LUẬN NGỮ CỔ NGHĨA Tổng Luận (Diển Đàn Khai Phóng )
Tác giả: Itô Jinsai
Biên dịch: Nguyễn Sơn Hùng***
I. Lai lịch (của sách Luận Ngữ)
Hình Bỉnh(932~1010) đời Tống viết: “Theo Văn Nghệ Chí của Hán
Thư, Luận Ngữ là:1) Nội dung hỏi và trả lời giữa Khổng tử và các
đệ tử (học trò của ông) hoặc các người đương thời; 2) Lời thảo luận
giữa các đệ tử lọt vào tai của Khổng tử. Khi Khổng tử còn tại thế,
các đệ tử mỗi người tự ghi chép lại nhưng sau khi phu tử qua đời,
các môn nhân tập hợp các nội dung ghi chép nói trên và biên tập lại.
Do đó, họ đặt tựa đề là “Luận Ngữ””.
Đến đời Hán, nội dung còn lưu truyền lại chia thành 3 học phái.
“Lỗ Luận Ngữ” là nội dung được truyền thừa ở nước Lỗ. Thứ tự
các thiên của sách Luận Ngữ được phổ biến hiện nay là căn cứ vào
sách Lỗ Luận Ngữ này.
“Tề Luận Ngữ” là sách được lưu truyền lại ở nước Tề. Sách này
còn có thêm 2 thiên: thiên Môn Vương và thiên Trí Đạo, tổng cộng
22 thiên. Ngay cả trong 20 thiên có thiên, có tiết mà sách Lỗ Luận
Ngữ không có.
“Cổ Luận Ngữ” là sách được phát hiện trong vách nhà cũ của
Khổng tử gồm có 21 thiên. Ngoài việc trùng lặp của thiên Tử
Trương, thứ tự các thiên cũng khác với sách Lỗ Luận Ngữ và sách
Tề Luận Ngữ.
Khổng An Quốc (cháu đời thứ 10 của Khổng tử, không rõ năm sinh
năm mất, Tiền Hán) chú thích và Mã Dung(79~166) đời Hậu Hán
cũng có chú thích.
Trương Vũ 張 禹(?~TCN 5), một mặt học Lỗ Luận Ngữ từ Hạ Hầu
Kiến, một mặt học Tề Luận Ngữ từ Khang Sinh và Vương Cát, chọn
lựa những nội dung hay của 2 sách này để biên soạn và đặt tên là
“Trương Hầu Luận”.
Bao Hàm 包 咸 (TCN 6~ 65) và Chu thị (khác với Chu Hy đời Tống)
đời Hậu Hán mỗi người cú đọc một cách (cắt thành câu để hiểu
nghĩa, Hán Văn ngày xưa không có dấu phẩy, dấu chấm câu) và lập
định bản (定 本, phiên bản xác thực) (xem xét, so sánh các phiên
bản khác nhau, tu bổ các chỗ sai hoặc thiếu để lập phiên bản hợp lý
và đúng hơn), kế đến sách được dùng làm sách giáo khoa cho các
quan chức học hoặc học để ra làm quan (quan học官 学).
Trịnh Huyền 鄭 玄(127~200. Hậu Hán) sử dụng sách Lỗ Luận Ngữ,
sách Trương Hầu Luận và các sách giáo khoa của Bao thị và Chu
thị đối chiếu với sách Tề Luận Ngữ và sách Cổ Luận Ngữ để viết
chú thích.
Quan Thượng Thư của Sử Bộ (bộ Nội Vụ) tên Hà Yến 何 晏(?~249)
vừa tập hợp các giải thích của các học giả vừa thêm giải thích của
mình để viết sách Luận Ngữ Tập Giải. Ông dâng sách lên cho Ngụy
hoàng đế (Tề vương của nước Ngụy) trong khoảng các năm có niên
hiệu Chính Thủy (240~248). Sách này được thịnh hành và người
đời sử dụng.
Duy Trinh (tức Jinsai) nghĩ rằng, theo Trịnh Huyền, “Luận Ngữ là
nội dung do các đệ tử của Khổng tử như Trọng Cung (tức Nhiễm
Ung, Ung của thiên 6 Ung Dã), Tử Du, Tử Hạ tuyển định”. Theo
Trình tử: “Sách Luận Ngữ là do tay của các môn nhân của Hữu tử
và Tăng tử làm thành nên sách này chỉ gọi 2 nhân vật này (trong
các đệ tử của Khổng tử) bằng từ “tử”, với ý nghĩa là tiên sinh.” Theo
tôi nghĩ (tức Jinsai), nếu chỉ cho rằng các người này chọn lời nói
của Khổng tử thì đúng nhưng đối với lời của chư tử (nghĩa là các đệ
tử của Khổng tử) thì không thể khẳng định như vậy. Sách Luận Ngữ
vốn không phải do 1 người ghi chép và thời điểm sách hình thành
cũng không phải cùng vào 1 thời đại. Lý do của ý tưởng này là bởi vì
ngoài Hữu tử và Tăng tử, trong sách cũng còn có gọi Mẫn tử, Nhiễm
tử bằng “tử”. Ngoài ra, trong các lời nói của chư tử (các đệ tử của
Khổng tử), số lời nói của Tăng tử là nhiều nhất, kế đến là của Tử
Cống và của Tử Hạ. Ở trong thiên Học Nhi, ghi chép lời của Hữu tử
đến 3 lần. Nếu kết hợp với thiên Tử Trương ghi chép nhiều lời của
Tử Trương thì tất cả các lời của Khổng tử là do Tử Du, Tử Hạ viết
nhưng lời của các chư tử (các đệ tử của Khổng tử) chúng ta hiểu là
do học trò của mỗi người này ghi chép lại. Tóm lại những người
phụ trách biên tập sách Luận Ngữ là những người của Tử Du và
Tử Hạ. Việc này đại thể giống như việc Tăng Củng 曽 鞏 nói người
ghi chép Nghiêu Điển, Thuấn Điển của sách Thượng Thư là bạn bè
của Cao Dao 皋 陶, Quỳ 夔 và Long 竜(1).
Số người giảng giải hoặc chú thích Luận Ngữ từ đời Tống đến nay
đã hơn vài trăm người. Tuy nhiên có nhiều người tự đưa ra kiến giải
của mình, trong đó có nội dung lẫn lộn với học thuyết của Phật học
và Đạo giáo, không thể tin cậy được. Nhưng các giải thích của các
học giả đời Hán vì còn gần gũi với cổ đại nên có mặt còn tiếp nhận
và truyền đạt được chân ý của Khổng tử (Ogyu Sorai cũng có nhận
xét này). Do đó, sách Luận Ngữ Cổ Nghĩa này phần lớn dừng lại ở
phạm vi của sách Luận Ngữ Chú Sơ (của Hình Bỉnh). Đối với giải
thích của các học giả khác chỉ chọn lọc những điểm ưu tú. Đối với
ngữ nghĩa (nghĩa của chữ) và huyết mạch (chính thống) của Khổng
học, tôi đã không nghĩ đến thân phận mà thêm kiến giải riêng của
mình (nên hiểu là cách nói khiêm tốn).
Duy Trinh lại nói, Luận Ngữ gồm 20 thiên, và người ta phân chia
thành 2 quyển thượng và hạ để truyền bá. Việc phân chia này giống
như việc phân chia thành chính tập (phần nội dung chủ yếu) và
tục tập (phần nội dung tiếp theo để bổ sung) của các văn tập đời sau. Người biên tập sách Luận Ngữ trước hết thu thập, ghi chép lại 10
thiên đầu để dạy và học tập. Sau đó lại biên tập thêm 10 thiên tiếp
theo để bổ sung những nội dung mà tập trước thiếu sót. Ngày nay
người ta hợp chung cả 2, thành 20 thiên.
Lý do như sau. Theo đặc điểm của thiên 10 Hương Đảng, thiên này
phải ở vị trí cuối cùng, có nghĩa là ở vị trí của thiên 20 của sách
nhưng hiện tại thiên này ở vị trí chính giữa của sách. Nội dung của
10 thiên đầu cũng đủ cho 1 quyển sách. Khi xem xét kỹ sách Luận
Ngữ, thiên thuật lại chí hướng của Tăng Điển (tức Tăng Tích) (Bài
25 của thiên 11 Tiên Tiến), thiên Tử Lộ hỏi về chính danh (tức Bài
3 thiên 13 Tử Lộ), thiên Quý Thị thảo phạt (tức Bài 1 thiên 16 Quý
Thị), là những thiên rất dài.
Ngoài ra, các nội dung như “lục ngôn lục tế” (6 thứ đức và 6 điều
che lấp) (Bài 8 thiên 17 Dương Hóa), “quân tử hữu cửu tư” (9 điều
luôn luôn cần để ý đến của người quân tử) (Bài 10 thiên 16 Quý
Thị), “quân tử hữu tam giới” (3 điều cảnh giới của người quân tử)
(Bài 7 thiên 16 Quý Thị) đều không thấy ở trong phần đầu. Lý luận
và thể văn có điểm không giống với phần đầu. Từ các điều này có thể
hiểu 10 thiên của phần sau là bổ sung nội dung thiếu sót của phần
đầu.
II. Cương lĩnh
(Phương pháp hữu ích khi đọc Luận Ngữ và Mạnh Tử) (2)
- Đề xướng của Trình tử
Trình tử (tức Trình Di) nói “Đọc hết sách Luận Ngữ có người thản
nhiên. Có người đọc xong thì vui mừng hiểu được 1, 2 câu trong
sách. Có người trở nên thích sách này khi đọc xong. Có người vừa
khi đọc hết thì vui điên lên, tự mình tay múa, chân nhảy mà không
hay biết.”
Trình tử lại nói “Người học đạo làm người cần phải lấy 2 sách
Luận Ngữ và Mạnh Tử làm căn bản. Khi đọc được 2 sách này thì
không cần học lục kinh (tức 6 kinh sách: kinh Thi, kinh Thư, kinh
Lễ, kinh Nhạc, kinh Dịch, và kinh Xuân Thu) cũng tự nhiên hiểu
(ý nói nội dung 2 sách bao gồm cả nội dung hoặc các nội dung chủ
yếu của lục kinh) (Ogyu Sorai phê phán chủ trương này, cho rằng
đây là 1 tệ hại quan trọng của Tống Nho vì nội dung đạo Khổng, tức đạo tiên vương nằm trong 6 kinh sách này đặc biệt là Thi Thư Lễ Nhạc) Người đọc sách nên lưu tâm suy nghĩ đến chủ ý của thánh
nhân khi sáng tạo kinh sách, những điểm thánh nhân đã khổ tâm,
các lý do mà thánh nhân đã đạt thành thánh nhân, kế đến các lý do
mà bản thân mình chưa đạt đến mức độ của thánh nhân, các lý do
mà bản thân mình chưa có thể thông hiểu, và truy tìm ý nghĩa của
từng câu một. Ban ngày thì đọc thành tiếng, hưởng nếm hương vị
sâu xa của kinh sách, ban đêm phản tĩnh để lòng yên tĩnh lắng
xuống, thanh thản tự nhiên để lại những điểm còn nghi ngờ chưa
sáng tỏ. Nếu như người đọc sách biết có tư thế thận trọng như vậy
có lẽ sẽ hiểu được chủ ý của thánh nhân và các điều đã nói ở trên.”
Trình tử lại nói “Người học nên xem những câu hỏi của các đệ tử
trong sách như câu hỏi của chính mình và cần phải nghe nội dung
trả lời của thánh nhân một cách thân thiện bằng tai của mình ở
hiện tại, nếu làm như vậy có lẽ tự nhiên sẽ hiểu được ý muốn truyền
đạt của thánh nhân. Nếu như Khổng tử và Mạnh tử dù có sống lại
vào thời nay thì cũng giảng dạy nội dung như đã được trả lời ở trong
sách, không hề khác. Nếu như cứ lập đi lập lại việc tìm hiểu và
hưởng nếm hương vị các ý nghĩa trong sách này (tức Luận Ngữ),
tự nhiên sẽ thấm nhuần và tính chất hậu thiên (tức tính chất có
được do học hỏi, khác với tính chất bẩm sinh trời cho) có lẽ sẽ được
hình thành.”
Trình tử lại nói “Nếu như đọc sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thì cần
phải đọc cho thật kỹ, nhuần nhuyễn và nghiền ngẫm ý nghĩa của
sách. Cần phải xem lời của Khổng tử thiết thực đối với bản thân chứ
không phải đơn thuần chỉ là nội dung của trường hợp xảy ra trong
sách. Nếu đọc kỹ 2 quyển sách này và có thể xem như thiết thực đối
với bản thân thì cũng đủ để sống hết cả cuộc đời.”
- Giải thích đặc điểm Luận Ngữ của Jinsai
Jinsai nghĩ rằng sách Luận Ngữ đưa ra các nguyên tắc căn bản của
đạo học (tức Khổng học) cho muôn đời. Lời của sách rất chính đáng
thích hợp và nhất quán từ bắt đầu cho đến cuối, 1 chữ cũng không
dư và cũng không thể thiếu đi 1 chữ.
Luận Ngữ bao gồm hết cả nội dung của đạo, và giúp cho việc học đạt
được đỉnh cao nhất. Giống như trời đất to rộng vô biên mà con
người ở trong đó không thể giác ngộ sự to rộng của trời đất. Đạo
cũng như trời đất, muôn đời không thay đổi và chắc chắn lan rộng
đến mọi nơi trên thế giới. Đạo thật là vĩ đại làm sao!
Khi thuật lại nội dung của đạo, thánh nhân lấy nhân 仁 làm gốc rễ,
trí 智l àm trọng yếu, lấy nghĩa 義 làm bổn phận, sứ mệnh, và lấy lễ
làm trợ lực.
Khi giảng dạy để khuyên bảo người khác, thánh nhân giảng “Hãy học văn 文 (kinh sách) cho thật rộng, và thực hành điều đã học theo
lễ.” (bác học ư văn; ước chi dĩ lễ) (Bài 25 thiên 6 Ung Dã) hoặc
“Giảng dạy 4 điều: văn (kinh sách), hành (thực hành), trung (tận
tâm, hết sức), tín (sự tin cậy, tín nhiệm)” (Tử dĩ tứ giáo: văn, hạnh,
trung, tín)” (Bài 24 thiên 7 Thuật Nhi). Tổng kết lại, Khổng tử nói
“Đạo của ta chỉ có một lẽ mà thông suốt cả” (Ngô đạo nhất dĩ quán
chi) (Bài 15 thiên 4 Lý Nhân). Mục tiêu của thánh nhân chỉ có bao
nhiêu đó, dù sau này có thánh nhân nào khác xuất hiện cũng không
thể giảng dạy nội dung ra ngoài nội dung nói trên.
Các Nho gia đời Tống khi giảng dạy Luận Ngữ xem nhân nghĩa là
lý 理 (lý lẽ), họ không hiểu nhân nghĩa 仁 義 chỉ là 1 tên gọi của đức
徳, và họ định nghĩa trung tín 忠 信 là tác dụng(dụng 用) và không
nghĩ trung tín là 1 tác dụng (hiệu quả) rất quan trọng. Bi thảm hơn
nữa là có người cho rằng sách Luận Ngữ không đủ nên họ vay
mượn từ Phật học hoặc học thuyết của đạo giáo (tức Lão Trang) để
làm căn cứ cho chủ trương của họ (ý nói Tống Nho, tiêu biểu là
Chu Hy). Rất hiếm người không phải là tội nhân đối với Khổng học.
- Jinsai đánh giá Luận Ngữ: sách chí cực tối thượng đứng đầu
- trong vũ trụ
Duy Trinh (tức Jinsai) lại nói “Trước thời Khổng tử, pháp chế giáo
hóa (chế độ và phương pháp giáo dục) đã được xây dựng khá đầy đủ
nhưng học thuyết chưa được phát triển nên đạo đức chưa được mọi người ý thức đầy đủ.
Sau thời Khổng tử, đạo đức và học vấn mới được phát triển đầy đủ.
Nhờ đó, các học giả ngàn đời sau mới biết thực tiễn theo nhân nghĩa
tất cả đều lấy nghĩa lý để tách rời ra khỏi học thuyết bói toán và
quỷ thần. Do đó có thể nói nhờ phu tử mà việc học khai tịch (mở) ra
một thời đại mới.
Mạnh tử đã trích dẫn lời của Tể Ngã, Tử Cống, và Hữu Nhược để
nói “(Phu tử) tài giỏi ưu việt hơn vua Nghiêu, vua Thuấn rất xa (Bài
2 chương 3 Công Tôn Sửu thượng, Mạnh Tử) và “Từ lúc nhân loại
xuất hiện không có ai có nhân cách phong phú như Khổng tử”(cùng
trong bài trên). Các đệ tử này tiếp xúc gần gũi với phu tử nên thực
tế biết được sự ưu việt của ông hơn người khác và đã diễn tả như
trên. Đó là lý do mà tôi quả quyết sách Luận Ngữ là sách chí cực tối
thượng đứng đầu trong vũ trụ.
Những người đời sau từ thời Hán, thời Đường tất cả đều biết lục
kinh quý trọng nhưng lại không biết sách Luận Ngữ quý trọng hơn
và nội dung cao thâm vượt trội hẳn lục kinh.
Có người bắt đầu bằng kinh Dịch, thiên Hồng Phạm của kinh Thư
hoặc có người bắt đầu bằng sách Đại Học hoặc sách Trung Dung
bởi vì họ không biết sách Luận Ngữ là sách làm rõ ràng đạo là gì,
xây dựng các lời khuyên từ đầu đến cuối nhất quán không có điểm
nào đáng tiếc, không có sách nào có thể sánh bằng.
- Đạo phải đúng phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng ở mọi nơi ở mọi lúc và con người không thể xa cách đạo dù trong giây lát ngắn ngủi. Cần đọc Luận Ngữ với quan điểm này mới hiểu được cái hay của sách.
Duy Trinh (tức Jinsai) lại nói như sau. Đạo nhất định phải đúng và
rõ ràng minh bạch hơn tất cả mọi thứ đồng thời dễ biết và dễ hiểu,
dễ áp dụng ở bất cứ địa điểm nào trên thế giới, và không thể cách
rời xa bản thân con người trong giây lát. Vì vậy đạo không khó biết,
không khó hiểu nhưng khó giữ gìn (nghĩa là tuân theo trong đời
sống). Nếu không khó giữ gìn thì cũng khó đối với việc chỉ biết vui
thích với đạo.
Thứ cao xa không thể vói tới không phải là đạo. Thứ được ẩn cất
dấu trong góc xó, mọi người không thể biết đến thì cũng không thể
là đạo. Bởi vì thứ này không phải là đạo mà con người không thể
cách rời trong giây lát khi ở bất cứ nơi nào trên thế giới hay có thể
áp dụng cho bất kỳ lúc nào cho đến vạn đời sau.
Thứ mà trong 10 người không thể hiểu nhưng chỉ có 1 người có thể
hiểu biết được thì không phải là đạo. Thứ 10 người không thể
nhưng chỉ có 1 người có thể áp dụng thì không phải là đạo không
thể cách rời trong giây lát cho suốt cả vạn đời về sau. (a)
Nếu như biết được đạo lý nói trên thì chúng ta có thể biết đức của
phu tử cao và siêu việt hơn các thánh nhân thông thường, và đạo
của Khổng tử cao, vượt trội hơn trong mọi thời đại.(b)
Trong sách Trung Dung viết “Vào ngày xưa của 3 thời đại Hạ, Ân,
và Chu không có sai lầm, trong thiên hạ rộng lớn cũng không có
việc trái ngược với đạo. Hỏi quỷ thần vô hình rằng đạo có đúng
không, quỷ thần cũng cho rằng đúng. Dù cho các thánh nhân của
100 đời sau cũng không do dự ngần ngờ cho đạo nói trên là đúng.” (Chương 24 sách Trung Dung). Đây là nội dung ca ngợi đức và sự
thành công việc học của Khổng tử.
Các học thuyết khác quá cao xa người thường không thể vói đến, và
được cất dấu trong 1 góc không thể biết đến. Nếu lấy tiêu chuẩn
của 3 thời đại ngày xưa mà phán đoán thì đạo đó sai lầm. Đem áp
dụng thử vào xã hội con người thì trái ngược đạo lý không thể dùng
được. Dùng các học thuyết này để suy đoán các cảm tình của con
người, nguyên lý tự nhiên của sự vật thì thấy tất cả đều không nhất
trí trùng hợp.
Trong vũ trụ vốn không có những nguyên lý như các học thuyết này
chủ trương hoặc đề xướng. Dù cho đạo có cần phải nói quanh co
khó hiểu cũng phải ở mức độ nào đó có thể chấp nhận được. Một
khi đến cực hạn của độ cao chắc chắn phải trở lại vị trí thấp hơn,
và 1 khi đã tiến đến nơi tận cùng xa thì phải quay lại chỗ gần. Khi
trở lại nơi thấp và gần thì chủ trương của học thuyết mới trở nên
thực tế. Bởi vì những nội dung thấp và gần với con người thì không
bao giờ thay đổi và con người mới có thể sinh sống với những nội
dung đó; còn đối với những điều cao xa thì không phải là nội dung
con người có thể sinh sống với chúng hàng ngày. Bởi vì trình độ
thấp và gần mà người đời gọi vốn không phải thật sự thấp và gần
mà các nội dung này rất bình thường, có nghĩa là không kỳ lạ hoặc
cao siêu hoặc hiếm có. Thật ra đạo là những nội dung mà xã hội
con người từ xưa đến nay căn cứ vào để vận hành, quản lý xã hội,
là đạo đức mà con người cần phải tuân theo, và trong sinh hoạt
hàng ngày trong bất cứ trường hợp hoặc cảnh ngộ nào cũng phải
có hoặc tuân theo. Như vậy thì đạo làm sao có thể cao xa cho được?
Những người chán ghét những nội dung thân cận gần gũi, vui thích với các nội dung cao xa thì làm sao có thể kể lại thứ đạo không thể xa
cách trong giây lát, và phổ biến thông dụng cho mọi nơi và mọi thời
điểm cho đến muôn đời về sau. Người học trước hết phải biết điều
này, có được như vậy mới có thể đọc hiểu sách Luận Ngữ.
Duy Trinh lại nói như sau. Người có ý định học đạo của Khổng tử
và Mạnh tử (tức đạo Khổng Mạnh) cần phải biết điểm chung và
điểm khác nhau của 2 sách này. Thỏa mãn được điều kiện này, chủ
ý căn bản của Khổng tử và giải thích của Mạnh tử tự nhiên sẽ trở
nên minh bạch rõ ràng. Bởi vì có 2 điều quan trọng trên đời này, đó
là đạo và lời khuyên tốt lành. Đạo là gì? Là nhân nghĩa. Lời khuyên
tốt lành là gì? Là việc học.
Sách Luận Ngữ chuyên giảng dạy những lời khuyên tốt lành. Đạo
được chứa đựng trong những lời khuyên tốt lành này. Sách Mạnh Tử chuyên giải thích đạo, các lời khuyên tốt lành được chứa đựng
trong đó. Tại sao vậy? Lý do như sau.
Đạo có đầy trong vũ trụ (nghĩa là chỗ nào nào trong vũ trụ đều có
hiện diện của đạo, giống như quy luật tự nhiên) và quán triệt từ xưa
đến nay, không có chỗ nào mà đạo không tồn tại, không có giây
phút nào mà không có tác dụng của đạo (giống như quy luật tự nhiên). Đạo hoàn hảo. Tuy nhiên, đạo không thể làm con người tự mình biết
hướng về điều thiện. Do đó, để làm sáng tỏ đạo đức mà làm người
cần phải luôn luôn gìn giữ tuân theo, thánh nhân đã đề xướng ra
nhân nghĩa, thông qua kinh Thi, kinh Thư, Lễ Ký, kinh Nhạc để dạy con người thành thánh nhân hoặc hiền nhân (Sorai chủ trương: thánh
nhân là do bẩm sinh, không thể đạt được bằng việc học), và kết quả
tạo ra nền tảng cơ sở để thế giới con người được sống hòa bình muôn
đời, đều là do công ơn của thánh nhân. Vì lý do này mà phu tử
chuyên thuyết giảng các lời khuyên tốt lành, và đạo được bao gồm
trong đó.
Đến thời đại của Mạnh tử vì cách xa thời đại của thánh nhân (tức
Khổng tử) nên giá trị của đạo bị che lấp, các học thuyết dị đoan xuất
hiện nhiều và rối loạn như tổ ong bị chạm phá, các học phái khác
cho rằng học thuyết của mình mới thật sự là đạo, không có ai thống
nhất được các học thuyết này. Do đó Mạnh tử mới đề xướng nhân và nghĩa và sau đó tuyên bố trong nhân gian. Giống như ban ngày
thay thế cho ban đêm; ấm áp thay thế cho lạnh rét, không có thiên
lệch, chiếu sáng như mặt trời và tinh tú làm cho mọi người không
còn chỗ nào để lạc lối. Trong suốt 7 chương (mỗi chương chia là
thượng và hạ, tổng số 14) của sách, ông giảng giải dọc ngang (sâu
và rộng); đôi lúc lời nói có vẻ mâu thuẫn nhau nhưng không có điểm
nào là không lấy nhân nghĩa làm chủ ý. Nội dung sách giảng giải
cần nên giữ nhân nghĩa trong lòng để nuôi dưỡng và bổ sung bản
tính, khuếch đại nhân nghĩa hoặc lấy nhân (yêu thương) làm cơ sở
và hành động theo nghĩa (chính đáng), thật ra đó là những lời
khuyên dạy tốt lành. Do đó, sách Mạnh Tử mặc dù chuyên thuyết
giảng về đạo nhưng trọng tâm của nội dung chứa đựng các lời
khuyên dạy tốt lành.
Ngôn từ của 2 sách Luận Ngữ và Mạnh Tử mặc dù khác nhau nhưng
nội dung trên thực tế cả 2 bổ sung cho nhau. Đó là điểm chung của
2 sách. Đồng thời điểm trọng yếu của 2 sách cũng là mục đích của
việc học. Nếu không có nhận thức nói trên thì dù có cố gắng học thế
nào cũng không thể bước vào trong cửa học thuyết Khổng tử và
Mạnh tử. Tôi mong mỏi người học nên lưu ý điểm này.
- Giải thích mục đích đề xướng “bản tính con người vốn thiện” của Mạnh tử và tại sao Khổng tử đã không đề xướng
Duy Trinh lại nói tiếp. Mạnh tử là người đầu tiên đề xướng bản tính
con người vốn thiện để làm cương lĩnh cho đạo học (Nho học) cho
muôn đời sau. Tại sao Khổng tử đã không đề xướng chủ trương này?
Đó là bởi vì nếu như thực hiện theo lời khuyên dạy của Khổng tử
thì bất cứ ai cũng có thể trở thành thánh nhân hoặc hiền nhân
(người tài đức). Đó là mục đích của Khổng tử nên không cần thiết
luận bàn về việc bản tính con người lúc sinh ra là xấu hay vốn thiện,
không có chủ trương tính vốn thiện cũng không sao. Do đó, Khổng
tử nói “Tính tương cận, tập tương viễn” (bản tính bẩm sinh của con người gần gũi giống nhau nhưng do trình độ tập luyện, tu dưỡng sẽ
phát sinh cách biệt to lớn) (Bài 2 thiên 17 Dương Hóa, Luận Ngữ). Khoảng cách giữa đại chúng và vua Nghiêu, vua Thuấn to lớn vô
cùng nhưng Khổng tử lại nói là tương cận (gần nhau). Ý của Khổng
tử trong lời nói này là ý trong câu nói “Con người không chừa ai
cũng có thể trở thành vua Nghiêu, vua Thuấn”của Mạnh tử (Bài 2
chương 12 Cáo Tử hạ, Mạnh Tử). Do đó, mặc dù không nói “bản
tính con người vốn thiện” nhưng “tính vốn thiện của con người” đã
tự nhiên được hàm chứa trong lời nói trên của Khổng tử. Bởi vậy
thật sai lầm nếu nói Khổng tử không đề cập đến việc “bản tính con
người vốn thiện”.
Tôi nghĩ rằng trên đời này không có gì quý hơn đạo, và kế đến là
những lời khuyên tốt lành. Việc con người thành đạt được đạo và
tiếp thụ được những lời khuyên tốt lành là nhờ bản tính tốt của con người. Nếu như bản tính con người vô tri như chó như gà thì dù
đạo có tốt lành đến đâu cũng không thể vào cửa của đạo được, và
dù lời khuyên có tốt lành đến mức độ nào cũng không thể tuân theo
được. Tuy nhiên nhờ bản tính con người vốn tốt, vốn thiện nên việc
thành đạt được đạo hoặc việc tiếp thụ những lời khuyên tốt lành mới
dễ dàng. Đây là lý do Mạnh tử đề xướng học thuyết “bản tính con
người vốn thiện” dành cho những người “tự hủy hoại mình”. Bởi vì
không phải “bản tính con người sinh ra vốn thiện” mà không cần
những lời khuyên dạy tốt lành. Tại sao vậy? Bởi vì nếu chỉ giao phó
cho bản tính bẩm sinh thì con người có thể chỉ là 1 con người bình
thường, chỉ là 1 con người ngu muội, và nếu không may có thể trở
thành như vua Kiệt, vua Trụ. Do đó, Mạnh tử nói “Nếu không bổ
sung và phát triển bản tính vốn thiện của con người thì ngay cả việc
phụng dưỡng cha mẹ, con người cũng không có thể thực hiện đầy
đủ” (Bài 6 chương 3 Công Tôn Sửu thượng, Mạnh tử), và ông cũng
nói “Nếu không bồi dưỡng nuôi nấng thì bất kỳ thứ gì cũng tiêu diệt”
(Bài 8 chương 11 Cáo Tử thượng, Mạnh Tử). Hai lời nói trên, lời
nào cũng nói lên ý “không thể chỉ trông mong vào bản tính bẩm sinh
” mà không học tập tu dưỡng.
Việc cho rằng Mạnh tử đề xướng học thuyết “bản tính con người vốn
thiện” là chỉ để làm tôn chỉ làm cho việc học đời sau trở thành không
tưởng là do việc quá xem trọng bản tính bẩm sinh chớ không phải
là chủ ý của Mạnh tử.
Ghi chú
(1) Cao Dao, Quỳ, Long là các vị quan của vua Thuấn. Cao Dao
phụ trách về tư pháp, Quỳ phụ trách về âm nhạc, Long phụ trách về
thông tin.
(2) Tiểu đề “Cương Lĩnh” khó hiểu nên người biên dịch đặt tựa khác
để độc giả dễ hiểu hơn, hoặc có thể hiểu là “Cương lĩnh đọc Luận
Ngữ”.
Nhận xét
(1) Chúng ta có thể thấy Jinsai chịu ảnh hưởng của Trình tử rất sâu
đậm về cách đọc, cách học sách Luận Ngữ và Mạnh tử. Trong
“Cương lĩnh” ông chỉ trích dẫn lời của Trình tử. Tuy nhiên phải
công nhận đúng là cách đọc sách hữu ích.
(2) Nội dung của đoạn(a) (“Thứ mà trong 10 người… vạn đời về sau
cho chúng ta thấy, nội dung của đạo Khổng không phải là quy luật
tự nhiên hoặc lý lẽ hoặc chân lý vĩnh cửu như Tống Nho chủ trương
mà chỉ là một cơ sở giáo dục rất căn bản cho sinh hoạt của con người
Nghĩa là giống như Ogyu Sorai chủ trương, đạo Khổng là do các 7
vị tiên vương sáng suốt là Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn vương,
Võ vương, và Chu Công Đán lập ra để an dân.
(3) Nhận xét về nội dung của đoạn (b) (Nếu như biết được đạo lý…
trong mọi thời đại.): Thật ra, đạo Khổng là do Khổng tử ghi chép và
đút kết lại từ đạo của 7 vị tiên vương như Sorai giải thích. Chính
Khổng tử cũng nói chỉ thuật y lại chứ không có tạo thêm ra (Bài 1
thiên 7 Thuật Nhi, Luận Ngữ: “Thuật nhi bất tác”; Chương 30,
Trung Dung: “Trọng Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn”).
Nguyễn Sơn Hùng
Biên dịch 12~15/11/2023 khi du lịch ở Úc
Đánh máy, xem lại tháng 10/2025
Tài liệu tham khảo
- Kaitsuka Shigeki (1983): Itô Jinsai, Danh Tác của Nhật Bản 13,
- Chuokouronsha
- Itô Jinsai: Luận Ngữ Cổ Nghĩa (nguyên văn)
- Ogyu Sorai: Luận Ngữ Trưng, Ogawa Tamaki dịch chú (1994), Heibonsha.


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét