Chủ Nhật, 3 tháng 10, 2021

Góc Việt Thi: Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (7) (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Việt Thi: 

            Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (7)
                 
                        

31. Bài thơ LỴ NHÂN THỔ NỮ :

  蒞 仁 土 女                    Lỵ Nhân Thổ Nữ
高 塘 春 近 雨 風 寒,   Cao đường xuân cận vũ phong hàn,
秦 女 燕 姬 笑 語 歡。   Tần nữ Yên cơ tiếu ngữ hoan,
溪 上 千 紅 芳 思 暖,   Khê thượng thiên hồng phương tứ                                               noãn,
遊 蜂 無 意 不 相 干。   Du phong vô ý bất tương can !

        
                          

* Chú thích :
  - Lỵ Nhân Thổ Nữ 蒞 仁 土 女 : THỔ NỮ chỉ những người con gái ở một địa phương nào đó (cũng như THỔ SẢN 土 產 chỉ Sản phẩm hay hàng hóa của riêng một nơi nào đó) nên LỴ NHÂN THỔ NỮ chỉ những người con gái của đất Lỵ Nhân (LỴ NHÂN là huyện Lý Nhân, Hà Nam hiện nay).
  - Cao Đường 高 塘 : là Trên bờ đê cao cao.
  - Tần Nữ Yên Cơ 秦 女 燕 姬 : Chỉ các cô gái đẹp, lấy ý theo 4 câu cuối trong bài thơ "Cổ Ca 古 歌" của Thẩm Thuyên Kỳ 沈 佺 期 đời Đường là:

燕 姬 綵 帳 芙 蓉 色,   Yên cơ thái trướng phù dung sắc, 
秦 女 金 爐 蘭 麝 香;   Tần nữ kim lô lan xạ hương; 
北 斗 七 星 橫 夜 半,   Bắc đẩu thất tinh hoành dạ bán, 
清 歌 一 曲 斷 人 腸.     Thanh ca nhất khúc đoạn nhân                                                     trường. 
  Có nghĩa :
     Tấm màn có hoa văn của cô gái nước Yên màu hoa phù dung, Chiếc lò vàng của cô gái nước Tần có mùi hương lan, xạ; Bảy ngôi của chòm sao Bắc Đẩu lúc nửa đêm đã nằm vắt ngang bầu trời. Một tiếng ca trong trẻo vút lên cao khiến người nghe như đứt từng khúc ruột.
  - Khê Thượng 溪 上 : Trên bờ khe suối.
  - Phương Tứ Noãn 芳 思 暖 : Cái vẻ xuân thơm tho nồng ấm.
  - Du Phong 遊 蜂 : Chỉ Những con ong bay lượn nhởn nhơ.
  - Bất Tương Can 不 相 干 : Không liên quan gì đến cả. Không màng đến.

* Nghĩa bài thơ :
                    Các Cô Gái Đất Lỵ Nhân
       Mặc dù đã gần đến mùa xuân, nhưng trên bờ đê cao cao gió mưa xuân vẫn còn lành lạnh. Các cô gái đẹp như những Tần nữ Yên cơ đang cười nói vui vẻ. Trên khe suối muôn hồng ngàn tía tỏa ra cái dáng xuân thơm tho nồng ấm. Nhưng các con ong cứ bay nhởn nhơ như chẳng thèm chú ý gì đến cả! 

                     
                         

* Diễn Nôm :

                     LỴ NHÂN THỔ NỮ

                Đê cao  lành lạnh  gió mưa xuân,
                Tần nữ Yên cơ cười nói rân,
                Khe suối muôn hồng ngàn tía ngát,
                Ong kia bay lượn cứ như không !
    Lục bát :
                Chớm xuân mưa lạnh đê cao,
                Yên cơ Tần nữ lao xao nói cười.
                Hoa thơm khe suối khoe tươi,
                Nhởn nhơ ong nọ vui chơi chẳng màng !
                             Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
    
32. Bài thơ MẶC  :
       墨                               MẶC
祖 父 惟 從 易 水 津,   Tổ phụ duy tòng Dịch thủy tân,
詞 場 贊 劃 掃 千 軍。   Từ trường tán hoạch tảo thiên quân.
可 憐 萬 杵 魚 胞 熟,   Khả lân vạn chử ngư bào thục,
仰 見 經 天 緯 地 文。   Ngưỡng kiến kinh thiên vĩ địa văn.

        
                        

* Chú thích :
  - MẶC 墨 : là Thỏi mực Tàu; Mực của ngày xưa dùng để viết bút lông.
  - Câu đầu TỔ PHỤ 祖 父là Ông Nội, ý chỉ Tổ Tiên; DUY TÒNG 惟 從 là Chỉ đi theo; DỊCH THỦY TÂN 易 水 津 : là Bến sông Dịch nên câu đầu có nghĩa: Tổ tiên của mực chỉ theo hai bên bờ của dòng sông Dịch mà truyền đi... Vì, một dãy của Thái Hành Sơn quanh bờ sông Dịch sản xuất loại thông ba lá cho nhựa và khói thật đen, thật mịn, thật bóng để làm thành những thỏi mực Tàu ngày xưa. 
  - Tán Hoạch 贊 劃 : Tán đồng giúp đỡ cho các trù hoạch tính toán.
  - Vạn Chữ Ngư Bào Thục 萬 杵 魚 胞 熟 : CHỮ là Cái chày giã; NGƯ BÀO là Bong bóng cá (có nhiều chất nhựa); THỤC 熟 " là Chín, là nhuyễn, nên VẠN CHỮ NGƯ BÀO THỤC có nghĩa: Giả một muôn lần cho bong bóng cá nhuyễn ra (để làm chất nhựa pha vào mực). Theo như thơ của Khất Triết Đốc 契 哲 篤 đời Nguyên:
               魚 胞 萬 杵 成 玄 玉, 
               NGƯ BÀO VẠN CHỮ thành huyền ngọc,
               應 是 柯 仙 得 妙 傳。 
              Ưng thị Kha tiên đắc diệu truyền. 
    
 Có nghĩa :
               Giã muôn lần cho bong bóng cá nhuyễn ra thành ngọc đen,
               Đó là do Kha Tiên truyền cho bí kíp kỳ diệu đó.
  - Kinh Thiên Vĩ Địa 經 天 緯 地 : KINH là Kinh tuyến, là đường dọc; VĨ là Vĩ Tuyến, là đường ngang; cho nên KINH THIÊN VĨ ĐỊA là Trời dọc đất ngang, như cụ Nguyễn Công Trứ đã nói:
                 Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc !

* Nghĩa bài thơ:
                                           MỰC
       Tổ tiên (của MỰC) vốn dĩ được truyền dọc theo bờ sông Dịch (trong dãy núi Thái Hành Sơn) đã giúp đỡ cho các văn thơ thêm sức mạnh có thể quét sạch trăm ngàn quân lính. Khá thương thay phải trải qua muôn ngàn lần chày giã bóng cá cho nhuyễn (để hòa vào mực), nên mới có được những áng văn dọc ngang trời đất để cho người đời ngưỡng mộ!

                                     

* Diễn Nôm :
                                MẶC
                Dịch Thủy tổ tiên dọc bến sông,
                Giúp văn từ mạnh quét ngàn quân.
                Khá thương chày giã muôn muôn lượt,
                Mới được dọc ngang trời đất văn !
    Lục bát :
                Tổ tiên sông Dịch theo bờ,
                Quét ngàn quân địch văn nhờ vào đây.
                Muôn lần chày giã thương thay,
                Dọc ngang trời đấy văn bài từ ta !
                               Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm  

33. Bài thơ NGUYỆT HẠ TÚY ẨM:

  月 下 醉 飲             NGUYỆT HẠ TÚY ẨM
皎 皎 懸 天 頭 戴 一,  Hạo hạo huyền thiên đầu đới nhất,
翻 翻 伴 我 影 成 三。  Phiên phiên bạn ngã ảnh thành tam.
攻 腸 濁 酒 無 刀 箭,  Công trường trọc tửu vô đao tiễn,
聒 耳 煩 心 士 不 堪。  Quát nhĩ phiền tâm sỹ bất kham.

       
                              

* Chú thích :
  - Nguyệt Hạ Túy Ẩm 月 下 醉 飲 : Uống say dưới trăng là Dưới ánh trăng uống đến say sưa.
  - Hạo Hạo 皎 皎 : Sáng vằng vặc.
  - Huyền Thiên 懸 天 : là Treo lơ lửng trên trời.
  - Phiên phiên 翻 翻 : là Chập chờn, chấp chới.
  - Trọc Tửu 濁 酒 : Không phải là rượu dơ, mà là rượu chưa được lọc kỹ.
  - Quát Nhĩ Phiên Tâm 聒 耳 煩 心 : Tai ù tim rối; Tai thì lù ù, tim thì đập loạn xạ; ý chỉ không còn tỉnh táo minh mẫn nữa.
  - Sĩ Bất Kham 士 不 堪 : là Không kham nổi là kẻ sĩ nữa; tức là không còn giữ được bản chất của kẻ sĩ nữa. 

* Nghĩa bài thơ :
                   UỐNG SAY DƯỚI TRĂNG
       Một vầng sáng vằng vặc treo lơ lửng trên đầu là một; Chập chờn bên cạnh là bóng của ta nữa là ba. Công phá ruột gan cái thứ đồ rượu cặn nầy không cần dùng đến cung đao, mà cũng làm cho kẻ sĩ đầu choáng mắt hoa tai ù tim loạn không ra thể thống gì cả!

      Đọc bài thơ nầy của ông vua làm cho ta nhớ lại hai câu trong bài Nguyệt Hạ Độc Chước 月 下 獨 酌 (Chuốc rượu một mình dưới trăng) của Thi Tiên Lý Bạch 李 白 :

      舉 杯 邀 明 月, Cử bôi yêu minh nguyệt,
      對 影 成 三 人。 Đối ảnh thành tam nhân.
      Có nghĩa :
                   Nâng ly mời trăng sáng,
                   Đối bóng nữa ba người !

                          
     Nhưng, Thi Tiên nói lên sự hào sảng phóng khoáng của đệ tử Lưu Linh, uống rượu một mình rồi mời trăng mời bóng, nên cũng vui vẻ và thoải mái như thường; Còn ông vua của ta có ý chê trách kẻ sĩ uống rượu vào sẽ mất tư cách vì tai ù tim loạn, đầu choáng mắt hoa nên trông gà hóa cuốc, thấy trăng thấy bóng như chập chờn lởn vởn bên mình!

* Diễn Nôm :

                     NGUYỆT HẠ TÚY ẨM
        
                     

                Một vầng vằng vặc đỉnh đầu ta,
                Lởn vởn quanh mình bóng nữa ba.
                Rượu phá ruột gan không giáo mác,
                Tai ù kẻ sĩ mắt thì hoa !
     Lục bát :
                Đỉnh đầu vằng vặc một vầng,
                Chập chờn bóng của riêng mình nữa ba.
                Rượu công gan ruột xót xa,
                Bất kham kẻ sĩ mắt hoa tai ù !
                            Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm           

34. Bài thơ NGỰ CHẾ ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG  :

 御 制 題 綠 雲 洞         NGỰ CHẾ ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG
 
綠 雲 深 洞 碧 巑 岏, Lục vân thâm động bích toàn ngoan,
名 利 塵 消 宇 宙 寬。 Danh lợi trần tiêu vũ trụ khoan.
夕 照 溪 山 花 掩 暎, Tịch chiếu khê sơn hoa yểm ánh,
春 開 楊 柳 鳥 間 關。 Xuân khai dương liễu điểu gian quan.
清 泉 洗 耳 猿 心 靜, Thanh tuyền tẩy nhĩ viên tâm tĩnh,
幽 室 懸 燈 鹿 夢 寒。 U thất huyền đăng lộc mộng hàn.
無 相 虛 靈 機 事 少, Vô tướng hư linh cơ sự thiểu,
壼 天 日 月 不 勝 閒。 Hồ thiên nhật nguyệt bất thăng nhàn.

                                  


* Chú thích :
  - NGỰ CHẾ ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG 御 制 題 綠 雲 洞 : Thơ của vua đề Lục Vân động. LỤC VÂN ĐỘNG là Động có mây màu xanh lục (có thể do có nhiều cây cỏ). Bài thơ này được khắc trên vách núi tại xã Nga Thiện, Nga Sơn, Thanh Hoá. Lạc khoản đề “Hữu Thiên Nam hoàng đế đề; Hồng Đức kỷ nguyên chi nhị thập ngũ xuân tam nguyệt cát nhật; Trung thư giám Trung thư Xá nhân Nguyễn Công Trực phụng thư; Ngự dụng giám san thư cục chính Phạm Bảo phụng tuyên” 右 天 南 皇 帝 題,洪 德 紀 元 之 二 十 五 春 三 月 吉 日,中 書 監 中 書 舍 人 阮 公 直 奉 書,御 用 監 山 書 局 正 范 寶 奉 鐫 (Thiên Nam hoàng đế đề; Ngày lành tháng 3 năm Hồng Đức 25 (1494); Trung thư giám Trung thư xá thân Nguyễn Công Trực vâng mệnh viết chữ; Ngự dụng giám san thư cục chính Phạm Bảo vâng mệnh khắc).
  - Toàn Ngoan 巑 岏 : Núi nhọn cao chót vót; lẽ ra phải đọc là "Tán Hoàn", âm Quan Thoại là [cuánwán], cũng có thể đọc là "Toản Ngoan"; đọc là TOÀN NGOAN để cho ăn Luật và ăn Vận mà thôi.
  - Trần Tiêu 塵 消 : Tiêu tan như bụi bặm.
  - Yễm Ánh 掩 暎 : Chấp chới ẩn hiện.
  - Gian Quan 間 關 : Líu lo, oang oác (tiếng chim hót).
  - Viên Tâm 猿 心 : Lòng của con vượn. Thiền gia ví cái tâm của con người hay động loạn như tâm con vượn hay nhảy nhót lung tung.
  - Lộc Mộng 鹿 夢 : Giấc mộng đuổi bắt con nai, là giấc mộng tranh danh đoạt lợi. Theo "Sử Ký. Hoài Âm Hầu Liệt Truyện 史 記˙ 淮 陰 侯 列 傳":  Giềng mối của nhà Tần đã hết nên lỏng lẻo, đất Sơn Đông đại loạn, các họ khác đều nổi lên, anh hùng các nơi tập hợp. Tần như làm sổng mất con nai, nên thiên hạ đều cùng đuổi bắt, gọi là "Trục Lộc Trung Nguyên 逐 鹿 中 原", vì thế, ai tài giỏi và nhanh chân thì sẽ bắt đựơc. Các lộ anh hùng nổi lên lại tiêu diệt lẫn nhau, cuối cùng Lưu Bang dành được thiên hạ, lập nên nhà Hán kéo dài hơn bốn trăm năm.

* Nghĩa bài thơ :
             Thơ Đề LỤC VÂN ĐỘNG của Nhà Vua
       Động Lục Vân sâu thăm thẳm trên vách núi cao dựng đứng màu xanh biếc. Trước cảnh vũ trụ bao la thì lòng danh lợi cũng tiêu pha như bụi trần. Ánh nắng chiều chiếu trên hoa lá bên khe núi chập chờn như ẩn như hiện; Mùa xuân đã ngự đến trên cành dương liễu đang rộn ràng tiếng chim hót líu lo. Tiếng suối nước trong như rửa sạch tai làm cho lòng thích động loạn nhảy nhót như con vượn cũng phải yên ắng lại. Trong căn phòng thâm u với ngọn đèn treo khi mờ khi tỏ cũng làm cho nguội lạnh đi cái lòng hám danh lợi quyền uy "trục lộc Trung nguyên". Không còn sắc tướng, chỉ có hư linh nên những huyền cơ cũng ít đi (Ý nói không còn gì để ham muốn theo đuổi, chỉ là hư không nên ít phiền toái). Như mặt trăng mặt trời trong một cái bầu riêng biệt (Ý nói có riêng một góc trời) nên cảm thấy rất là nhàn tản.

* Diễn Nôm :
                 NGỰ CHẾ ĐỀ LỤC VÂN ĐỘNG
      
                                      
     
              Thẳm thẳm Lục Vân mờ núi biếc,
              Lợi danh như bụi vút trời cao.
              Nắng chiều khe núi hoa khoe sắc,
              Xuân đến liễu dương chim hót chào.
              Suối rửa sạch tai lòng vượn tịnh,
              Phòng im đèn lạnh mộng nai chao.
              Tâm không vướng bận không phiền toái,
              Nhật nguyệt riêng bầu nhàn tản sao !
       Lục bát :
                  Lục Vân Động, núi biếc xanh,
                  Bao la vũ trụ lợi danh bụi trần.
                  Nắng chiều hoa cỏ chập chờn,
                  Xuân tươi dương liễu chim cành hót vang.
                  Suối trong tai sạch vượn an,
                  Phòng đơn trục lộc đèn tàn mộng tiêu.
                  Sắc không thế sự ít nhiều,
                  Bầu trời riêng một, tiêu diêu thanh nhàn !
                                       Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

35. Bài thơ NHA TƯỜNG NGUYỆT THI  :

  牙 檣 月 詩                    NHA TƯỜNG NGUYỆT THI
銀 魄 當 天 刻 漏 長,   Ngân phách đương thiên khắc lậu                                               trường,
溶 溶 玉 鏡 掛 牙 檣。   Dung dung ngọc kính quải nha                                                     tường.
山 河 滿 目 光 如 晝,   Sơn hà mãn mục quang như trú,
倚 遍 欄 杆 夜 未 央。   Ỷ biến lan can dạ vị ương !

      
                 
                      

* Chú thích :
  - NHA TƯỜNG NGUYỆT THI 牙 檣 月 詩 : NHA là Ngà Voi, TƯỜNG là Cột Buồm; nên NHA TƯỜNG là Cột buồm được trang trí bằng ngà voi. Vì thế NHA TƯỜNG NGUYỆT THI là "Bài thơ trăng treo cột buồm".
  - Ngân Phách 銀 魄 : là Cái đĩa bằng bạc, chỉ mặt trăng tròn và sáng.
  - Dung Dung 溶 溶 : là Tan chảy hòa vào nhau. Quải 掛 : là Treo.
  - Trú 晝 : là Ban ngày, nên Quang Như Trú 光 如 晝 có nghĩa "Sáng như ban ngày".
  - Ỷ 倚 là Dựa vào; Biến 遍 là Khắp cùng.  
  - Dạ Vị Ương 夜 未 央 : VỊ ƯƠNG là Chưa đến cao điểm; nên DẠ VỊ ƯƠNG là Đêm chưa đến lúc cao điểm, nghĩa là chưa đến giờ Tý, vì giờ Tý là giờ cao điểm của giữa đêm.

* Nghĩa bài thơ :
                     Bài thơ Trăng Treo Cột Buồm
       Một cái đĩa bạc lơ lửng trên bầu trời, thời khắc của cái đồng hồ cứ nhỏ giọt dài dài. Ánh trăng hòa vào không gian như chiếc gương ngọc treo lơ lửng trên cột buồm được nạm ngà voi. Cảnh núi sông bày ra trước mắt sáng rực như ban ngày. Ta đã lần lượt vựa hết lan can quanh thuyền để ngắm trăng, mà đêm vẫn còn chưa về khuya chút nào cả !

* Diễn Nôm :
                     NHA TƯỜNG NGUYỆT THI
                 
                     

                 Đĩa bạc giữa trời khắc lậu trôi,
                 Cột buồm gương ngọc lửng lơ rồi.
                 Núi sông trước mắt như bừng sáng,
                 Tựa hết lan can đêm chửa vơi !
       Lục bát :
                 Đêm trôi đĩa bạc giữa trời,
                 Trong như gương ngọc chơi vơi cột buồm.
                 Non sông bừng sáng khác thường,
                 Tựa lan can ngắm đêm trường mênh mang !
                                       Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

     Hẹn bài dịch tới :
                        Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (8)

                                               杜 紹 德
                                           Đỗ Chiêu Đức







Không có nhận xét nào: