Chữ Nghĩa Làng Văn
Ngộ Không Phí Ngọc Hùng
***
Chữ Việt cổ
Quan: cái hòm chôn người chết
Quàn: để quan cửu lại một ít lâu, chưa chôn
(Đại Nam quốc âm tự vị - Huỳnh Tịnh Paulus Của)
Một số sai lầm khi dùng từ Hán-Việt
Sai lầm vì không phân biệt từ Hán và từ Nôm
Chúng ta nói “từ xưa đến nay” hoặc “tự cổ chí kim”.
Vì “từ” là chữ Nôm đi chung với chữ Nôm.
Và “tự” là chữ Hán đi chung với chữ Hán.
(Lưu Khôn)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Bánh mì phải có patê
Làm trai phải có máu dê trong người
Chửi... đái bậy
Tiên sư tổ bố nhà mày nhá, để ông, để bà dậy cho thằng giá đái bậy biết nhá. Cha năm đời mười đời bố cụ nhà mày nhá, để ông, để bà lấy dao cắt buồi mày, để ông, để bà bỏ thỏm buồi mày vào nồi, đun sôi sùng sục, mày múc ra mâm, mày ăn ngấm ngầm cho tới tam đại, tứ đại nhà mày nhá! Tiên sư tổ bố thằng già đái bậy.
Chữ Việt cổ
Ruốc: giống như tép rong tròn mình mà trắng
(Đại Nam quốc âm tự vị - Huỳnh Tịnh Paulus Của)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Trên trời có đám mây xanh,
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng.
Nếu mà anh lấy phải nàng,
Anh thà thắt cổ cho nàng ở không.
Nếu sinh vào tháng nào thì tính cách ứng với loại cây nào?
Tháng 5, cây hoè
Liễu cao hòe biếc ẩn tiếng ve
Gió thơm dìu dịu động tơ lòng.
(“Nguyễn Lang quy" - Tô Thức)
Cây hoè giấu hoa trong lá nhưng vẫn được ong ưa chuộng. Sinh vào tháng 5, bạn có bề ngoài điềm tĩnh nhưng bên trong lại sóng gió. Bạn luôn thích cho đi một cách âm thầm nhưng lại không giỏi thể hiện bản thân. Chỉ những người thực sự hiểu bạn mới có thể khám phá ra sự tốt đẹp của bạn
(Lý Văn Hàm)
.
Một Cơn Gió ụi
Lại thêm một quyển sử bị cấm phát hành. Lần này là “Một Cơn Gió Bụi” của học giả Trần Trọng Kim. Không chỉ là “Một Cơn Gió Bụi”, hồi ký của Lệ Thần Trần Trọng Kim, một tượng đài văn hóa Việt Nam thế kỷ 20, thật ra là một “cơn bão” xét dưới góc độ kiểm duyệt hiện hành.
Nó tiết lộ các chi tiết về “một góc đời thường” Hồ Chí Minh, về những ngày tranh giành quyền lực và triệt hạ nhau giữa Việt Minh với các đảng phái đối thủ mà Việt Minh có khi không ngần ngại dùng “mền trùm đầu rồi bắt đi mất tích”. Việt Minh, theo miêu tả trong “Một Cơn Gió Bụi”, là tổ chức có thủ đoạn và quỷ quyệt bậc nhất giai đoạn lịch sử thập niên 1940.
Một Cơn Gió Bụi cũng cho thấy những chi tiết trong vấn đề xây dựng quan hệ Việt Minh và Trung Cộng (dẫn đến tình trạng “phức tạp” mà đến nay tiếp tục gánh chịu như một hậu quả lịch sử).
Một Cơn Gió Bụi nhìn lại một giai đoạn biến động tranh tối tranh sáng và nó cũng đúc kết vài nhận định. Bất luận những nhận định này có chủ quan hay không, dưới góc nhìn một chứng nhân lịch sử khả tín như cụ Trần, thì hồi ký Một Cơn Gió Bụi cũng cần được đọc lại, không chỉ bằng nhãn quan lịch sử mà còn bằng lăng kính đương đại, để hiểu quá khứ ảnh hưởng đến hiện tại như thế nào, và cũng để thấy một nghịch lý nực cười rằng, đôi khi giữa quá khứ với hiện tại không hề tồn tại khoảng cách hay chiều dài thời gian như một yếu tố thường dẫn đến khác biệt hoặc thay đổi, khi nói đến cái gọi là “bản chất”.
(Mạnh Kim)
Góp nhặt
Trong cuốn hồi ký Một Cơn Gió Bụi (Chương 12), Trần Trọng Kim nhận xét về đảng Cộng sản Việt Nam:
“Cái chủ nghĩa cộng sản về đường luận thuyết cũng có điều bảo thủ như là muốn chữa những điều bất công trong xã hội, nhưng về đường kinh tế, thì lại áp chế quá, làm lắm điều hà khốc và dùng những thủ đoạn quỷ quyệt giả dối, khiến người ta mất lòng tin cậy. Ðem cái bất công bình nọ mà phá cái bất công bình kia thì dù có thắng lợi đi nữa, cũng không chắc đã vững bền.”
Trần Trọng Kim viết cuốn hồi ký này trước khi qua đời năm 1953 ở Ðà Lạt, vào tuổi 70, nhà xuất bản Vĩnh Sơn, Sài Gòn, in di cảo vào năm 1969. Trước đây hơn 60 năm, tác giả đã tiên đoán rằng dù có thắng lợi đi nữa, đảng Cộng sản cũng không vững bền. “Cũng không chắc đã vững bền” là lối diễn tả nhẹ nhàng theo ngôn ngữ của một nhà giáo, một người thấm nhuần phong cách Nho gia. Theo lối bây giờ sẽ nói thẳng rằng vì “người ta mất lòng tin cậy” đảng Cộng sản chắc chắn sẽ tan rã.
Vào lúc Trần Trọng Kim tiên đoán chế độ Cộng sản sẽ tan rã, cụ hoàn toàn dự đoán theo lương tri, chưa có kinh nghiệm như chúng ta bây giờ đã chứng kiến cảnh sụp đổ của các chế độ cộng sản ở Nga và Ðông Âu từ năm 1989. Ngày nay lớp hậu sinh học hỏi được nhiều hơn, với nhiều bằng chứng cụ thể chứng hơn, chúng ta thấy rõ hiện tượng đảng tan rã đang xẩy ra, đúng như lời tiền nhân tiên đoán.
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Thở đi nhẹ một kiếp người
Vui đi để có nụ cười thênh thang
Ký ức gặp cụ Nguyễn Văn Tố năm 1947 - 1
Tôi tản cư đến Thụt. Những ngày tốt trời, tôi đi vào các làng người Thổ, người Mán chơi, nhân thể khảo cứu về nhân sinh địa-lý. Một hôm khoảng tháng Tư, tháng Năm, năm 1946, ông chủ nhà trọ có cho tôi biết là có cụ Nguyễn-văn-Tố qua đây và ngủ lại đêm ở nhà thôn trưởng. Tôi vội chạy sang nhà thôn trưởng, thấy cụ nằm trên phản. Vãn cái áo bông the dài, cái khăn xếp để bên cạnh cái gối gỗ. Một đĩa đèn dầu lạc để trên giường cạnh cụ. Tôi thấy cụ như nằm ngủ, không giám đánh thức cụ dậy.
Tôi vẫy người liên lạc ra ngoài cửa và hỏi chuyện:
– Chắc cụ đi đường mệt lắm.
– Vâng, đi đến mười hôm nay rồi.
– Bao giờ cụ dậy, chú đưa cụ giấy này nhé, rồi tôi biên một tờ giấy xin được gặp cụ.
Một lát có người sang gọi tôi. Tôi sang đến nơi thấy một mâm cơm, năm đôi đũa và có cả ông thôn trưởng và ông chủ tịch Liên-Việt, tôi vái chào.
– Tôi nghe tin cụ bộ-trưởng đi qua đây, xin lại kính chào cụ.
– Cám ơn ông! Quí hóa quá. Mời ông ngồi uống ruợu với chúng tôi cho vui.
Hôm nay đi đường mệt và đói, được ông thôn trưởng và ông chủ-tịch cho ăn ngon và nhiều như thế này, tôi cám ơn lắm. Trong bữa cơm kéo dài đến vài ba giờ đồng hồ, cụ hỏi thăm đủ mọi việc.
Thật là một cuộc điều tra khéo léo về dân tình và một cuộc giải thích về chính trị, không có vẻ tuyên truyền. Những lời nói đầm ấm cũng như những chữ, dùng rất bình thường và như rót vào tai người ngồi nghe. Tôi tai nghe, mắt nhìn cụ, tự hỏi có tin vào lời cụ nói hay không ? hay là cụ đóng kịch ? Đóng vai một lão cán bộ tuyên truyền cho lý tưởng kháng chiến!
Cơm nước xong, cụ bảo tôi :
- Tôi định mai đi sớm, nhưng gặp ông ở đây, trưa đi cũng được. .
Sáng hôm sau tôi sang chơi, thấy cụ đang ngồi uống nước với ông chủ nhà.
– Kìa ông giáo, mời ông sang xơi nước. Hôm qua tôi đi mệt quá, được ăn no, ngủ yên. Hôm nay lại phiền ông chủ nhà cho bữa cơm sáng và thuê hộ con thuyền về Bắc-mục.
Lời cám ơn công khai và gián tiếp này của cụ không phải là mấy câu khách sáo mà lời thực vì tôi biết cụ thực lắm.
- À ông giáo, đằng sau nhà, trên bờ sông tôi thấy có một cây đa to, một cái ghềnh, chúng ta ra ngoài ngồi xem phong cảnh một lát.
Ngồi dưới gốc cây đa cổ thụ, nhìn nước sông Lô đỏ ngầu những phù sa, cuồn cuộn chảy xuôi. Nghe tiếng thác ấm ấm gần đấy, nhìn lên thượng nguồn thấy núi non trùng trùng điệp điệp. Trên trời lơ lửng mây đen mây trắng, hai chúng tôi, một già một trẻ ngồi lặng yên suy nghĩ. Hồi lâu, tôi lên tiếng:
– Ý kiến cụ về cuộc kháng chiến này của ta như thế nào ?
– Ấy, tôi cũng định hỏi ý kiến của ông.
(Cố học giả Nguyễn Thiệu Lâu)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Có lần sợi tóc rong chơi
Bay xuyên cố sự tung trời thăng hoa
Ký ức gặp cụ Nguyễn Văn Tố năm 1947 - 2
Chúng tôi lại ngồi im, mãi lúc sau cụ mới nói:
– Cuộc kháng chiến này sẽ kéo dài lâu lắm vì thực dân Pháp ngu. Dân ta sẽ khốn khổ với chúng, nhưng chúng sẽ không tái lập được cuộc đô hộ đâu. Nườc họ đã kiệt quệ vì chiến tranh với Đức, họ sẽ chết vì chiến tranh ở thuộc địa. Rồi ông xem, nước Pháp sẽ tụt xuống hàng nước Y-Pha-Nho, Á-châu sẽ mạnh. Trung-Hoa và Ấn-Độ sẽ phục hưng một cách nhanh chóng.
– Thế còn Nhật?
– Nhật sẽ phục hưng được nhưng không một dân tộc Á Châu nào ưa họ đâu. Họ thâm độc lắm.
– Còn nước ta ?
– Ấy, quan tha thời ma bắt, chúng ta sẽ độc lập bề ngoài mà thôi. Quốc tế sẽ công nhận sự độc lập ấy. Nhưng trong nước sẽ lục đục, có thể bị chia đôi. Ông có nhớ mấy khoản của hiệp ước Postdam không? Gây ra Nam Bắc phân tranh mới rầy đấy.
Nước nhà sẽ kiệt quệ, người Việt sẽ giết người Việt như ngóe ấy. Chỉ khổ cho lũ trẻ mà thôi. Lắm lúc tôi nghĩ buồn lắm. Suốt đời ăn hại. Chẳng biết chết rồi (1), về gặp ông bà ông vải, tôi biết ăn nói làm sao với các cụ? Nhưng thôi, nghĩ vẩn nghĩ vơ làm gì. Đời tôi thời bỏ đi rồi. Ông còn trẻ, cố mà sống. Ông sẽ có ngày được nhìn thấy đất nước tươi đẹp. Nhưng tôi cũng khuyên ông mấy câu. Đừng sợ khủng bố, chớ ham danh lợi, phụng sự nước đi. Nếu không phụng sự được nước vì bất tài thời phụng sự văn học. Ông có một căn bản văn-hóa*, bỏ đi không những là phí mà lại có tội, có tội với ông. Thôi, anh em chúng ta về. “
(Cố học giả* Nguyễn Thiệu Lâu)
(1) Tuần sau, cụ Nguyễn Văn Tố bị Pháp bắt và bắn ở bìa rừng bản Nà Pèn, Việt Bắc.
Họa si Tú Duyên và thủ ấn họa
Vững vàng ở kỹ thuật cải tiến, họa sĩ Tú Duyên chọn lọc những đề tài sáng tác.
(Bó thân về với triều đình - Từ Hải)
Tranh khắc gỗ truyền thống vốn gần gũi với văn học dân gian, trước tiên Tú Duyên chọn những câu ca dao, truyện cổ tích có nội dung lành mạnh như: “Nọ thì ả Chức chàng Ngưu/Tới Trung Thu lại bắc cầu sang sông”; hay truyện “Trầu Cau”, “ Thầy Đồ Cóc”… rồi đến đề tài văn chương bác học: Truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm…
Kế đến là đề tài lich sử với những gương anh hùng dân tộc, danh nhân tiêu biểu như: Trần Bình Trọng (1259-1285), một đề tài tâm đắc khiến họa sĩ đã vẽ cả thảy trước sau đến 17 bức) , Phạm Ngũ Lão (1255-1320), Lê Lợi (1385-1433): “Bóng Người Núi Lam”; Nguyễn Trãi (1380-1442), Phan Thanh Giản (1796-1867) với chủ ý minh họa câu nói dặn dò lại cho các con trước lúc hy sinh của hai nhân vật lịch sử này: ‘Thù cha, con nhớ lo cho nước.”
Còn nhớ, bức tranh khắc gỗ đầu tiên là chân dung của Phan Thanh Giản được in bằng bột màu pha với keo. Và những đề tài về nghệ thuật, hay thời sự với sự thể hiện tinh thần sáng tạo và óc thẩm mỹ cao độ như bức “Đàn Nguyệt”, bức “Chí Trai Thời Loạn”. Độc nhất vô nhị từ trước tới nay, người ta mới thấy ở họa sĩ Tú Duyên là: bộ tranh sáng tác hoành tráng về đề tài “Kim Vân Kiều” tổng cộng có đến 51 bức. Chỉ đến lúc cao tuổi, mắt yếu, tay không còn thật khỏe, họa sĩ Tú Duyên mới đành phải in tranh bằng toàn nét đen trên lụa và nhờ thợ ngoài khắc hộ khuôn gỗ.
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Đang trưa ăn mày vào chùa
Sư ra cho một lá bùa rồi đi
Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày.
(Đồng Đức Bổn)
Thi sĩ Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương
Những thiên tài bạc mệnh của Sài Gòn xưa
Đinh Hùng mất rồi, vợ anh phải trả căn nhà ở gần chợ Tân Định lại cho chủ. Đang chưa biết ở đâu thì may thay, một vị tướng quân hồi đó, rất yêu thơ mà lại có chức quyền nên đã vận động cấp cho bà quả phụ Đinh Hùng một căn nhà ở khu Khánh Hội. Bà Đinh Hùng không thể ôm một căn nhà lớn để mà nhịn đói nên đã bán căn nhà đó đi rồi rút lui vào vùng sâu, vùng xa của bến Phạm Thế Hiển lúc đó còn đìu hiu lau lách, dựng một mái chòi để sống qua ngày.
Chính nơi đây, Vũ Hoàng Chương đã cùng vợ con sống chui rúc những ngày cuối đời của anh trước khi “được” đưa đến ở một toà nhà to lớn, kiên cố, có lính gác ngày đêm, đó là… khám Chí Hòa!
Vũ Hoàng Chương bệnh hoạn, suy sụp rất nhanh nên ít lâu sau khi được thả ra, anh lặng lẽ ra đi. Đám tang anh cũng cử hành trong lặng lẽ, nghèo nàn, hiu hắt. Năm 1976, mọi người còn bận rộn với những vấn đề to lớn, đa số bạn bè và người hâm mộ anh kẻ đi tập trung cải tạo, kẻ đi nước ngòai, người còn lại thì do không biết tin anh chết nên đám tang anh chỉ thưa thớt dăm người đi đưa.
Năm 1986, mộ Vũ Hoàng Chương được cải táng về chôn tại nghĩa địa của chùa Giác Minh tại Gò Vấp. Suốt một đời lận đận vì nỗi không nhà, giờ đây hai con người tài hoa kia (Đinh Hùng) đã có một chỗ ở trang trọng, miên viễn đó là chỗ ngồi lâu bền trong văn học sử và điều an ủi lớn nhất là họ còn sống mãi trong tâm hồn những khách yêu thơ.
Những tác phẩm trong… sọt rác
Minh Thùy: Chào chị Trần thị NgH, cái tên này có vẻ khá bí hiểm với bạn đọc, vì sao chị có cái bút hiệu không giống ai như vậy, chị có thể cho biết tên thật không?
Trần thị NgH: Tên thật là Trần thị Nguyệt Hồng. Thứ nhất, tôi chọn như vậy vì lấy từ chữ ký, ngắn gọn dễ chịu; thứ hai, cái tên hơi sến nên tôi không thích lắm; thứ ba do... hèn, lúc mới thập thò ở cửa viết lách, không dám xuất đầu lộ diện sợ bị má rầy.
Minh Thùy: Truyện ngắn đầu tiên của chị là truyện gì, khi mới bắt đầu viết chị có gặp khó khăn khi gửi truyện đến các tạp chí văn học không, vì chưa có tên tuổi trong giới văn nghệ ?
Trần thị NgH: Truyện ngắn đầu tiên để chuyền tay nhau đọc được viết rất sớm, lúc còn học tiểu học. Để đăng báo ngày là những truyện viết trong thập niên 60. Đầu thập niên 70 mới gửi đến các tạp chí có vẻ cây đa cây đề, sừng sỏ trong giới văn nghệ như tờ Vấn Đề, Văn... Truyện ngắn đầu tiên được gửi đến tạp chí Văn, lúc đó anh “ Trần Phong Giao (xem tiết mục kế tiếp) làm tổng thư ký - không được chọn đăng.
Nhưng cũng truyện đó khi gửi sang tạp chí Vấn Đề của Mai Thảo thì được chọn. Truyện có tựa là Chủ Nhật, được viết năm 1968 nhưng mãi mấy năm sau mới dám gửi đăng.
Tiểu sử : Sinh ngày 18.4.1948 tại An Xuyên, Cà Mau. Hiện ở Sài Gòn.
Tác phẩm: Những Ngày Rất Thong Thả, Lạc Đạn và 10 truyện ngắn (truyện dài, 2000), Nhăn Rúm (tuyển tập truyện ngắn).
Chữ nghĩa làng văn
Trong dân gian có câu ca dao:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
Gần đây có người cho là hai câu thơ của Bàng Bá Lân. Tuy nhiên họ không đi tìm nguyên văn câu thơ cũ Bàng Bá Lân là:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi
Nhà thơ Bàng Bá Lân có dựa vào ca dao để gợi hứng hay không thì không đặt ra ở đây. Mà tự cổ chí kim, người thơ dựa vào ca dao để làm thơ, sửa chữ là chuyện thường tình. Nay có Hữu Loan qua Mầu tím hoa sim với “Áo anh sứt chỉ đường tà - Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...”.
Xưa có bà Hồ Xuân Hương, như bài Mời trầu trên có câu thành ngữ xanh như lá và bạc như vôi được áp dụng trong câu thơ “Đừng xanh như lá, bạc như vôi”. Hoặc giả ở bài Quan Thị thì hai câu: “Đố ai biết đó vông hay trốc, còn kẻ nào hay cuống với đầu” lại chính là hai hình ảnh hết sức ví von được rút ra từ hai câu tục ngữ ngồi lá vông, chổng mông lá trốc và đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên… Đến "Bảy nổi ba chìm với nước non" của bài Bánh trôi nước, ý của thành ngữ ba chìm bảy nổi hoặc bảy nổi ba chìm .
Đỗ Ngọc Yến giữa bạn bè - 1
Khi anh Mai Thảo còn sống, anh Yến luôn luôn săn sóc anh Mai Thảo bằng sự hiện diện âm thầm. Anh Mai Thảo đi đâu là có anh Yến “tháp tùng”, nhưng anh luôn luôn đứng đằng xa, gần như vắng mặt. Tôi thích thái độ vắng mặt của anh trong tất cả mọi tình huống. Tôi thích thái độ bảo vệ của anh. Chính anh Yến cũng là một nghệ sĩ cho nên anh hiểu nghệ sĩ hơn ai hết, anh có tâm hồn nghệ sĩ cho nên anh biết nghệ sĩ đích thực rất hiếm, nhân tài lác đác một vài trong thế kỷ mà kẻ giả nhân thì như rươi, và kẻ vùi dập nghệ sĩ thì không thiếu, kẻ không hiểu nghệ sĩ như rừng, kẻ muốn nghệ sĩ phải làm theo ý mình thì như biển...
“Trong cái chợ trời muôn mặt ấy, anh Yến trầm tĩnh đứng nhìn bằng đôi mắt đeo kính cận rất dày, anh cận thị nặng, bỏ kính ra thì hình như chẳng thấy gì, vậy mà anh lại rõ mọi chuyện hơn ai hết, thì ra anh nhìn bằng trái tim, anh thấy hết: thấy Mai Thảo lúc nào cần uống thêm, thấy lúc nào phải đưa Mai Thảo về... thấy lúc nào nên tổ chức đại nhạc hội mừng Thái Thanh, nên vinh danh Kiều Chinh trong trường hợp nào, thấy nên đón tiếp các nhà văn trong nước và giúp đỡ họ trong những ngày họ ở Mỹ ra sao... đấy chỉ là những việc ai cũng nhìn thấy, còn bề sâu anh đã âm thầm giúp đỡ biết bao người khác, từ thuở chân ướt chân ráo tới Mỹ, làm báo garage, rồi cũng từ garage ấy, anh gây dựng lên cơ sở Người Việt. Tôi thích sự âm thầm ấy của anh.
(Vũ Ánh)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Biết như thế mà còn đau như thế
Thì vui buồn nào để của riêng ai
Đỗ Ngọc Yến giữa bạn bè - 2
Trần Mộng Tú đã bày tỏ sự cảm phục trong bài viết ngắn “Người Đùa Với Bệnh”:
“Khi chúng tôi ngồi trong tiệm ăn phở, cứ ngỡ anh sẽ nói về hôm nay lọc máu đau hay là không đau mà chỉ nghe anh rù rì kể tiểu sử của tiệm phở 79. Tiệm này có từ bao giờ, là tiệm phở thứ mấy ở Bolsa, tiệm mới ở đâu và bà chủ có mấy người con, con rể, con dâu tiệm phở này là ai. Rồi anh nói: Phụ Nữ Gia Ðình nên viết một bài về tiệm này. Lúc nào anh cũng nói chuyện làm báo được. Ðôi khi tôi nghĩ, nếu anh có thể xẻ thân ra làm ba bốn phần, mỗi phần đủ cả đầu mình chân tay thì chắc anh sẽ làm ba bốn tờ báo một lúc. Vì không xẻ được, nên thấy ai muốn làm báo, anh sẵn lòng ủng hộ, nhất là những người trẻ và anh luôn xúi người khác làm báo, bỏ cả tiền túi ra đưa cho người khác làm báo...”
“Với Ðỗ Ngọc Yến thì bệnh với anh là hai kỳ phùng địch thủ. Ðánh một trận rồi nghĩ, cả hai rút quân về, bên nọ gườm bên kia. Con bệnh của anh đâu biết là nó gặp một địch thủ rất lý, anh coi nó không có ký lô nào cả, thậm chí anh chẳng thèm gọi đến tên nó, chẳng cần biết nó có mấy thằng tính xúm vào đánh trộm anh, anh chẳng thèm đem chuyện đánh nhau với chúng nói cho ai nghe. Anh coi đó là trò đùa không quan trọng, dù là một trò đùa sinh tử. Một chọi ba, bốn. Khi nào bệnh nó mệt, cần dưỡng sức thì anh tha cho nó, anh lại đến tòa báo, lại cho ý kiến, lại bàn nên viết thêm cái này, thay đổi cái kia. Anh thú thật, mắt đã không nhìn rõ rồi nhưng vẫn có thể nghĩ mưu. Khi nào bệnh lấn lướt thì anh nhịn nó, chỉ nhịn thôi chứ nhất định không hàng...” (trang 355-356).
(Vũ Ánh)
Chữ nghĩa lơ mơ lỗ mỗ
Gởi trời một giọt mù sương
Trao về cho đất vô thường cỏ thơm
Chữ nghĩa làng văn
“ Trần Phong Giao sinh tại Nam Định. Năm 1954, ông di cư vào Nam. Ông làm thư ký tòa soạn tạp chí Văn do Nguyễn Đình Vượng làm chủ nhiệm. Sau một thời gian lâm bệnh (ung thư đại tràng), ông mất ngày 13 tháng 4 năm 2005 tại nhà riêng ở quận 6, Sài Gòn, thọ 73 tuổi. Sau đó, thi hài ông được hỏa táng tại Bình Hưng Hòa.
Theo Trần Hòai Thư: “May mắn trong thế giới ấy chúng ta có một Trần Phong Giao của Văn. Có thể nói, trong thời chiến, không một người viết trẻ nào lại không nhớ đến cái công tìm tòi, khai phá những tài năng mới của tạp chí Văn, mà thư ký tòa soạn là Trần Phong Giao..
Qua Trần Hòai Thư, những người viết trẻ thành danh thơi ấy có Y Uyên, Trần Hòai Thư, Trần Dòan Nho, Lê Thiện, Lưu Vân, Trần Hữu Thục, v…v… Những người viết trẻ trước 75 thường là lính thời chiến, hay ở xa (miền Trung), hiếm thấy… gái Huế
Nhà văn Trần Phong Giao nhận xét: “… gái Huế chỉ nên là người tình chứ đừng nên bê về làm vợ….”. Kết cuộc là nhà văn Túy Hồng và Nhã Ca đã phản đối Trần Phong Giao kịch liệt.
Trịnh Công Sơn với những khuất lấp
Có người dẫn câu khá điển hình mà Trịnh Công Sơn mượn ý thơ của Bùi Giáng, đó là lời trong bài hát “Em đi bỏ lại con đường” :
Em đi bỏ lại con đường
Bờ xa cỏ dại vô thường nhớ em
Nhưng rõ rệt nhất Trịnh Công Sơn đã lấy nguyên câu thơ
Còn hai con mắt khóc người một con Trong bài thơ “Mắt Buồn” của Bùi Giáng, để viết ca khúc “Con Mắt Còn Lại” của mình.
Trịnh Công Sơn dùng nguyên câu “Còn hai con mắt khóc người một con” làm nút mở cho những lời hát rất cuốn hút người nghe.
Tuy chỉ có một câu thơ dẫn, nhưng hầu như phần lời đều đậm đặc chất trừu tượng của thi sĩ Bùi Giáng. Đó là cảm xúc đối chọi được nén chặt trong kịch tính và ý tứ trùng khít qua hình tượng “Đôi Mắt” đầy ám ảnh.
(trước tác từ Vương Tâm)
Vài trích đọan từ cuốn Trong Dống Tro Tàn
Cái câu “Ca ngợi thượng đế” này tôi còn nhắc lại ở nhiều nơi mà tôi tới nói chuyện, chiếu phim nhân kỷ niệm 30 bộ phim Chuyện Tử Tế ra đời. Và đặc biệt được hưởng ứng khi ngài giám đốc Đại Chủng Viện mời tôi tới nói chuyện ở Đại Chủng Viện Sài Gòn trước 600 chủng sinh, các linh mục, và giới trí thức. Tất nhiên nói chuyện ở Đại Chủng Viện mà ca ngợi thượng đế thì chẳng có gì là sai và lại được vỗ tay.
Trở lại với đề tài cấm đoán, kiểm duyệt tôi xin thưa một cách trân thành trong tinh thần xây dựng rằng: Với khẩu hiệu “Hội nhập quốc tế sâu rộng” và “Cải cách thể chế toàn diện” của chính nhà nước khởi xướng hãy nên làm ngay cái việc có ích, bức thiết cho sự đi lên của xã hội Việt Nam, một việc trong tầm tay mà không tốn kém gì, đó là xóa bỏ sự kiểm duyệt thô bạo, vô lý, trước mắt chí ít với các tác phẩm văn học nghệ thuật hiện nay.
Điều đó bức thiết đến mức không có từ ngữ nào diễn tả nổi. Điều đó cũng nhắc nhở chúng ta rằng, trong thời đại thông tin bùng nổ, toàn cầu hóa này, cấm đoán, kiểm duyệt thô bạo với văn học nghệ thuật là một chuyện rất dại dột, là chuyện “Vác gậy ông đập lưng ông” mà thôi. Rồi tôi cứ nghĩ dưới thời cai trị của thực dân Pháp nửa đầu thế kỷ trước mà họ thực thi một chính sách kiểm duyệt chỉ bằng 50% ngày nay thì chúng ta đâu có những Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh … Đâu có những Văn Cao, Phạm Duy, Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Tô Ngọc Vân, Bùi Xuân Phái …
Vâng! Vấn đề sẽ rất đơn giản nếu như mục đích tối thượng của chúng ta là: Vì con người, vì dân tộc, vì tổ quốc, vì tương lai của đất nước này. Còn nếu vì những cái khác thì xin nói một cách thật vắn tắt: “Thôi rồi! Lượm ơi!” đành “Bó tay.com”. Đành “Bó tay.com” vì thế hệ chúng tôi đã già và… hèn.
(Trần Văn Thủy)
Khoa cử thời xưa
Hương sư: thi rớt khảo hạch thi Hương ở huyện (do huấn đạo hay giáo thụ (?) ở địa phương khảo hạch) được gọi là anh Nhiêu, anh Khóa. Sau đó được bổ làm hương sư dậy ở làng, được miễn tạp dịch và thuế thân.
Huấn đạo: là văn quan, phụ trách việc dậy học ở huyện.
Giáo thụ: là văn quan, phụ trách việc dậy học ở phủ gồm nhiều huyện. (như giáo thụ phủ Quốc Oai Cao Bá Quát)
Hàn lâm viện học sĩ (còn gọi là Bác sĩ cố vấn vua) trông coi việc thảo chiếu lệnh, hàm thượng thư, trật nhị phẩm.
Cẩn chánh điện: danh vị quan văn thời nhà Nguyễn như Cẩn chánh đại học sĩ Nguyễn Du.
(Tiến sĩ Nho học Thăng Long Hà Nội - Bùi Xuân Đính)
Khoa trương trong ca dao của người Việt
“Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra. Người tiếp nhận với phép ẩn dụ phải liên tưởng giữa các yếu tố hiện diện trên văn bản với các sự vật hiện tượng tồn tại ngoài văn bản. Theo chúng tôi, ẩn dụ là so sánh mà không có từ so sánh.
Ví dụ bài “Cô gái Sơn Tây ”:
Con gái Sơn Tây yếm thủng tầy dần,
Răng đen hạt nhót, chân đi cù nèo
Tóc rễ tre cô chải lược bồ cào
Xù xì da cóc, hắc lào tứ tung
Hay:
Nách hôi sánh tổ chuột chù,
Mắt thì gián nhấm lại gù lưng tôm.
Trong hai ví dụ trên, ta phải hiểu răng đen như hạt nhót, tóc như rễ tre, lược như bồ cào, xù xì như da cóc, mắt như gián nhấm, gù như lưng tôm. Có thể coi tóc rễ tre, da cóc, lưng tôm là những ngữ cố định định danh.
Thăm Bà Cả Đọi
Thật ra quán cơm có những đặc điểm riêng biệt. Bà Cả tên thật là Túc, vốn gốc làng Ðồng Nhân, nay thuộc quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Bà vào Nam từ lâu, khoảng 1948, lấy chồng người cùng quê. Thoạt tiên hai vợ chồng mưu sinh bằng cách mở kiosque bán nước giải khát: bia chai, nước ngọt… cho nhân viên, thợ thuyền khu vực Chợ Cũ, Sài Gòn. Khách đến uống nước thì hỏi ăn, thế là nhân thể bà nấu phở. Rồi theo nhu cầu của khách hàng, từ phở, bà mở thêm hàng cơm. Chẳng bao lâu, khách mau chóng kéo đến càng lúc càng đông đúc ngồi tràn ra làm mất trật tự vỉa hè, chính quyền bấy giờ thấy vậy đuổi không cho buôn bán nữa. Bà rút lui lên căn gác của người chú trong ngõ hẻm đường Nguyễn Huệ và chuyển hàng ăn uống từ vỉa hè về đó.
Khu vực Chợ Cũ dần dần phát triển, cửa hàng, công sở, văn phòng mở cửa… Lại thêm làn sóng di cư năm 54 khiến số lượng người Bắc ở Sài Gòn tăng lên đáng kể. Quán tưởng chừng không thuận lợi về mặt vị trí vì phải đi vào cuối ngõ, phải leo cầu thang mới tới được một căn phòng không rộng rãi lắm ở tận cùng thế giới đó. Té ra hàng ăn vẫn đông, ngày càng đông khách.
Tự nhận chỉ là hàng cơm bình dân nhưng những món ăn của bà Cả nấu sạch sẽ, ngon lành, không khô quèo “cơm hàng cháo chợ” như các hàng cơm bình dân khác, mà mang vẻ “cơm nhà” như được nấu bởi bàn tay hiền hậu của bà mẹ hay người vợ, bởi bàn tay của người nội trợ quen thuộc.
Ðúng là bữa cơm của quán bà Cả không cao lương mỹ vị, chế biến không cầu kỳ, trình bày không mỹ thuật, chén đũa cũng bình dân, chỉ là những món ăn gia đình như mâm cơm người ta vẫn thường dọn tại nhà. Thành công mà chính bà không ngờ lại nằm ở chỗ ấy khi người thực khách không có điều kiện ăn cơm nhà, lại có thể thưởng thức một bữa cơm nhà ngay tại quán.
(Nguyễn Thị Hàm Anh)
Những vai phụ “láy”, “đệm” trong ngôn ngữ Việt
Cũng như những quy tắc văn phạm khác, trường hợp này cũng có khá nhiều ngoại lệ, mà tôi nhận thấy, đó là những từ, nếu đúng luật mà dùng, sẽ rất khó phát âm hoặc không thể phát âm được.
Thí dụ: in ít thay vì it ít,
mền mệt thay vì mềt mệt,
đèm đẹp thay vì đèp đẹp,
nhưn nhức thay vì nhưc nhức, …
Trong thi phẩm "Màu Thời Gian", Đoàn Phú Tứ kết thúc như sau:
Duyên trăm năm đứt đoạn.
Tình muôn thuở còn hương.
Hương thời gian thanh thanh.
Màu thời gian tím ngát.
"Hương thanh thanh", thắc mắc theo lối dụng ngữ bình dân, là "cái mùi gì vậy ta?" Không rõ, nhưng chắc chắn không phải là mùi làm… buồn lòng khứu giác, vì trước đó thi sĩ đã cho biết:
Màu thời gian không xanh.
Màu thời gian tím ngát.
Hương thời gian không nồng.
Hương thời gian thanh thanh
(Ngô Nguyên Dũng)
Ca dao về cua, còng
Đầu cua tai nheo
Còn duyên kén cá chọn canh
Hết duyên ếch đực, cua kềnh cũng vơ
Còn duyên kén những trai tơ
Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng
Anh chê tôi ở rẫy ăn còng
Anh về ở chợ ăn ròng mắm tôm
Con còng dại lắm ai ơi
Uổng công xe cát sóng dồi lại tan
Nước lớn rồi lại nước ròng
Đố ai bắt được con còng trong hang.
Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng
Về sông ăn cá, về đồng ăn cua
Ẩm thực miền Bắc
Phở Hà Nội - 2
Sao bằng ra đầu phố ăn một bát phở bã của anh hàng phở áo cánh trắng, gilet đen, và tóc rẽ mượt? Nồi nước sôi sùng sục, tỏa mùi thơm ra khắp phố. Nếu là gánh phở ngon cả Hà Nội không có đâu làm nhiều, thì nuớc dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt, và hành tây đủ cả. Chả còn gì ngon hơn bát phở như thế nữa. Ăn xong bát thứ nhất, lại muốn ăn thêm bát thứ hai. Và anh hàng phở chả phải gánh nặng đi đâu cả, chỉ việc đỗ một chỗ nhất định, cũng đủ bán một ngày hai gánh như chơi. Và người hàng phố tìm dấu hiệu để gọi tên anh cho dễ nhớ: anh phở trọc, anh phở Bêrê, anh phở Mũ dạ, anh phở Cao... và dặn thằng nhỏ chớ mua hàng khác về "ông không ăn mà chết đòn".
Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì ở Hà Nội mới ngon. Đó là quà tất cả suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa, và ăn phở tối.
Phở bán gánh có một vị riêng, không giống như phở bán ở hiệu. Các gánh phở có tiếng ở Hà Nội đều được người ta đặt tên: phố Ga, phố Hàng Cót, phố ô Quan Chưởng, phố Cửa Bắc v.v ...
(Hà Nội 36 phố phường – Thạch Lam)
"Ông Văn Nghệ" Võ Thắng Tiết
Làm xuất bản là ngồi chờ sách tìm tới mình. Nhưng hiếm hoi cũng có trường hợp nhà xuất bản đi tìm sách. Ông Võ là một người ham đọc và biết thẩm định giá trị của sách. Khoảng đầu thập niên 2000, ông tình cờ đọc được một số báo xuất bản tại Canada trong đó có bản dịch từng kỳ cuốn “Tự Do Trong Lưu Đày” của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ông không biết dịch giả là ai nhưng càng đọc càng thấy thích. Ông nhất định phải tìm ra dịch giả để in cuốn này. Ông liên lạc với nhà báo. Đó là bà Chấn Huyền, bút danh của dược sĩ Hà Dương Thị Quyên lúc đó đang ở Montreal. Thiệt tức cười. Người tìm được chẳng xa lạ chi với ông. Bà là phu nhân của nhà thơ Đỗ Quý Toàn. Ông quen thân với cả hai vợ chồng từ ngày còn ở Việt Nam!
Một nhà xuất bản cẩn trọng thì phải đọc nội dung sách trước khi quyết định in. Nhà xuất bản Văn Nghệ có sự cẩn trọng đó. Sách của Văn Nghệ thường là sách chọn lọc. Mà chọn lọc kỹ. Có độc giả đặt mua trước tất cả các sách sẽ xuất bản, không cần biết sách loại chi, tác giả nào, cứ do Văn Nghệ in là được vì tin vào sự đứng đắn của nhà xuất bản. Nếu tính chuyện thương mại, xuất bản sách theo thị hiếu độc giả thì lời lãi nhất định phải hơn. Nhưng nếu nhà xuất bản chỉ lựa in những cuốn sách kén người đọc, chuyện đứng vững được không dễ dàng. Nói về chuyện “chịu chơi” của ông Võ, nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc nhắc lại một chuyện. “Trong số các kỷ niệm tôi có với ông Võ Thắng Tiết, chuyện này làm tôi cảm động hơn cả.
(Khuyết danh)
Hội An
- 1601, người Hòa Lan đổ bộ lên Đại Chiêm bị người địa phương đánh và đẩy lui
- 1613 và 1615, người Anh lập công ty Đông Ấn Anh và có mặt ở Đàng Trong và Đàng Ngoài. Và 1672 có mặt ở Phố Hiến.
Phỏng vấn nhà văn Song An Hoàng Ngọc Phách
- Trong khi nói chuyện với ông Tú Mỡ, chúng tôi có được nghe nhà thơ trào phúng này nói đến tiên sinh nhiều lần, thứ nhất là về thời kỳ học trường Bưởi, chắc quãng đời ấy có nhiều cái lý thú?
- Phải, tôi học với ông Hiếu từ năm ấy cho đến hết bốn năm trường Bưởi... Ngay ở trường Hàng Vôi, ông Hiếu là một học trò nhỏ nhất lớp, rất thông minh, có cái tính tinh nghịch, tự chủ... trên hết bạn đến thày. Sau này, ông trở nên một nhà thơ trào phúng cũng không lấy làm lạ...
Sau khi đỗ bằng sơ học, tôi vào trường Bưởi vẫn được là học trò khá quốc văn. Ngay từ năm đầu, chúng tôi đã chuyên luyện tập Pháp văn và quốc văn chăm lắm.
Về Pháp văn chúng tôi được cụ Dufresne - chúng tôi vẫn gọi là cụ “Phèn” - cụ là một giáo sư có đặc tính của một nhà thông thái, một triết nhân. Cụ có những phương pháp dạy văn chương riêng của cụ. Một bài ám tả với ba câu mà cụ giảng hết ngày ấy đến ngày khác, ai chịu khó học có thể hiểu rất rõ về văn phạm. Cụ biết chữ nho, giỏi tiếng Nam, rất thông thạo về phong tục, lịch sử, địa dư của ta. Tôi thường được cụ dắt về các vùng nhà quê. Có kỳ nghỉ hè đi luôn ba bốn tuần lễ. Gặp một ngôi chùa cổ, một cảnh nhà quê cụ thích, cụ đứng hàng giờ ngoài nắng, cụ vẽ... Vẽ thấy chưa đủ tả hết cái tinh thần của nó, cụ ghi chép. Đến bữa, đói, cụ cũng ăn cơm an-nam, hoặc vào chùa kiếm phẩm oản quả chuối, ăn thế là đủ.
Nhà cụ là mấy túp lều tranh ở bờ hồ Tây. Cụ tưởng ở thế cho hợp với tư tưởng của cụ, không ngờ có hại cho cụ không biết bao nhiêu. Nhà cụ cháy, tất cà tài liệu của cụ sưu tập được cháy hết. Cụ chán nản, buồn rầu. Tôi học chữ Pháp cụ. Chữ tôi học có lẽ không đáng kể bằng cái phương pháp làm việc của cụ mà tôi lĩnh hội được.
(Lê Thanh)
Lục tặc
Lục tặc là sáu tên cướp suốt đời đẩy chúng ta vào chỗ sa ngã, phạm tội. Đó là sắc (mê sắc đẹp), thanh (mê tiếng tăm), hương (mê mùi thơm), vị (thích ăn ngon), xúc (thích chung đụng với đàn bà), pháp (hay bắt chước).
Tam bành ở trong người. Lục tặc ở ngoài.
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Tam cô
Tam cô là ba chức quan thời xưa dưới bậc tam công (Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo) là:
các chức Thiếu Sư, Thiếu Phó, Thiếu Bảo.
Tam cô lục bà gồm ba cô: ni cô, đạo cô, quái cô và lục bà gồm sáu bà gồm: nha bà, mai bà, sư bà (sic) , kiền bà, dược bà, ổn bà. Theo truyền thuyết xưa, những người đàn bà này dụ dỗ người ngay vào đường tà dâm.
(Chữ nghĩa chúng ta – Bùi Bảo Trúc)
Chừng nào tôi bỏ rượu thì bỏ thơ luôn
Một bài khác, Trịnh Công Sơn viết:
Xuống phi trường Nội Bài cùng nhạc sĩ Thanh Tùng và Từ Huy đến phố Yết Kiêu ở đó chúng tôi đã từng nhiều năm uống rượu với anh Văn Cao. Uống với ai mà chẳng là uống. Nhưng uống với Văn Cao hoặc anh Nguyễn Tuân, anh Bùi Xuân Phái, là một loại uống khác. Uống mà vẫn thấy mình chưa uống hoặc chỉ mới bắt đầu một cuộc uống. Bắt đầu đồng thời cũng là kết thúc. Kết thúc một ngày tẻ nhạt và bắt đầu một cuộc vui sẽ kéo dài đến đâu thì không ai biết được.
Tôi trở lại căn nhà anh Văn. Buồn quá. Ở đó bây giờ là bàn thờ, là những cái bàn tẩm liệm một màu đau khổ. Cái bàn nhỏ nhắn ngày xưa tôi thường ngồi với anh để cùng anh uống những ly rượu anh em buồn vui cười cợt bây giờ nằm ở góc xó nào. Tôi bỗng muốn sắp xếp lại một trật tự cũ. Cứ để lại những gì nó đã như thế. Cần gì phải thay đổi một thứ trật tự đã từ lâu làm thành nếp sống một con người.
Anh Văn ơi, anh sẽ không bao giờ ngờ được khi một người bỗng nhiên vắng mặt thì cuộc đời cũng sẽ đổi thay. Sự đổi thay đôi khi là cần thiết nhưng dù sao cũng mang đến một nỗi buồn. Nỗi buồn của một điều gì đó không còn như cũ.
Anh ra đi thì ai buồn nhất. Không phải là người ra đi mà hóa ra là cho người ở lại. Em không có buồn đâu anh ơi vì anh được trở về với Thiên Thai của anh mà em thì thích thú với địa đàng của em. Thiên Thai và Địa Đàng hình như cũng chỉ là một. Vậy thì anh cứ sống trong thiên đường của anh và em sẽ sống trong địa đàng của em.
Một cuộc đời khác, anh Văn ơi, chỉ là để nhớ cuộc đời này.
(Trần Thanh Phương)
Tác giả: Văn Cao (15/11/1923 -10/7/1995), tên thật: Nguyễn Văn Cao (sinh tại Hải Phòng, gốc người Nam Định)
tranh Đinh Cường
Tác phẩm: Buồn Tàn Thu (1939), Thiên Thai, Bến Xuân (Đàn Chim Việt – 1942), Suối Mơ (1943), Trương Chi (1943), Làng Tôi (1947), Trường Ca Sông Lô (1947), Tiến Quân Ca (1944), Mùa Xuân Đầu Tiên (1976)
Chữ nghĩa làng văn
Nhớ về nhà văn Cao Xuân Huy - 1
Thư của nhà văn Khánh Trường chỉ mấy dòng, hỏi han sự viết lách và mời dịp nào qua Mỹ thì tới chơi Hợp Lưu. Chót thư anh viết: ông đưa Huy dạo phố Hà Nội, như hồi nào tôi với ông. Huy viết Tháng Ba Gãy Súng. Ông đọc chưa ?
Ra đây là nhà văn Cao Xuân Huy? Dạo đó, ở " quốc nội " chắc là còn rất ít độc giả nghe danh nhà văn này. Như là tôi thì chỉ mới vừa đọc xong cuốn sách của anh cách đấy chừng một tháng, ấn tượng vẫn như đang nóng rát trên tay.
Đến khi đó chúng tôi như sực nhớ ra, mới bắt tay nhau. Tôi nói vừa đọc cuốn của anh. Anh nói cũng vậy đã đọc tôi. Anh bảo: "quyển tôi viết không phải tiểu thuyết, nó là hồi ký, nên đọc rồi thì anh biết trong chiến tranh tôi thế nào, là ai. Cũng như do đọc anh nên tôi biết ngày đó anh là bộ đội tác chiến trên Cao Nguyên ".
(Bảo Ninh)
Bát canh dưa chiều đông
Tôi có đứa cháu gái ngoại tên gọi ở nhà là Nghé. Nghé rất hiếu động, nghịch ngợm, và cũng khá là dẻo mỏ. Nghé rất thích ăn những món ăn dân dã nhà ngoại, kể cả dưa cà, tương mắm. Hồi mới lên 4 tuổi, chiều cuối tuần sang chơi, vừa đến cửa, Nghé đã véo von:
- Bà ơi bà, cháu đã ngửi thấy mùi thơm món ăn bà nấu. Bà ơi, món gì đấy ạ?
- Ôi cháu bà. Canh dưa nấu cá đấy. Lát bà lấy chan cơm cho Nghé ăn nhé.
Ôm con bé vào lòng, hít hà mái tóc của cháu, sao bỗng dưng tôi nhớ bà ngoại của tôi, tức kỵ ngoại của Nghé đến thế.
(Vũ Thị Tuyết Nhung)
Trần Văn Thủy – Trịnh Công Sơn
Năm 1993 tôi làm cho đài Channel Four của Anh một bộ phim tài liệu 35mm, dài, công phu, đi xuyên Việt. Và bây giờ tên Trịnh Công Sơn đã là tên của những con đường ở Huế, Sài Gòn, Hà Nội. Một vị có chức quyền có nói rằng: “Trịnh Công Sơn là người của mọi người, người của mọi thời”. Nếu vị đó nói câu nói đó sớm hơn (**) thì đỡ khổ cho cuộc đời này biết mấy!
(**) Trong show Xuyên Việt, khi tới Đà Lạt, ca sĩ Khánh Ly được phép hát thêm một bài ngoài danh sách 24 bài cho phép trình diễn của Trịnh Công Sơn. Bà chọn bài Gia Tài Của Mẹ:
hai mươi năm nội chiến từng ngày
gia tài của mẹ, để lại cho con
gia tài của mẹ, là nước Việt buồn
Sự kiện ca sĩ Khánh Ly hát bài Gia Tài Của Mẹ, một bài hát trong tập Ca Khúc Da Vàng của Trịnh Công Sơn đang dấy lên những tranh luận dữ dội trong nước. Phía những người chống Khánh Ly và sự tồn tại của nền văn hóa VNCH ở Việt Nam, lúc này đã dùng những lời lẽ hết sức nặng nề, thậm chí gọi bà là kẻ âm mưu tuyên truyền chính trị ở Việt Nam.
(Phạm Phú Minh)
Phạm Phú Minh là tên thật, Phạm Xuân Đài là bút hiệu. Ông sinh năm 1940, người làng Đông Bàn, quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Học Đại Học Văn Khoa Sài Gòn và Sư Phạm ban Triết học tại Viện Đại Học Đà Lạt. Tốt nghiệp Sư Phạm năm 1964.
Từ 1993 đến 2007 làm việc với tạp chí Thế Kỷ 21 trong các nhiệm vụ thư ký tòa soạn, chủ nhiệm và chủ bút. Hiện nay la chủ bút tạp chí online Diễn Đàn Thế Kỷ (diendantheky.net).
Đã tổ chức, hoặc phối hợp tổ chức các buổi: Văn học Việt Nam tại hải ngoại 2007. Triển lãm và Hội thảo về báo Phong Hóa Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn, 2013
Góp nhặt cát đá
Mộng
Vèo trông lá rụng đầy sân
Công danh phù thế có ngần ấy thôi.
10 câu nói của Tào Tháo
“Mỹ nhân trong thiên hạ đều tầm thường với ta,
duy nhất chỉ có vợ thiên hạ là ta thích thú”
(Sưu tầm và biên soạn: Huy Phương)
***
Phụ đính I
Em ơi ! Hà Nội... quà
Sau mười mấy năm xa cách, nay (1995) tôi mới gặp dịp quay về Hà thành để... ăn quà. Trên chuyến tàu lửa tốc hành Nam Bắc, tôi thư thả đọc lại hai tác phẩm đặc tả thú ẩm thực ở mảnh đất Thăng Long văn vật. Cuốn Hà Nội Băm Sáu Phố Phường của Thạch Lam và Miếng Ngon Hà Nội của Vũ Bằng với tâm trạng bồi hồi xao xuyến lạ. Đồng hành với tôi có tiến sĩ Norman Foster Remsey là giáo sư Đại học Harvard ở Hoa Kỳ, cũng là nhà khoa học từng đoạt giải Nobel vật lý năm 1989.
Vốn được thăm viếng nhiều xứ sở, ông nhận xét:
"Ẩm thực chính là một bộ phận cốt yếu hợp thành văn hoá, văn minh. Qua nghệ thuật chế biến và thưởng thức món ăn thức uống, chúng ta có thể hiểu được bản sắc mỗi dân tộc, có thể nhận ra năng lực mỗi địa phương."
***
Mấy tay bạn từ thuở sinh viên Hà Nội, hiện công tác ngay tại thủ đô, ào tới khách sạn tìm tôi. Họ réo ầm… Hà Nội đang trở rét. Trước tiên, kiếm ngay chai cay cay để khề khà với nhau tí đã. Họ kéo tôi đến một quán rượu trên phố Lê Văn Hưu. Đạo giới thiệu:
- Đây là "xa-lông" của cánh báo giới mỗi khi... rủng rỉnh tiền nong. Xin mời.
Quán nhỏ nhưng sạch sẽ, lịch sự, bày đủ loại rượu nội lẫn rượu ngoại và thường bán từng cốc con. Thoạt liếc biển giá, đã thấy... mìn nổ: rượu cá ngựa tắc kè 10.000 đồng/cốc, rượu Tây Môn Khánh 15.000 đồng/cốc, rượu Hoàng Đế 30.000 đồng/cốc, rượu Mao Đài 55.000 đồng/cốc. Tính riêng khoản "nước thiêng", với tửu lượng hũ nổi hũ chìm như bọn tôi, nếu phết cho thoả sức e xì từng xấp bạc triệu!
Thức nhắm thì tiền nào của nấy song ở đây chả có gì "đặc sệt" Hà thành. Những tôm khô củ kiệu, mép bò chua ngọt, lươn chiên dòn và chim cút rôti ắt phỏng theo "xì-tin" Nam Bộ?
(Phanxipăng)
***
Phụ đính II
Báo Văn - 1
Sau khi đóng cửa tờ báo Nhân Văn, đảng thấy cần thiết phải cho ra một tờ tạp chí văn học để thay thế. Đảng cho phép Hội Văn Nghệ xuất bản tờ Tạp Chí Văn. Chủ Bút là Nguyễn Công Hoan, Phó là Nguyễn Tuân và Tổng Thư Ký Toà Soạn là Nguyên Hồng.
Báo Văn xuất bản mỗi tuần một kỳ. Một nửa số trang dành riêng cho những bài dịch tiểu thuyết Nga, một nửa khác gồm toàn những bài tán tụng văn học Trung Quốc. Kết quả là giá trị văn nghệ rất kém, không ai buồn xem.
Sau đó người ta thấy báo Văn thay đổi thái độ vì thấy tên các nhà văn trước kia đã viết trong nhóm Nhân Văn và Giai Phẩm.
Người đầu tiên là Phùng Quán.
Phùng Quán là một sinh viên trước kia đã viết bài “Chống tham ô lãng phí” đăng trong Giai Phẩm Mùa Thu. Lần này Phùng Quán viết bài “Lời Mẹ Dặn”. Bài đó có những câu như sau:
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều,
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.
Tôi muốn làm nhà văn chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã.
Bút giấy tôi, ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.
(Trăm hoa đua nở trên đất Bắc – Mạc Đình giới thiệu)
Báo Văn - 2
Đến tờ Văn số 24, độc giả lại thấy Hoàng Cầm xuất hiện.
Hoàng Cầm là một chiến tướng của nhóm Nhân Văn. Ở đây Hoàng Cầm viết một vở kịch thơ ngắn, nhan đề là “Tiếng Hát”, nói về chuyện Trương Chi. Nhưng Hoàng Cầm biến lời hát của Trương Chi thành tiếng gọi của tự do. Mỵ Nương tượng trưng cho giới văn nghệ bị kìm hãm trong ngục tù, và ông Quận Công, cha của Mỵ Nương tượng trưng cho độc đoán của đảng.
Cuối cùng là kiện tướng Phan Khôi ra mắt.
Cụ viết một truyện ngắn về gia đình cụ, nhan đề là Ông Năm Chuột. Câu chuyện dài dòng, nhưng ngụ ý của cụ là giai cấp thống trị thuở xưa cũng như giai cấp thống trị ngày nay, đều đầy dẫy những thối nát, nhưng cứ che đậy. Mặc dù khéo léo che đậy, trong dân gian vẫn có những người ranh mãnh, nhìn thấy hết. Che đậy cũng vô ích. Bài đó kết thúc số phận báo Văn. Đảng bắt Hội Văn Nghệ phải đình bản tờ báo ngay tức khắc.
(Trăm hoa đua nở trên đất Bắc – Mạc Đình giới thiệu)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét