tinh cũng ăn thịt người, như Thạch Sanh chém chằn. Chằn tinh theo tự điển Lê Văn Đức là con quỉ, con tinh chằn, là người đàn bà mặt mũi xấu xa, cự kỳ hung dữ.

Chằn luôn luôn là đàn bà, không bao giờ là ông.

(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)


Chừng nào tôi bỏ rượu thì bỏ thơ luôn

Nhà thơ Thanh Thảo nói về rượu với Văn Cao trên số báo Văn Nghệ ra ngày 16-11-2013 rằng: Nói tới Văn Cao, ngoài những chuyện tài (năng) và tai (nạn) của ông, người ta còn hay nói chuyện Văn Cao uống rượu. Nhưng theo tôi, nói “Văn Cao uống rượu” có vẻ chưa được ổn, mà nên nói đơn giản “Văn Cao rượu”. 

Vì, rất nhiều lần được ngắm Văn Cao uống rượu, tôi rất ít khi thấy ông uống, mà là thấy ông ngồi thiền trước chén rượu. Lặng lẽ. Người ta nói những người uống rượu như thế là những người “mượn rượu”, không phải chuyện mượn rượu giải sầu, mà là mượn cái không khí rượu, dù là không khí ngoài quán hay trong nhà để ngẫm ngợi cái gì, chuyện trò tương tác những gì với bạn bè anh em, hay cô đơn du hành trong tâm trí tới những vùng xa lạ nào của tâm tưởng. 

Đúng là rượu gắn bó với phần lớn cuộc đời Văn Cao, nhất là trong khoảng 40 năm cuối đời ông. Nhưng vì “rượu” theo kiểu riêng của ông như vậy, nên thực ra lượng rượu trong người Văn Cao không nhiều. Có những buổi Văn Cao chỉ ngồi trước độc nhất chén rượu, chỉ ngồi im nhìn chén rượu. Nhưng kỳ lạ là khi Văn Cao uống rượu theo kiểu của ông, thì cách “rượu” của ông không hề làm mất hứng bất cứ ai trong bàn rượu. 

Cái nét có thể gọi là đẹp, bây giờ người ta hay gọi là “văn hóa” trong chiếu rượu của Văn Cao, là ông biết chờ bạn rượu, biết lắng nghe người khác nói, và khi tới lượt mình, thì kể chuyện đời một cách nhẹ nhàng, và tuyệt đối không khoe khoang. Nghe Văn Cao bên chén rượu nói chuyện hay kể chuyện rất thích, vì ta có cảm giác một không gian thân mật ấm cúng bao phủ cả chiếu rượu, len lách vào từng người uống rượu, và ngay khi nghe Văn Cao kể chuyện, thì những chuyện buồn, những chuyện đau của ông vẫn lâng lâng. Người như thế không biết oán thù, không sân hận, nhưng bao giờ cũng biết nhớ, nhớ một cách rõ ràng, chính xác từng chuyện một xảy ra với mình trong đời. 

(Trần Thanh Phương)


Gỏi đu đủ bò khô


đĩa khô bò đu đủ II


Tôi phải nói thêm là, những ngày hoa mộng đó, tôi thường không bỏ về sau khi vét hết vài đĩa gỏi bò khô mà còn một chuyện luôn luôn chẳng bao giờ đãng trí. Đó là phải xếp hàng uống bằng được một ly nước mía Viễn Đông. Ly nước mía mát lạnh, vắt thêm trái tắc, uống vào tới đâu biết tới đó. Đó là một kết thúc hoàn hảo cho một buổi rong chơi với quà rong.


Tôi muốn kết thúc bằng một tiết lộ nho nhỏ. Bà chủ nước mía Viễn Đông hiện sống ở thành phố Montréal chúng tôi. Tôi có gặp bà một lần, chưa tiện hỏi về cửa hàng nước mía huyền thoại ngày đó thì mất liên lạc với bà. Thiệt đáng tiếc! Tiếc như gan ruột cồn cào khi nhớ lại những ngày hoa mộng đẹp đẽ đó. 

05/20212

(Song Thao)


Chữ nghĩa làng văn

Nguyễn Huy Thiệp

Thiệp có tài bịa chuyện như thật. Không phải chỉ trong văn, trong đời sống cũng vậy. Thiệp viết thì hay, nhưng nói chuyện không hấp dẫn lắm. Anh có tật nói lắp. Người đen, có vẻ phong trần

Hình như càng ngày, Thiệp càng cố tình tạo ra trong tác phẩm của mình những cảnh đời quái đản, tăm tối, với những con người, từ thế xác tới tâm hồn, như chui từ bùn rác, cống rãnh lên. Một thái độ hư vô chủ nghĩa, nhạo báng tuốt, nói ngược lại tuốt, cố tình gắn cái cao cả với cái thấp hèn, cái to tát với cái bé mọn, cái trinh trắng với cái bẩn thỉu tục tĩu... Một thứ nihilisme – Dieu est mort kiểu Nietzsche. Hành văn theo lối phán truyền của Nietzsche (style parabolique). 

Hình như Thiệp có hứng thú (và có sở trường) ném ra những lời như sấm ngôn, như thánh phán, với những mệnh đề triết lý tù mù, bí hiểm, có thể suy ra nhiều nghĩa. Tôi ngờ rằng, chưa chắc Thiệp đã có tư tưởng gì thật sự nên mới làm ra thế để loè thiên hạ, đồng thời che giấu bản chất còn mù mờ của tư tưởng mình.

(Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh)



Trần Văn Thủy – Trịnh Công Sơn

Và từ đó, từ 1982 bắt tay vào “Hà Nội trong mắt ai”, “Chuyện tử tế”… tôi có cách “viết kịch bản” hoàn toàn khác. Những gì chung chung, lớt phớt, vô thưởng vô phạt, tôi viết ra đầy đủ, mạch lạc và trình với cấp trên. Nghĩ lại khi viết kịch bản về Trịnh Công Sơn, tôi thật ngây thơ đến ngớ ngẩn. Trong Nam, Trịnh Công Sơn còn phải tập trung đi đào đất để chỉnh đốn lại tư tưởng (cải tạo) (*) mà tôi ngồi ở Hà Nội viết kịch bản xin làm phim để ngợi ca Trịnh thì tôi ngu muội, u mê đến cùng cực. May mọi chuyện rồi cũng qua đi. 


(*) nhạc sĩ Trần Long Ẩn đã kể lại rằng đã có một cuộc họp kiểm điểm TCS trong căn cứ MTGPMN trước 1975 với thành phần tham dự gồm có hầu hết các văn nghệ sĩ thoát ly theo MTGPMN như: Tôn Thất Lập, Trần Long Ẩn,… dưới sự chủ trì của ông Trần Bạch Đằng.

(Trịnh Công Sơn & tham vọng chính trị - Trịnh Cung) 


(Phạm Phú Minh)


Tiểu sử: Trịnh Công Sơn sinh ngày: 28-2-1939 tại Lạc Giao. Chính quán: Minh Hương. 

Mất lúc ngày 1-4-2001 an táng tại Nghĩa trang Gò Dưa, Bình Dương. 

Tác phẩm: Ướt mi, Biển nhớ, Lời buồn thánh, Hạ trắng, Tuổi đá buồn, Nắng thuỷ tinh, Chiều một mình qua phố, Xin mặt trời ngủ yên, Ca khúc da vàng, Như cánh vạc bay, Cỏ xót xa đưa,…



10 câu nói của Tào Tháo


10 câu nói nổi tiếng nhất của Tào Tháo vẫn còn giá trị cho đến ngày nay


“Phàm những chuyện đại sự trong thiên hạ nên về nhà 

hỏi vợ, vợ bảo sao cứ làm ngược lại. Ắt là thành công”


(Sưu tầm và biên soạn: Huy Phương)


***

Phụ đính 


Và nhiều nẻo bún ngon tại đất phương Nam 

Theo bước chân mở cõi của tiền nhân, hàng loạt quà bún truyền thống của miền Bắc và miền Trung cũng dần phổ biến ở miền Nam với ít nhiều thêm thắt biến cải nhằm thích ứng thuỷ thổ. Hiện thời, vi vu các tỉnh từ miền Đông xuống miền Tây Nam Bộ, đâu đâu bạn cũng dễ dàng gọi tô bún bò giò chả Huế. Trần Kiêm Đoàn viết: "Bún bò Huế càng tiến về Nam càng được thêm thắt, chỉ cần vượt đèo Hải Vân vào Đà Nẵng là đã đổi khác: tô lớn hơn, mỡ màng và thịt, gân, rau hành nhiều hơn. Bún Huế tiến vào Sài Gòn thành tô 'phở bún' xe lửa tàu bay với nước béo, rau sống, giá sống, thịt chả ê hề. Chính bún bò mụ Rớt Huế vào Nam cũng đã chuyển mình thành bún bò mụ Rớt Nam Bộ". 

Tình hình cũng diễn ra tương tự đối với các món bún Bắc trên hành trình Nam tiến: bún riêu, bún chả, bún ốc, bún măng, bún vịt, canh bún, v.v. Tính chất Nam hoá thể hiện qua lắm chi tiết cụ thể: rau củ quả sum sê hơn (nhất là rau sống và giá sống), thịt cá ngồn ngộn hơn, béo hơn, ngọt hơn. 

Sản phẩm bánh hỏi, một dạng bún mảnh sợi và thường được xén thành từng tấm vuông vắn, là ví dụ sinh động. Tôi xin dẫn lời khẳng định của cụ bà Ích Thiện:

- Bánh hỏi? Cũng do đức Từ Dũ đưa từ quê nhà Gò Công ra Huế.


Bánh hỏi truyền thẳng từ Gò Công về miền Hương Ngự, sau đó mới phổ biến cho nhiều nơi trong nước. Nhà giáo Tôn Nữ Cẩm Bàn là con gái ruột của cụ Ích Thiện. Chị Cẩm Bàn thêm:

- Phanxipăng nì, ngay món bún tôm chà mà bà con vẫn coi là đặc sản xứ Huế, đúng ra cũng do bà Từ Dũ chuyển từ Gò Công về kinh đô đó.

Mắm tôm chà được làm bằng phương pháp hoàn toàn thủ công. Ngon nhất, phải chọn tôm đất ruộng đúng mùa tôm nhiều gạch son. Thông thường, bà con Gò Công dùng tôm bạc tươi roi rói, cắt bỏ đuôi đầu, rồi bỏ vô cối, quết nhuyễn. Xong, trộn với gia vị (muối, đường, tỏi, ớt) rồi cho vào khạp, đậy kín. Đưa khạp phơi nắng chừng 2 ngày, rồi mở khạp mà vớt hỗn hợp ra, đặt trong dụng cụ gọi là "rổ cảo" để chà ép nhằm hứng lấy dung dịch sền sệt đỏ hồng. Dung dịch nọ được trải mỏng trên mâm, phơi nắng cho đặc quánh, trở thành mắm tôm chà. Bấy giờ, đã có thể dọn mắm tôm chà với thịt heo, rau sống và bún.

(Phanxipăng)


Phanxipăng có họ tên Trần Ngọc Tĩnh

phanxipang - anh 2

Chào đời năm Canh Tý 1960 ở thành phố Huế

Cựu sinh viên khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Hiện cư trú ở Sài Gòn.

Tác phẩm: Vàng máu (Tiểu thuyết) - Cốt cách mùa xuân (Tập phóng sự) - Sài Gòn nay (Tập phóng sự) - Huế chừ 









Không có nhận xét nào: