Thứ Năm, 14 tháng 10, 2021

Giai Thoại Văn Chương: NHỮNG CÂU ĐỐI THÚ VỊ (6) (Đỗ Chiêu Đức)

 Giai Thoại Văn Chương :  

                NHỮNG CÂU ĐỐI THÚ VỊ  (6)
                            
                
                                                  
      Trong bài "Câu Đối Chiết Tự", ta đã biết về Trạng Nguyễn Hiền như sau:
      Vào thời nhà Trần, ở xứ Nam-định có NGUYỄN HIỀN đỗ Trạng lúc 12 tuổi. Vua chê còn nhỏ chưa thông lễ nghĩa, không phong quan tước mà cho về quê. Đến khi triều đình có việc mới cho sứ đi tìm. Tương truyền, khi sứ giả của Vua đến làng, thì thấy một đám thiếu niên đang chơi ở bên đường, trong đó có một đứa mặt mày sáng sủa, sứ nghi là Trạng, bèn đọc câu đối để thử rằng:

             Tự (字) là chữ, cất giàng đầu, chữ tử (子) là con, con ai con ấy?

       Chữ TỰ 字 bỏ đi phần đầu, còn lại phần dưới là chữ TỬ 子, có nghĩa là CON. Ý muốn hỏi: Mày là con của ai vậy? Trạng nghe câu hỏi vô lễ, bèn đáp rằng:

           Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này?

       Chữ VU 于 nghĩa là CHƯNG (Vì Chưng, Bởi Chưng), bỏ đi nét ngang ở chính giữa còn lại là chữ ĐINH 丁, có nghĩa là ĐỨA (Gia Đinh là Đứa ở trong nhà). Ý rằng: Mày là đứa nào mà dám hỏi ta là con ai?
                       
                          

      Đó là ông Trạng Thần Đồng của Việt Nam ta. Bây giờ thì ta nghe chuyện của Thần Đồng Dương Phổ (1379-1446), người đất Hồ Bắc, đậu Tiến sĩ và làm quan đến chức Lễ Bộ Thượng Thơ xuyên suốt 4 đời vua, từ Thành Tổ, Nhân Tông, Tuyên Tông  đến Anh Tông triều nhà Minh Trung Hoa. Truyện kể...
     
     Dương Phổ lúc còn nhỏ, nhà nghèo nhưng rất hiếu học, nổi tiếng là thần đồng. Một hôm, huyện quan cho sai nha đến đòi cha của Dương Phổ đi làm lao dịch (như đào đất, khai hoang...). Vì thấy cha thường hay bệnh tật, cơ thể lại rất yếu, nên Dương Phổ đến xin với huyện quan cho cha mình miễn lao dịch kỳ nầy. Huyện quan trông thấy Dương Phổ bèn nói rằng:
   - Mọi người đều bảo ngươi là thần đồng, bây giờ ta sẽ ra cho người một vế đối, nếu đối hay, ta sẽ miễn lao dịch cho cha ngươi kỳ nầy. Dương Phổ ưng chịu, Huyện quan bèn đọc vế ra là:

         四  口  同  圖, 內  口  皆  歸  外  口  管。
    Tứ khẩu đồng đồ, Nội khẩu giai quy ngoại khẩu quản.
Có nghĩa :
             - Bốn chữ Khẩu 口 trong một chữ Đồ 圖; các chữ Khẩu bên trong đều phụ thuộc vào chữ khẩu bên ngoài quản lý. Ý nói : 4 loại nhân khẩu (chỉ Sĩ Nông Công Thương) đều phụ thuộc vào sự cai quản của ta đây.

     Câu đối khá hóc búa, vì chữ ĐỒ 圖 do 3 chữ KHẨU 口 nhỏ bên trong và 1 chữ KHẨU lớn bên ngoài bao lại. Thấy Huyện quan có vẻ tự đắc tự hào và hơi lớn lối, nhưng vì đang cầu cạnh ông ta, nên Dương Phổ cũng đành chìu theo cho ông ta vui lòng, bèn cất tiếng đối lại rằng:

            五  人  共  傘, 小  人  全  仗  大  人  遮。 
    Ngũ nhân cộng tản, Tiểu nhân toàn trượng đại nhân già. 
Có nghĩa :
             - Năm người cùng che dù; Các người nhỏ toàn nhờ vào người lớn che chắn cho! Ta thấy chữ TẢN 傘 là Cây Dù (Miền bắc gọi là "Ô") gồm có một chữ NHÂN 人 lớn ở trên, phía dưới mỗi bên có 2 chữ NHÂN 人 nhỏ. Chữ NHÂN lớn là quan huyện, 4 chữ NHÂN nhỏ bên dưới là thứ dân. Với hàm ý: Người dân thấp cổ bé miệng bên dưới đều nhờ vào sự che chắn của quan huyện ở trên cao. 
                                 

      Quan huyện nghe vế đối vừa chỉnh, vừa khéo, vừa hay, lại vừa tâng bốc mình là quan phụ mẫu che chở cho người dân thấp bé bên dưới, nên rất mát dạ ngợi khen Dương Phổ hết lời và miễn lao dịch cho cha của Dương Phổ ngay tức thì.
       
      Lại kể về một Trạng Nguyên Đời Tống, tên là Hứa Tướng 許將 (1045-1111) người đất Phúc Châu Phúc Kiến. Ông đậu Trạng nguyên năm Hỉ Hựu thứ 8 đời Tống Nhân Tông, làm quan đến chức Long Đồ Các Trực Học Sĩ, rồi Thượng Thư Tả Thừa, Hữu Thừa. Lúc nhỏ ông cũng nổi tiếng là một "Tiểu Thần Đồng". Truyện kể...

      Năm Hứa Tướng 9 tuổi. Một hôm sau khi cùng các bạn học dạo chơi Bạch Nham Sơn, trên đường về vì chỉ ăn lương khô nên cả bọn đều khát nước. Khi đi ngang qua khu vườn rau cải, bèn tắp vào xin nước uống. Ông lão trồng vườn nhìn biết thần đồng Hứa Tướng, nên ra điều kiện nếu đối được vế ra của ông lão, thì sẽ mời cả bọn vào đãi một cử trà. Hứa Tướng ưng chịu. Vế ra của ông lão như thế nầy:

            一 籬 二 緯 三 樁 囿 菜 園,園 種 春 夏 秋 冬 菜。
     Nhất ly nhị vĩ tam thung hữu thái viên, Viên chủng xuân hạ thu đông thái.
Có nghĩa :
               Một rào hai vây ba cột rào vườn cải, trong vườn trồng cải của xuân hạ thu đông.

     Câu đối lắc léo ở các con số "1, 2, 3" và bốn mùa "xuân hạ thu đông". Mọi người đang lo lắng không biết phải đối ra sao vì thấy Hứa Tướng đang bóp trán suy nghĩ. Bỗng anh ta ngẩng đầu lên tươi cười mà đọc vế đối lại là:

          百 架 千 層 萬 卷 叠 書 館,館 藏 古 今 中 外 書。
      Bách giá thiên tằng vạn quyển điệp thư quán, Quán tàng cổ kim trung ngoại thư.
Có nghĩa :
               Trăm giàn ngàn lớp muôn quyển sách trong thư viện, Viện chứa đủ các sách xưa nay trong ngoài.
       "Trăm ngàn muôn" đối với "Một hai ba"; "Xưa nay trong ngoài" đối với "Xuân hạ thu đông". Chỉnh và hay quá, cả bọn vổ tay thán phục. Ông lão làm vườn mời tất cả vào trại pha trà thết đãi. Nhưng ông vẫn không cam tâm, vì cho rằng Hứa Tướng suốt ngày ở trong thư viện đọc sách đã có sẵn ý nầy rồi, nên khi mọi người nâng ly trà bốc khói thơm lên định uống, thì ông lão lại lên tiếng: "Khoan đã!" Lúc đó trời đã về chiều, mặt trời đà chen lặn, nên khi đưa ly trà lên miệng định uống, ông lão phát hiện bóng của vầng trăng thượng tuần in trong đáy chén trà, bèn đọc ra thêm một vế đối nữa:

    茶 飲 客 吞 杯 底 月,  Trà ẩm khách thôn bôi để nguyệt,
Có nghĩa :
    - Uống trà khách uống luôn cái vầng trăng dưới đáy ly,

      Vế ra đơn giản mà hay quá, vừa hợp thực tế vừa rất nên thơ! Ly trà sắp vào miệng lại phải ngưng lại. Mọi người lại lo lắng không biết là Hứa Tướng có đối được vế đối nầy không. Hứa Tướng cũng buông ly trà thơm xuống, ngắm nhìn chung quanh một vòng, chợt nhìn thấy cô con dâu của ông lão làm vườn đang lấy nước bên bờ giếng. Tức cảnh sinh... vế đối. Hứa Tướng bèn mĩm cười nhìn ông lão mà đọc rằng:

    水 抽 人 吊 井 中 星。  Thủy trừu nhân điếu tỉnh trung tinh.
Có nghĩa :
       - Múc nước người múc luôn cả những vì sao trong giếng nước!

                                               


     Mọi người nghe xong đều vỗ tay tán thưởng. Bấy giờ ông lão mới tươi cười phục tài Hứa Tướng thật sự. Ông bèn mở hộp bỏ thêm hoa lài đã ướp vào trà cho thơm để đãi khách.

     Nghe chuyện trên, lại làm cho ta nhớ đến câu hát cuối cùng trong bài hát "Dòng An Giang " của nhạc sĩ Anh Việt Thu sáng tác khi ông chỉ mới 16 tuổi:

              ... Đây những người thôn nữ xinh 
                  Duyên dáng chuyền tay dắt nhau 
                  Múc mấy vầng trăng đổ đi...

     Hình ảnh vừa đẹp, vừa sống động và vừa nên thơ biết bao nhiêu!
                  
                            



     Hẹn bài viết tới !

                                                            杜 紹 德
                                                          Đỗ Chiêu Đức





Không có nhận xét nào: