Tạp Ghi và Phiếm Luận :
ĐÔNG là MÙA ĐÔNG
ĐÔNG 冬 là mùa Đông, mùa cuối cùng trong năm sau mùa Thu và trước mùa Xuân của năm sau. Tính theo Âm lịch thì mùa Đông là các tháng Mười, Mười Một, và tháng Chạp trong năm, nhưng nếu tính theo Dương lịch thì là các tháng Mười Hai, tháng Giêng và tháng Hai. Còn nếu ở Nam Bán cầu như các nước Úc, nước Tạn Tây Lan thì mùa Đông là các tháng Sáu, tháng Bảy và tháng Tám.
Theo Âm lịch thì trong mùa đông, có tất cả 6 KHÍ TIẾT 氣 節 (Khí hậu về Thời tiết) được phân bố như sau :
* Tháng Mười có 2 Khí tiết là :
- Lập Đông 立 冬 thường lọt vào ngày 7-8 tháng 11 Dương lịch.
- Tiểu Tuyết 小 雪 thường lọt vào ngày 21-23 tháng 11 Dương lịch.
* Tháng Mười Một có 2 Khí Tiết là :
- Đại Tuyết 大 雪 thường lọt vào ngày 6-8 tháng 12 Dương lịch.
- Đông Chí 冬 至 thường lọt vào ngày 21-23 tháng 12 Dương lịch.
* Tháng Mười Hai có 2 Khí Tiết là :
- Tiểu Hàn 小 寒 thường lọt vào ngày 5-7 tháng Giêng Dương lịch.
- Đại Hàn 大 寒 thường lọt vào ngày 19-21 tháng Giêng Dương lịch.
Đặc biệt ĐÔNG CHÍ là ngày có thời gian ban đêm dài nhất trong năm ở Bắc bán cầu, trái với HẠ CHÍ là ngày có thời gian ban ngày dài nhất trong năm, như câu tục ngữ mà ông bà ta vẫn thường truyền tụng là :
Tháng Năm chưa nằm đã sáng, và...
Tháng Mười chưa cười đã tối.
Theo nghĩa mặt chữ thì ĐÔNG CHÍ 冬 至 có nghĩa là "Mùa Đông đã đến rồi" và cũng có nghĩa là ngày tháng của năm cũ sắp hết, năm đã sắp tàn rồi; Nên Tiết Đông Chí 冬 至 節 cũng là một cái Tiết lớn ở cuối năm, mọi người có dịp gặp nhau để hàn huyên những chuyện của năm qua, cùng đoàn viên và cùng ăn chè ỷ, chè trôi nước (người Hoa gọi là Thang Viên 湯 圓) nấu để cúng tế ông bà tổ tiên mừng cho một năm đã đi qua trong bội thu và bình an viên mãn. Cúng tế mừng Tiết Đông Chí cũng có nghĩa là mừng cho gia đình được đoàn viên để cùng đón mừng tuổi mới. Ăn chè ỷ của Tiết Đông Chí rồi là đã thêm được một tuổi mới rồi đó, nếu có qua đời thì cũng được đếm thêm một tuổi thọ nữa...
Nhớ hồi còn nhỏ, khi cô tôi giúp mẹ nấu một nồi chè ỷ, chè trôi nước thật lớn để mừng Tiết Đông Chí, cô đã nói với tôi là: "Năm nay cháu đã mười tuổi rồi, vậy là mừng tuổi năm mới cháu phải ăn 11 viên chè trôi nước". Tôi bèn cười nói với cô rằng: "Nếu cô ăn nổi 20 viên, thì cháu cũng sẽ ăn 11 viên cho cô xem". Anh tôi bèn chen vào nói: "Anh thì ăn nổi 15 viên rồi đó, còn ba má làm sao ăn nổi 50 viên, đừng nói chi đến ông nội tới 70 tuổi lận!" Trong niềm vui cuối năm cả nhà sum họp để cùng nấu cùng cúng và cùng ăn những viên chè tròn tượng trưng cho sự đoàn viên tròn trịa của cuối năm, thì cũng có người vì công danh, vì sinh kế mà phải tha phương cầu thực... Tiết Đông Chí mà chưa được về quê, một mình một bóng cô thân nơi xứ lạ quê người như bài thất ngôn tứ tuyệt "Hàm Đan Đông Chí Dạ Tư Gia 邯 鄲 冬 至 夜 思 家" (Ở xứ Hàm Đan đêm Đông Chí nhớ nhà) của Thi Bá Bạch Cư Dị sau đâY:
邯 鄲 驛 裡 逢 冬 至, Hàm Đan dịch lý phùng Đông Chí,
抱 膝 燈 前 影 伴 身。 Bão tất đăng tiền ảnh bạn thân.
想 得 家 中 夜 深 坐, Tưởng đắc gia trung dạ thâm tọa,
還 應 說 著 遠 行 人。 Hoàn ưng thuyết trước viễn hành nhân!
Có nghĩa :
Ở nơi dịch quán của đất Hàm Đan nầy lại nhằm lúc Tiết Đông Chí đến, ta cũng đành ngồi bó gối trước ánh đèn mà bầu bạn với cái bóng của mình mà thôi. Nhớ về quê nhà giờ nầy chắc mọi người đang quây quần đoàn tụ ngồi với nhau trong đêm... và chắc cũng đang nhắc đến ta, một kẻ đi xa không về nhà được trong lễ tiết cuối năm nầy.
Trông người lại ngẫm đến ta, nếu Tiết Đông Chí nầy ta có về lại được quê nhà thì cũng không tìm đâu ra người xưa cảnh cũ; Thời gian nửa thế kỷ biết bao là tang thương biến đổi, đã xóa hết những hình ảnh kỷ niệm của "Những ngày xưa thân ái" đi rồi !
Dịch quán Hàm Đan Đông Chí rồi,
Trước đèn bó gối bóng đơn côi.
Quê nhà sum họp ngồi tâm sự,
Chắc cũng xa vời nhớ đến tôi !
Lục bát :
Hàm Đan Đông Chí đến rồi,
Bên đèn bó gối đơn côi bóng mình.
Nhớ nhà đoàn tụ đêm thanh,
Chắc đang nhắc đến những thành viên xa !...
Nếu mùa Thu làm cho cỏ cây hoa lá héo hon vàng úa, thì mùa Đông lạnh lẽo khắc nghiệt vùi chôn tất cả hoa lá cỏ cây, tạo nên cảnh tiêu điều lạnh lùng tang tóc khắp nơi với ngập trời tuyết trắng, với bầu trời u ám buồn thương... như Jean. Leiba đã viết:
Xuân tàn, Hạ cỗi, cảnh Thu sầu,
Mờ mịt hơi Đông ám ngọn lau...
và cụ thể hơn như trong bài thơ "Bốn mùa yêu thương" của ông:
Nhưng một ngày Đông nhiều mộng héo,
Đầy trời mưa lạnh, lá vàng gieo.
Em buồn, chẳng nỡ nhìn ta nữa,
Ta thấy trời Đông bỗng lạnh nhiều !
Mùa Thu là mùa của tình buồn, thì mùa Đông là tình của những mối tình tan vỡ, xót xa... như trong thơ của Huyền Kiêu:
Đông xám lại chàng tới hỏi :
Em thơ, chị đẹp em đâu ?
Chị tôi hoa phủ đầy đầu,
Đã ngủ trong lòng mộ tối !...
Gió thu xạc xào hiu hắt, còn gió đông thì se sắt lạnh lùng. Gió mùa Đông là gió từ phương Bắc thổi xuống. Bắc phương Nhâm Qúy thuộc Thủy, nên gió từ miền Bắc cực thổi xuống mang theo hơi nước giá lạnh của vùng tuyết băng khô khan lạnh lẽo. Hướng Bắc còn được gọi là hướng Sóc, nên Bắc Phong 北 風 còn được gọi là SÓC PHONG 朔 風 như trong bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt "Tòng Quân Hành 從 軍 行 (kỳ 4)" của Lệnh Hồ Sở 令 狐 楚 đời Đường:
SÓC PHONG thiên lý kinh, 朔 風 千 里 驚,
Hán nguyệt ngũ canh minh. 漢 月 五 更 明。
Túng hữu hoàn gia mộng, 縱 有 還 家 夢,
Do văn xuất tái thinh ! 猶 聞 出 塞 聲。
Có nghĩa :
Ngàn dặm gió bấc thổi,
Năm canh trăng quê nhà.
Dẫu có mộng hoàn gia,
Còn nghe lời xuất tái !
Song thất Lục bát :
Gió bấc thổi làm kinh lính thú,
Trăng Hán gia vằng vặc canh tà.
Dẫu cho mơ được về nhà,
Bên tai còn vẳng tiếng ra ải ngoài !
Gió Bắc khô khan lạnh lẽo của mùa Đông, còn được bà con ta gọi trại thành GIÓ BẤC, nên mới có những câu Ca Dao trong dân gian Nam Bộ như sau:
Gió Bấc non thổi lòn hang chuột,
Thấy chị hai mầy tao đứt ruột đứt gan!
và...
Gió Bấc non thổi lòn hang dế,
Thấy chị hai mầy tao bế hế băng hăng !
Còn chàng thi sĩ Nguyễn Bính đa tình của thời Tiền Chiến, trong bài thơ "Mùa Đông Gửi cố nhân" đã rên rỉ :
Mưa phùn Gió Bấc, cố nhân ơi,
Áo rét nàng đan lỡ hẹn rồi.
Sông lạnh khi nàng ra giũ lụa,
Với dùm trong nước lấy hồn tôi.
và trong bài "Mùa Đông Nhớ Cố Nhân" thì Nguyễn Bính lại nhắn gửi:
Mưa phùn đầy cữ chửa cho thôi,
Gió Bấc đêm nay buốt suốt giời.
Giường mộng con thoi còn chạy lẻ,
Hay là nàng đã dệt thoi đôi ?
Trong văn học cổ có một thành ngữ về mùa Đông là THU THÂU ĐÔNG TÀNG 秋 收 冬 藏, có nghĩa là: Mùa Thu là mùa của thu hoạch nông phẩm ngày xưa, còn mùa Đông là mùa phải cất giữ lại những nông phẩm thu hoạch đó để chi dùng trong những tháng mùa Đông lạnh lẽo giá buốt. Thành ngữ nầy có xuất xứ từ sách《Sử Ký, Sử Thái Công Tự Tự 史 记· 太 史 公 自 序》với cả câu như sau: "Phù xuân sanh hạ trưởng, thu thâu đông tàng, thị thiên đạo chi đại kinh 夫 春 生 夏 长,秋 收 冬 藏, 是 天 道 之 大 经" Có nghĩa : Phàm (vạn vật) mùa Xuân thì sanh sôi nẩy nở, mùa Hè thì phát triển trưởng thành, mùa Thu thì thâu hoạch thành quả, mùa Đông cất giữ (để chi dùng và để làm hạt giống cho năm sau), đó là cái lý lẽ lớn của đạo trời (chỉ sự tuần hoàn của vũ trụ và hoạt động trong đời sống con người). Các nông phẩm mang chữ ĐÔNG mà ta thường thấy thường dùng là:
- ĐÔNG QUA 冬 瓜 (東 瓜) là trái Bí Đao (tên khoa học là Benincasa pruriens), thường dùng để nấu canh và làm mức bí trong ngày Tết Nguyên Đán.
- ĐÔNG THÁI 冬 菜 là Cải Hủ, dân Chợ Lớn gọi theo tiếng Tiều Châu là "Cải Tan-xại" dùng để chưng thịt cá hoăc làm gia vị cho Hủ tiếu Mì khi ăn.
- ĐÔNG TRÙNG THẢO 冬 蟲 草 còn gọi là Đông Trùng Hạ Thảo 冬 蟲 夏 草 là một loại đông dược quý , được sử dụng từ lâu trong y học cổ truyền Trung Hoa và y học cổ truyền Tây Tạng; Hiện đang là dược thảo thịnh hành khắp thế giới.
- ĐÔNG DUẪN 冬 筍(笋)là Măng Tre mọc vào mùa Đông, có tên là MĂNG MẠNH TÔNG 孟 宗 筍, có vị ngọt dòn ngon nhất trong các loại măng, có xuất xứ từ Truyện thứ 17 của "Nhị Thập Tứ Hiếu 二 十 四 孝" do Quách Cư Nghiệp 郭 居 業 (có sách ghi là Quách Cư Kính 郭 居 敬) vào thời nhà Nguyên biên soạn. Câu truyện như sau :
MẠNH TÔNG 孟 宗(?—271)tự là Cung Vũ, người đất Giang Hạ thuộc nước Ngô thời Tam Quốc. Lúc nhỏ cha mất, mẹ thì thường hay đau yếu, khi bệnh mẹ trở nặng, thầy thuốc bảo ăn canh măng non thì bệnh sẽ khỏi, nên mẹ thường ao ước được ăn canh nấu bằng măng non. Khổ nỗi lại nhằm lúc mùa Đông, măng non chưa mọc, Mạnh Tông bèn chạy ra rừng tre ôm những cây tre mà khóc, rồi mệt lả mà thiếp đi. Khi tỉnh dậy thì đã thấy chỗ nước mắt rơi xuống có mấy mụt măng trổ đất mọc lên. Mạnh Tông cả mừng bèn bứng lấy đem về nấu canh măng dâng lên cho mẹ ăn. Quả nhiên hôm sau bà mẹ đã mạnh khoẻ trở lại. Vì có tiếng là hiếu thảo, nên chúa Đông Ngô vời ông ra làm quan đến chức Tư Không. Người đời sau có thơ khen rằng:
泪 滴 朔 風 寒 Lệ trích sóc phong hàn,
蕭 蕭 竹 數 竿。 Tiêu tiêu trúc sổ can.
須 臾 冬 笋 出, Tu vu Đông Duẩn xuất,
天 意 報 平 安。 Thiên ý báo bình an.
Có nghĩa :
Lệ rơi gió bấc lạnh lùng,
Lưa thưa vài khóm trúc rừng héo hon.
Phút đâu vài mụt măng non,
Chui ra từ đất trời còn thương nhau.
Về sau vào mùa Đông có một loại tre cho loại măng màu xám giống y như vậy, ăn rất ngon, được gọi là măng Mạnh Tông.
Trong chương trình cổ văn của lớp Đệ Thất (nay là lớp 6) ngày xưa, học sinh phải học hai tác phẩm "Lục Súc Tranh Công" và "Nhị Thập Tứ Hiếu" của Cử Nhân Lý Văn Phức (1785-1849) diễn Nôm bằng thể Song Thất Lục Bát. Bài "MẠNH TÔNG KHÓC MĂNG" được diễn Nôm như sau:
Ngô Mạnh Tông phụ thân sớm khuất,
Thờ mẫu thân lòng thực khăn khăn.
Tuổi già trằn trọc băn khoăn,
Khi đau nhớ bát canh măng những thèm.
Trời đông tuyết biết đâu tìm được,
Chốn trúc lâm phải bước chân đi.
Một thân ngồi dựa gốc tre,
Ôm cây kêu khóc nằn nì với cây.
Giữa bình địa phút giây bỗng nứt,
Mấy giò măng mặt đất nẩy sanh.
Đem về nấu một bữa canh,
Ăn rồi bệnh mẹ lại lành như xưa.
Măng mùa lạnh bây giờ mới thấy,
Để về sau nhớ lấy cỏ cây.
Cho hay hiếu động cao dày,
Tình sâu cũng khiến cỏ cây cũng tình.
Đầu mùa Đông ta có Tiết Lập Đông 立 冬 là thời điểm giao mùa giữa Thu và Đông, khi trời tàn Thu bắt đầu chuyển lạnh để sang mùa Đông rét mướt. Thi nhân cũng chuyển vận từ gió heo may hiu hắt sang gió tuyết lạnh lùng, tiêu biểu như bài lục ngôn thi LẬP ĐÔNG, là bài thơ 6 chữ hiếm hoi rất độc đáo của Thi Tiên Lý Bạch như sau đây:
凍 筆 新 詩 懶 寫, Đống bút tân thi lãn tả,
寒 爐 美 酒 時 温。 Hàn lô mỹ tửu thời ôn.
醉 看 梅 花 月 白, Túy khan mai hoa nguyệt bạch,
恍 疑 雪 落 前 村。 Hoảng nghi tuyết lạc tiền thôn !
Có nghĩa :
Bút cóng câu thơ biếng viết,
Lò lạnh rượu tốt thường hâm.
Say nhìn hoa mai trăng sáng,
Ngỡ rằng tuyết phủ đầu thôn.
Lục bát :
Bút lạnh biếng viết câu thơ,
Lò tàn lửa tắt hững hờ rượu hâm.
Say nhìn mai trắng trăng ngân,
Chập chờn như tuyết trắng ngần xóm xa !
Bài thơ của Thi Tiên làm cho ta nhớ đến hai câu thơ tả Hoa Mai Nở Sớm (Tảo Mai 早 梅) của nhà sư Tề Kỷ 齊 己 ở cuối đời Đường là:
Tiền thôn thâm tuyết lý, 前 村 深 雪 裏
Tạc dạ nhất chi khai. 昨 夜 一 枝 開。
Có nghĩa :
Xóm xa trong tuyết đêm qua,
Một cành mai sớm nở ra trắng ngần.
Và hai câu thơ trên lại làm cho ta nhớ đến hai câu cuối trong bài kệ "Cáo Tật Thị Chúng 告 疾 示 眾" của Mãn Giác Thiền Sư 滿 覺 禪 師 của Việt Nam ta là :
莫 謂 春 殘 花 落 尽, Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
庭 前 昨 夜 一 枝 梅! Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Có nghĩa :
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Ngoài sân, đêm trước, nở cành mai!
Năm Hội Xương thứ hai đời Đường Vũ Tông (842) Đỗ Mục 杜 牧 đã 40 tuổi, vì tính cương trực nên bị Tể Tướng Lý Đức Dũ tâu với vua biếm đến đất Hoàng Châu, Trì Châu rồi Mục Châu... Khi bị đày đến làm Thứ Sử Mục Châu lại nhằm lúc vào Đông, năm hàn tháng lạnh tha hương một thân một bóng, đêm Đông lạnh lẽo ngồi uống rượu một mình đã cảm tác nên bài "SƠ ĐÔNG DẠ ẨM 初 冬 夜 飲" (Đầu đông đêm uống rượu một mình) như sau:
淮 陽 多 病 偶 求 歡, Hoài Dương đa bệnh ngẫu cầu hoan,
客 袖 侵 霜 與 燭 盤。 Khách tụ xâm sương dữ chúc bàn.
砌 下 梨 花 一 堆 雪, Thế hạ lê hoa nhất đôi tuyết,
明 年 誰 此 憑 闌 干。 Minh niên thùy thử bằng lan can.
Thân ta nhiều bệnh tật như là Cấp Ảm 汲 黯 Thái Thú của quận Hoài Dương vậy, nên đôi khi cũng tìm vui trong chén rượu. Người khách tha hương hai tay áo nhuốm đầy phong sương chỉ làm bạn với cái giá nến cô độc nầy mà thôi. Dưới thềm tuyết đã đùn lên trắng xóa như hoa lê; không biết là sang năm còn có ai ngồi tựa lan can nầy (để uống rượu một mình như ta nữa không?)
Hoài Dương nhiều bệnh chợt tìm vui,
Tay áo phong sương bên nến côi.
Trắng xóa dưới thềm hoa lê tuyết,
Sang năm ai biết có ai ngồi !?
Cũng uống rượu trong đêm Đông, nhưng Bạch Cư Dị 白 居 易 lại uống một cách thư thái nhàn nhã, với một vò rượu mới ủ, với một bếp than hồng nho nhỏ, trong khi ngoài trời tuyết lại sắp rơi, dám hỏi bạn rằng: Bạn có thể đến cùng tôi để chúng ta cùng uống với nhau một chén rượu trong đêm Đông lạnh lẽo nầy hay chăng? Thật nên thơ và thật nhẹ nhàng thi vị biết bao! Ta cùng đọc bài ngũ ngôn tuyệt cú "VẤN LƯU THẬP CỬU 問 劉 十 九" (Hỏi chàng Lưu Thập Cửu) của Bạch Cư Dị sau đây nhé!
綠 螘 新 醅 酒, Lục nghĩ tân phôi tửu,
紅 泥 小 火 爐。 Hồng nê tiểu hỏa lô.
晚 來 天 欲 雪, Vãn lai thiên dục tuyết,
能 飲 一 杯 無? Năng ẩm nhất bôi vô ?
Có nghĩa :
Rượu vừa mới ủ xanh xanh,
Lò đất nho nhỏ cháy quanh lửa hồng.
Trời như muốn tuyết đêm đông,
Gặp nhau uống chén rượu nồng được chăng ?
Đọc bốn câu thơ trên lại làm cho ta nhớ đến bản nhạc "Về Dưới Mái Nhà" của nhạc sĩ Xuân Tiên với các câu...
... Người ơi ! Mau về đây,
Về bên bếp hồng tay cầm tay...
Mùa Đông luôn rét mướt với cảnh vắng lặng của núi rừng không một bóng chim chóc vãng lai; Trên các nẻo đường cũng vắng bóng người qua kẻ lại; Hoạ hoằn lắm mới thấy được một ông câu khoát chiếc áo tơi buông câu trên dòng sông tuyết băng lạnh lẽo... như trong bài "GIANG TUYẾT 江 雪" của Liễu Tông Nguyên 柳 宗 元, một trong "Đường Tống Bát Đại Gia" như sau:
千 山 鳥 飛 絕, Thiên sơn điểu phi tuyệt,
萬 徑 人 蹤 滅。 Vạn kính nhân tông diệt.
孤 舟 蓑 笠 翁, Cô chu toa lạp ông,
獨 釣 寒 江 雪。 Độc điếu hàn giang tuyết !
Có nghĩa :
Ngàn núi chim bay hết,
Muôn nẻo bóng người tuyệt.
Áo tơi một lão ông,
Buông cần trên sông tuyết !
Câu "Vạn kính nhân tông diệt" làm ta nhớ đến câu "Ngõ trúc quanh co khách vắng teo" của cụ Tam Ngyên Nguyễn Khuyến nhà ta ...
Nói đến mùa Đông là nói đến hoa mai và tuyết trắng. Trong cảnh Đông hàn lạnh lẽo, khi các cỏ cây hoa lá khác đã héo tàn thì hoa mai lại ngạo nghễ vươn lên trong tuyết lạnh với màu trắng tinh khiết và hương thơm nhẹ thoảng một cách cao nhã chẳng khuất phục trước thiên nhiên khắc nghiệt của thời tiết. Thôi Đạo Dung 崔 道 融 một thi nhân ở cuối đời Đường, mặc dù chỉ là một viên Huyện Lệnh nhỏ nhoi nhưng lại tự hào với nhân cách cao khiết của mình qua bài ngũ ngôn luật thi MAI HOA 梅 花 như sau:
數 萼 初 含 雪, Sổ ngạc sơ hàm tuyết,
孤 標 畫 本 難。 Cô tiêu họa bổn nan.
香 中 別 有 韻, Hương trung biệt hữu vận,
清 極 不 知 寒。 Thanh cực bất tri hàn.
橫 笛 和 愁 聽, Hoành địch hòa sầu thính,
斜 枝 倚 病 看。 Ta chi ỷ bệnh khan.
朔 風 如 解 意, Sóc phong như giải ý,
容 易 莫 摧 殘。 Dung dị mạc thôi tàn !
* Có nghĩa :
- Mấy đài hoa xanh còn đọng tuyết ôm ấp lấy mấy cánh hoa vừa mới nở...
- Cô đơn ngạo nghễ vươn lên, khó mà vẽ nên được cái thần thái vốn có kia
- Trong mùi thơm thoang thoảng có cái phong vận đăc biệt riêng,
- Vẻ thanh tân đến cùng cực nên không xem cái lạnh vào đâu cả.
- Khúc sáo "Mai hoa lạc" hòa vào sự buồn thương của người nghe,
- Với cành nhánh nghiêng chao trong tuyết giá trông như đang bệnh.
- Gió bấc kia nếu như hiểu được cái ý tình của hoa mai, thì xin...
- Chớ dễ dàng mà nổi cơn cuồng nộ làm cho hoa mai phải tàn tạ tả tơi !
* Diễn Nôm :
MAI HOA
Đài hoa điểm tuyết trắng ngần,
Thanh cao ngạo nghễ khó phần vẽ nên.
Trong hương phong vận không tên,
Thanh tân hết mực nên quên lạnh hàn.
Sáo ai sầu khúc mai tàn,
Nghiêng chao cành nhánh nhẹ nhàng tợ đau.
Bắc phong điêu nghệ chút nào,
Chớ đem buốt giá lao đao nhánh cành !
Còn Tể Tướng Vương An Thạch đời Tống thì nhẹ nhàng, bình dân và đơn giản gãy gọn hơn với bài ngũ ngôn tuyệt cú sau đây:
牆 角 數 枝 梅, Tường giốc sổ chi mai,
凌 寒 獨 自 開。 Lăng hàn độc tự khai.
遙 知 不 是 雪, Dao tri bất thị tuyết,
為 有 暗 香 來。 Vị hữu ám hương lai !
Có nghĩa :
Gốc tường mấy cành mai,
Lạnh lẽo vẫn nở hoài.
Xa trông nào phải tuyết,
Vì hương thoảng mũi ai !
Lục bát :
Góc tường nọ mấy cành mai,
Lạnh tràn vẫn cứ nở hoài không thôi.
Xa trông chẳng phải tuyết rơi
Vì làn hương nhẹ khắp nơi thoảng mùi !
Có MAI có TUYẾT rồi còn phải có THƠ nữa thì mới đủ "Bộ Ba" nhã hứng của thi nhân ngày xưa. TUYẾT MAI Nhị Thủ 雪梅 二 首 là hai bài thơ thất ngôn tứ tuyệt nói về MAI TUYẾT và THƠ của thi nhân Lư Mai Pha 盧 梅 坡 đời Nam Tống. Hai bài thơ đã nói lên sự gắn bó không thể tách rời giữa Hoa mai, Tuyết trắng và Thơ ca; một sự kết hợp tuyệt vời của "Ba trong Một" mà nếu thiếu mất Một thì sẽ không thể tạo nên cái không gian và cảnh trí đẹp đẽ đặc sắc của buổi Đông hàn giá buốt. Mời tất cả cùng đọc và thưởng thức...
其 一 Kỳ Nhất
梅 雪 爭 春 未 肯 降, Mai Tuyết tranh xuân vị khẳng hàng,
騷 人 擱 筆 費 評 章。 Tao nhân các bút phí bình chương.
梅 須 遜 雪 三 分 白, Mai tu tốn tuyết tam phân bạch,
雪 却 輸 梅 一 段 香。 Tuyết khước thâu mai nhất đoạn hương.
* Chú thích :
- Hàng 降 : là đầu hàng, là Chịu thua. VỊ KHẲNG HÀNG là Chẳng chịu thua.
- Tao Nhân 騷 人 : là Tao nhân mặc khách chỉ khách văn chương, văn nhân thi sĩ.
- Các Bút 擱 筆: là Gác bút, không viết được.
- Bình Chương 評 章 : là bình phẩm về văn chương thi ca.
- Tốn 遜 : là Khiêm tốn; là nhường nhịn, là Sút kém.
- Thâu 輸 : là Thua, là Sút kém.
* Nghĩa bài thơ :
- Mai và Tuyết cùng tranh nhau mùa Xuân mà chẳng ai chịu nhường ai cả.
- Các tao nhân mặc khách cũng đành gác bút không muốn phí lời bình phẩm.
- Bạch Mai thì sút kém hơn Tuyết ba phần về sắc trắng. Còn...
- Tuyết thì thua Mai vì Mai còn có một làn hương thơm thoang thoảng.
* Diễn Nôm :
Mai tuyết tranh xuân chẳng chịu nhường,
Thi nhân gát viết phí lời suông.
Mai thì nhường tuyết ba phần trắng,
Tuyết lại thua mai một thoáng hương !
Lục bát :
Tranh xuân Mai Tuyết chẳng nhường,
Thi nhân gác bút hết đường cân phân.
Mai thua Tuyết trắng ba phần,
Tuyết thì lại chịu mai gần thoáng hương !
其 二 Kỳ Nhị
有 梅 無 雪 不 精 神, Hữu Mai vô Tuyết bất tinh thần,
有 雪 無 詩 俗 了 人。 Hữu Tuyết vô Thi tục liễu nhân.
日 暮 詩 成 天 又 雪, Nhật mộ Thi thành thiên hựu Tuyết,
與 梅 並 作 十 分 春。 Dữ Mai tịnh tác thập phân Xuân !
* Chú thích :
- Bất Tinh Thần 不 精 神 : Chỉ Không có cái thần thái cao nhã thanh khiết.
- Tục Liễu nhân 俗 了 人 : Chỉ Con người trở nên phàm tục, tầm thường.
- Tịnh Tác 並 作 : là Cùng tương tác để tạo nên...
- Thập Phân Xuân 十 分 春 : là Mười phần xuân, chỉ mùa xuân trọn vẹn đầy đủ.
* Nghĩa bài thơ :
- Có Mai mà không có Tuyết thì sẽ như thiếu đi cái thần thái cao nhã.
- Đã có Tuyết rồi nếu không có Thơ thì như quá phàm tục tầm thường.
- Trong cảnh trời chiều khi Thơ mới làm xong thì trời lại đổ Tuyết...
- Hợp cùng với hoa Mai nữa là mùa Xuân đã trọn vẹn cả mười phân vẹn mười rồi !
* Diễn Nôm :
Có Mai không Tuyết chẳng tinh thần,
Có Tuyết không Thơ phàm tục nhân.
Chiều xuống thơ thành trời lại tuyết,
Hợp cùng Mai nở cả mùa Xuân !...
Lục bát :
Có Mai không Tuyết tầm thường,
Không thơ có Tuyết tầm thường càng nhanh.
Trời chiều Tuyết đổ Thơ thành,
Hợp cùng Mai nở xuân xanh vẹn mười !
Ta thấy...
Trong khi hoa mai nở sớm trong làn tuyết trắng bay bay là đã báo hiệu cho mùa Xuân đã đến. Mai nở trong tuyết, tuyết vờn quanh mai tạo nên một bức tranh cao nhã đầy thi vị của Xuân tươi, nên cần có thơ để thăng hoa nâng cảnh trí nên thơ của buổi tàn Đông và đầu Xuân lên tuyệt đĩnh. Tác giả đã ngắm tuyết rơi, thưởng thức hoa mai nở và ngâm thơ xuân MAI TUYẾT trong tinh thần thẩm mỹ cao độ giữa MAI TUYẾT và THƠ một cách vô cùng nên thơ thi vị. Cụ Nguyễn Du cũng đã mượn cái cao nhã tinh khiết của Mai, của Tuyết của hai bài thơ nầy để tả vẻ đẹp thuần khiết trong trắng và cao quý của chị em Thúy Kiều và Thúy Vân:
MAI cốt cách TUYẾT tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười !
Không phải chỉ có Hoa Mai là nở trong mùa Đông, ở Việt Nam ta còn có HOA CÚC nữa. Mặc dù hoa Cúc là loài hoa tiêu biểu tượng trưng cho mùa Thu, nhưng vào Đông cúc vẫn cứ nở rộ rực rở như đang tranh đẹp với hoa Mai vậy. Ta hãy đọc bài thất ngôn tứ tuyệt "ĐÔNG CÚC 冬 菊" sau đây của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì sẽ rõ:
一 種 延 年 館 裡 栽, Nhất chủng diên niên quán lý tài,
晚 香 獨 向 雪 中 開。 Vãn hương độc hướng tuyết trung khai.
莫 笑 爭 芳 時 太 晚, Mạc tiếu tranh phương thời thái vãn,
先 春 肯 讓 一 枝 梅。 Tiên xuân khẳng nhượng nhất chi mai?!
Có nghĩa :
- Có một loài hoa được trồng quanh năm trong nhà trong quán;
- Có một mùi hương độc đáo về đêm thường hướng vào trong tuyết mà nở.
- Chớ cười là cùng tranh thơm một cách qúa muộn màng.
- Trước khi mùa Xuân đến, há chịu nhường cho một cành mai hay sao ?!
(Có nghĩa là trong mùa Đông nầy hoa cúc ta vẫn còn đẹp còn thơm lắm, chẳng có thua gì hoa mai kia chút nào cả !)
Loài hoa trồng tỉa suốt năm dài,
Đêm xuống hương thơm dựa tuyết khai.
Chớ bảo tranh thơm đà qúa muộn,
Trước xuân há dễ chịu nhường mai !
Lục bát :
Suốt năm trồng tỉa quanh nhà,
Đêm Đông tuyết xuống hương xa dịu dàng.
Tranh thơm chớ bảo muôn màng,
Trước Xuân há chịu nhượng nàng mai kia !
Nhân nhắc đến CÚC và MAI lại nhớ đến bốn câu cuối trong bài THẦN ĐỒNG THI 神 童 詩 của Uông Thù 汪 洙 đời Tống là:
春 游 芳 草 地, Xuân du phương thảo địa,
夏 賞 绿 荷 池。 Ha thưởng lục hà trì.
秋 飲 黄 花 酒, Thu ẩm hoàng hoa tửu,
冬 吟 白 雪 詩。 Đông ngâm bạch tuyết thi.
Có nghĩa :
Xuân du trên thảm cỏ non,
Hè thì thưởng ngoạn sen tròn trên ao.
Thu nhâm nhi rượu cúc đào,
Đông ngâm thơ tuyết thú nào hơn ta !
Lại nhớ đến năm xưa, khi theo học lớp Đồng Ấu, thầy giáo đã cho học bài Học Thuộc Lòng (trong "Quốc Văn Giáo Khoa Thư"?) như sau:
Mùa xuân ấm áp khỏe người,
Hè thời nóng bức lửa trời nấu nung.
Mùa Thu gió mát trăng trong,
Mùa Đông rét mướt cho lòng xót xa.
Kẻ giàu mớ bảy mớ ba,
Người nghèo biết lấy chi mà che thân !
"Mớ bảy mớ ba" vì nằm trong nệm ấm chăn êm, còn trong đêm Đông vẫn lang thang không nhà sống đời cô lữ, thì làm sao mà "mớ bảy mớ ba" cho được! Để kết thúc bài viết "ĐÔNG là Mùa Đông" nầy, xin mời tất cả cùng lắng lòng với lời hát trong bản nhạc Thời Tiền Chiến "ĐÊM ĐÔNG" rất nổi tiếng của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sáng tác vào năm 1939 của thế kỷ trước qua tiếng hát độc đáo của nữ ca sĩ Thanh Lam :
Mời bấm vào link dưới đây để nghe nhạc:
Hẹn bài viết tới :
ĐÔNG là HƯỚNG ĐÔNG
杜 紹 德
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét