Bài số 20
Thủy Vân Hương
Trích Lưu Hương ký của Hồ Xuân Hương
Văn bản chữ Hán, Ngân Triều soạn.
水 雲 郷
雲 根 石 竇 似 蜂 房
满 目 山 光 接 水 光
渉 海 鑿 河 癡 李 勃
負 舟 藏 壑 拜 元 章
螺 痕 夕 霽 嶙 峋 出
霧 影 朝 迷 次 笫 藏
漫 說 漁 人 舟 一 枼
教 重 門 戸 水 雲 郷
Phiên âm:
Vân căn thạch đậu tự phong phòng
Vân căn thạch đậu tự phong phòng
Mãn mục sơn quang tiếp thủy quang
Thiệp hải tạc hà si Lý Bột
Phụ chu tàng hác bái Nguyên Chương
Loa ngân tịch tễ lân tuần xuất
Vụ ảnh triêu mê thứ đệ tàng
Mạn thuyết ngư nhân chu nhất diệp
Số trùng môn hộ Thủy Vân Hương.
Dịch nghĩa:
Dưới chân mây, bày hang đá như tổ ong;
Vụ ảnh triêu mê thứ đệ tàng
Mạn thuyết ngư nhân chu nhất diệp
Số trùng môn hộ Thủy Vân Hương.
Dịch nghĩa:
Dưới chân mây, bày hang đá như tổ ong;
Đầy mặt thấy ánh sáng trên núi tiếp với ánh sáng dưới nước.
Vượt bể để đi đục núi như Lý Bột thật là ngây.
Đội thuyền lên cạn giấu trong hang như Nguyên Chương thì đáng phục.
Buổi chiều trời lạnh, sóng gợn lăn tăn hiện ra.
Ban sáng màn mù che núi lần lượt biến mất.
Vui chuyện bảo người chài dong chiếc thuyền kia,
Đang len lỏi qua nhiều từng cửa tìm vào làng Tiên.
Vượt bể đục núi: Chỉ công việc gian nan, vô ích, hoài công. Sách Nam hoa kinh thiên Ưng đế vương có câu: Thiệp hải, tạc hà, 渉 海 鑿 河 nghĩa là vượt bể, đào sông, hay đào sông trong bể là một chuyện phi lý. Ở đây, tác giả mượn ý của 4 chữ trên để tả những hang động có lối thông nhau qua nhiều đảo.
Đội thuyền giấu trong hang núi: Phụ chu tàng hác , 負 舟 藏 壑.Trong Nam Hoa Kinh, thiên 6, Đại Tông sư có nhận xét:
Làm như vậy tưởng là an toàn, chắc nhắn, nhưng khi ngủ, có kẻ trộm lấy mất đi thì làm sao biết được. Chi tiết giấu thuyền trong hang núi là chỉ người ẩn sĩ, xóa dấu vết, không muốn cho người đời biết đến mình, đi tìm mình.
Loa ngân, 螺 痕,dấu ốc hoặc bọt nước, tăm, của các loài thủy tộc nổi lên thành gợn sóng nhỏ hoặc sóng nhỏ hình tròn trên nước lặng.
Thủy vân hương, 水 雲 郷 làng nổi giữa nước và mây, chỉ nơi Tiên ở.
Dịch thơ:
Dịch thơ:
Về chốn nước mây
Chân mây lỗ đá tựa phòng ong,
Chốn chốn lèn chong ánh nước hồng,
Vượt bể, đục non cười Lý Bột,
Đội thuyền giấu động phục Nguyên Ông.
Đội thuyền giấu động phục Nguyên Ông.
Chiều êm sóng gợn lăn tăn nổi,
Sáng tỏa mù tan, lớp lớp trong.
Vui chuyện kìa ai thuyền một lá,
Cửa lèn len lỏi kiếm non bồng.
Gs Hoàng Xuân Hãn
(Theo TL gs Phạm Trọng Chánh: "Đi tìm Cổ Nguyệt Đường và mối tình Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du.)
*Tổ ong bằng đá lẫn chân mây;
Lấp lánh hình non chiếu nước đầy.
Vượt bể đục non khờ Lý Bột,
Giấu thuyền động đá, Nguyên Chương ngây.
Trời chiều, sóng gợn lăn tăn lạnh,
Sáng sớm mù non tan biến ngay.
Cảm kích bảo người dong chiếc bách,
Tìm tiên, tìm cửa động Thiên Thai.
Lấp lánh hình non chiếu nước đầy.
Vượt bể đục non khờ Lý Bột,
Giấu thuyền động đá, Nguyên Chương ngây.
Trời chiều, sóng gợn lăn tăn lạnh,
Sáng sớm mù non tan biến ngay.
Cảm kích bảo người dong chiếc bách,
Tìm tiên, tìm cửa động Thiên Thai.
Ngân Triều diễn thơ
(Trích chương V, Nhớ Bóng Trăng Xưa, quyển 5, của Ngân Triều, sắp xuất bản)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét