HỒ ĐẮC DUY
Xuân Hương là ai? chỉ biết nàng là chủ nhân của ngôi Cổ Nguyệt Đường bên
Hồ Tây, Thăng Long, nơi xướng họa văn thơ của các mặc khách tao nhân đất Hà
Thành một thời
Lưu Hương Ký là một tác phẩm của Xuân Hương, có bài "Cảm cựu kiêm
trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu - Hầu, Nghi-xuân, Tiên-điền nhân”:
Dậm khách muôn
nghìn nỗi nhớ nhung,
Cậy ai tới đấy gửi cho cùng.
Cậy ai tới đấy gửi cho cùng.
Mối tình chốc đã ba
năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng
duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút
sương đeo mấy,
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng chong.
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng chong.
(Nhớ bạn cũ viết
gửi Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu - Hầu, người ở Nghi-xuân, Tiên-điền)
Trần Thanh Mại nhận xét: "Lưu Hương Ký là tiếng kêu thất vọng
của một tình yêu thành thực, thủy chung."
Trong văn học nước ta có 2 nhân vật mang tên Xuân Hương sống cùng thời
với nhau:
1/ Hồ Xuân Hương với Tổng Cóc, ông Phủ Vĩnh
Tường
2/
Xuân Hương, tác giả Lưu Hương Ký với Tốn Phong, Nguyễn Hầu.
Có người cho 2 nhân vật này là một, có người cho là 2 người khác nhau,
điều này cho đến nay vẫn còn nhiều nghi vấn...
Tác giả tập Lưu Hương Ký tên là Xuân Hương, tập thơ gồm 24 bài thơ
chữ Hán và 28 bài chữ Nôm. Xuân Hương có khá nhiều bạn thơ và người tình như
Tốn Phong Thị, Mai Sơn Phủ, Thạch Đình, Cự Đình, Thanh Liên, Chí Hiên... Nguyễn
Hầu, Trần Hầu…
Trong Thơ truyền tụng của Hồ Xuân Hương ta không thấy có bóng dáng Tốn
Phong, Trần Hầu, Nguyễn Hầu, Mai Sơn Phủ v.v., và trong Lưu Hương Ký cũng không
thấy nói đến Tổng Cóc, ông Phủ Vĩnh-Tường hay Chiêu Hổ. Văn phong và ý tưởng
của Thơ truyền tụng và Lưu Hương Ký lại rất khác nhau khiến nhiều người
nghĩ đây là 2 nhân vật khác nhau
Về tiểu sử Hồ Xuân Hương, theo các nhà nghiên cứu như Nguyễn Hữu Tiến, Dương
Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (1703-1786) ở làng Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông thi đậu Tú Tài năm 24 tuổi, dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc.
Mẹ của Hồ Xuân Hương họ Hà, quê ở Bắc Ninh. Trong gia phả của họ Hồ ở làng
Quỳnh Đôi có chép Hồ Xuân Hương ở đời thứ 12, là con của Hồ Phi Diễn, và sinh
năm 1772, mất năm 1822, bà có 2 đời chồng: Tổng Cóc và Ông Phủ Vĩnh Tường
Bà có một bạn thơ rất đổi tri
âm, tri kỉ là Chiêu Hổ, nhưng Chiêu Hổ là ai thì chưa ai biết.
Tiểu sử của Xuân Hương tác giả
của Lưu Hưong Ký thì không ai biết. Ngay trong Thương Sơn thi tập của Tùng
Thiện Vương khi vãn cảnh hồ Tây, Tùng Thiện Vương chỉ có viết như sau: “Chớ
có dẫm lên mộ Xuân Hương nhé. Vì ở dưới suối vàng, nàng còn đang ôm mối hận rút
nhầm" nhân dịp Tùng Thiện Vương hộ giá vua Thiệu Trị ra Bắc Hà tiếp sứ
thần nhà Thanh năm 1842.
Trong nền văn học Việt Nam, nữ
thi sĩ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng đặc biệt, không chỉ trong nội dung và
nghệ thuật sáng tác mà ngay cả các văn bản sáng tác của nữ sĩ họ Hồ vẫn còn là
những vấn đề đặc biệt, cần tiếp tục nghiên cứu tìm hiểu.
Việc dựng một tiểu sử về Hồ
Xuân Hương, làm rõ lại lịch của Xuân Hương tác giả của Lưu Hương Ký và chứng
minh hai nhân vật đó là một hay là hai người khác nhau là đề tài làm cho nhiều
người say mê
Bốn câu đầu của bài
"Cảm cựu kiêm trình Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu - Hầu, Nghi-xuân,
Tiên-điền nhân” của Xuân Hương gởi cho Nguyễn Hầu, nói lên nỗi nhớ nhung da diết cho một mối tình
thoáng chốc đã ba năm mà chừ đây chỉ một… “giấc mộng rồi ra
nửa khắc không” mà người tình thì đang “xe ngựa trộm mừng duyên
tấp nập” còn mình thì thui thủi phận long đong.
Hầu, Nghi-xuân, Tiên-điền nhân là ai vậy? Có người đoán đó là Nguyễn Du
bởi Nguyễn Du quê ở Nghi-xuân, Tiên-điền, năm 1806 được phong chức Đông Các Học
sĩ, đến năm 1815 được vua Gia Long đặc chuẩn thăng cho chức Hữu tham tri bộ Lễ
sau khi đi sứ nhà Thanh về, tờ chiếu viết: Cần Chánh Điện học sĩ Nguyễn Du
học thuật rất ưu tú, công vụ rất chuyên cần, nay qua các quan văn tấu cử, đặc
cách chuẩn y cho được thăng chức Hữu Tham Tri Bộ Lễ, tước Du Đức Hầu và cho
phép được tham dự các việc trong bộ… ngày 25 tháng 6 năm 1815 (Nguyễn Quảng
Tuân) Nguyễn Du tác giả Truyện Kiều, một con người tài hoa nhất mực. Bài thơ
nồng nàn tha thiết mà Xuân Hương gởi cho người tình là Nguyễn Hầu hiện đang ở
kinh đô Phú Xuân.
Nguyễn Du (Nguyễn Hầu) đã viết 2 bài trong Nam Trung Tạp Ngâm bài Mộng Đắc Thái Liên (Mộng thấy hái sen)“Ngẫu Hứng Ngũ Thư”,
tập thơ chữ Hán này đươc người đương thời khen ngợi.
NGẪU HỨNG
NGŨ
THƯ
Tam
nguyệt xuân thì trưởng đậu miêu
Hoàng
hồ phi mãn, bạch hồ kiêu
Chủ
nhân tại lữ bất quy khứ
Khả
tích Hồng Sơn thuộc vãn tiều
Lô hoa
sơ bạch, cúc sơ hoàng
Thiên
lý hương tâm dạ công trường
Cưỡng
khởi thôi song vọng minh nguyệt
Lục âm trùng
diệp bất di quang
Nhất
đái ba tiêu lục phúc giai
Bán
gian viên hóa tạp trần ai
Khả
liên đình thảo sam trừ tận
Tha
nhật xuân phong hà xứ lai ?
Cố hương cang hạn cửu phương nông
Thập
khẩu hài nhi thái sắc đồng
Thí tự
thuần lô tối quan thiết
Hoài
quy nguyên bất đãi thu phong
Hữu
nhất nhân yên lương khả ai
Phá y
tàn lạp sắc như hôi
Tị nhân
dản mịch đạo bàng tẩu,
Tri thị
Thăng Long thành lý lai
MỘNG ĐẮC
THÁI LIÊN
NGŨ
THƯ
Khẩu
phúc thu diệp quần
Thái
liên trạo tiểu đỉnh
Hồ thủy
hà xuân dung
Thủy
trung hữu nhất ảnh
Thái,
thái tây hồ liên
Hoa
thực câu thướng thuyền
Hoa di
tặng sở úy
Thực dĩ
tặng sở liên
Kim
thần khứ thái liên,
Nãi ước
đông lân nữ
Bất tri
lai bất lai
Cách
hoa văn tiếu ngữ
Cộng
tri liên liên hoa
Thùy
giả liên liên cán
Kỳ
trung hữu chân ti
Khiên
liên bất khả đoạn
Liên
diệp hà thanh thanh
Liên
hoa kiều doanh doanh
Thái
chi vật thương ngẫu
Minh
niên bất phục sinh
Mọi người ai cũng cho rằng Nguyễn Hầu (Nguyễn Du) vô tình, dửng dưng, không đoái hoài đến mối tình cháy bỏng thiết tha da
diết của nàng Xuân Hương mà theo Tốn Phong người tình của nàng, kẻ đến sau
đã luôn luôn ca tụng sắc đẹp và tài văn
thơ của nàng.
Thông thường, những tay cao thủ thượng thừa trong nghề chơi thơ xướng họa
với nhau, đa phần họ là những tay phù thủy chữ nghĩa, kết cấu và tìm chữ nghĩa
một câu thơ không phải là khó như những thi nhân thường thường bậc trung mà cái
cao cường thâm hậu của họ là lồng ghép được ẩn ý muốn truyền điều muốn nói, một
thông điệp, muốn gởi gắm cho những người đồng điệu cái gì.
Cách thức xướng họa hay những bài thơ được phổ biến rộng rãi, nhưng thực
ra đó là một bài thơ chỉ dành riêng cho một người, hay là một thông điệp và chỉ
người đó mới hiểu được.
Chơi thơ kiểu này giống như làm câu đối, một công án hay một bài kệ, một
lời tiên tri như của thiền sư Vạn Hạnh khi nói về Lý Công Uẩn thời thơ ấu và
nếu không phải là đồng diệu thì rất khó giải mã, rất khó hiễu.
Nguyễn Du hay Nguyễn Hầu (có thể), Hồ Xuân Hương hay Xuân Hương tác giả
của Lưu Hương Ký (có thể), Chiêu Hổ, vua Thiệu Tri… đều là những tay cự phách
trong làng thơ, họ là những tay phù thủy chữ nghĩa.
Có phải Nguyễn Du vô tình hay không, xin đọc bài giải mã này để thấy tình
yêu của Nguyễn Du đối với Xuân Hương tha thiết lãng mạn, nồng nàn nhớ nhung
quay quắt đến chừng nào.
Nếu chỉ chọn 8 câu trong 20 câu của bài Mộng Đắc Thái Liên ta sẽ có một
bài thất ngôn bát tuyệt bút mà Nguyễn Du đã viết cho nàng
乃約東鄰女(3/ 2 ) Nãi ước đông lân nữ Hẹn cùng cô hàng xóm
不知來不知(3/ 3 ) Bất tri lai bất tri Không biết lúc nào qua
不知來不知(3/ 3 ) Bất tri lai bất tri Không biết lúc nào qua
水中有人影 (1/ 4 ) Thủy trung hữu nhân ảnh Bóng người in dưới nước
隔花聞笑語(3/
4 ) Cách hoa văn tiếu ngữ Có tiếng cười sau khóm hoa
花以贈所畏(2/
3 ) Hoa dĩ tặng sở úy Hoa tặng người mình thích
實以贈所憐(2/ 4 ) Thực dĩ tặng sở liên Đài tặng người phương xa
實以贈所憐(2/ 4 ) Thực dĩ tặng sở liên Đài tặng người phương xa
牽連不可斷(4/
4 ) Khiên liên bất khả đoạn Vấn vương không dứt được
明年不復生(5/ 4 ) Minh niên bất phục sinh Sang năm gặp không nha ?
Và nếu chỉ chọn 4
câu trong “Ngẫu Hứng Ngủ Thư” thì ta có
một bài thất ngôn tứ tuyệt
Tam nguyệt xuân thì
trưởng đậu miêu
Thiên lý hương tâm
dạ cộng trường
Tha nhật xuân phong
hà xứ lai?
Cố hương can hạn
cửu phương nông
(Tháng ba xuân đậu nẩy đều, Quê
hương muôn dặm dạ sầu theo, Gió xuân mai mốt về đâu biết, Quê hương nắng hạn đã
lâu ngày).
và nếu bỏ đi mỗi
câu 2 chữ ta sẽ có bài ngũ ngôn tứ tuyệt
Xuân thì trưởng
đậu miêu
Hương tâm dạ cộng
trường
Xuân phong hà xứ
lai?
Hương can hạn cửu
phương
Mai mốt biết về đâu Hương? nắng
hạn đã lâu ngày.
Rõ ràng dây là một bài thơ tỏ tình của Nguyễn Du đối với nàng
Chỉ có một mình Xuân Hương mới hiểu và giải mã được hai bài thơ này và
làm sao mà nàng không nức nở khi đọc bài “Ngẫu Hứng Ngũ Thư” "Mộng
đắc thái liên" của Nguyễn Du viết, vì thế gian thì chỉ riêng nàng và
Nguyễn Du mới hiểu được cái ẩn ngữ nằm trong đó. Đây là một chuyện phòng the
thầm kín, một chuyện riêng của 2 người, một tình yêu tha thiết, nồng nàn cháy
bỏng ở tuổi ngũ thập tri thiên mệnh.
Đấy không phải một sự tình cờ mà một bài thơ có sắp đặt mà chỉ những
người trong cuộc mới cảm nhận được mà thôi
Chơi chữ kiễu này quả thật là thông minh, sắc sảo tài hoa quả đúng là
tay phù thủy chữ nghĩa
Gần 200 năm chưa ai giải mã được 2 bài thơ này cho nên nhiều người đương
thời cho Nguyễn Du là người vô tình?!
Nguyễn Du không phải là kẻ vô tình dửng dưng, không đoái hoài đến mối
tình cháy bỏng nồng nàng thiết tha của nàng Xuân Hương mà là người tình tuyệt
vời, thông minh, tài hoa
Một câu tình tứ da diết muôn năm, một rạo rực xác thân đến như thế làm
sao mà một người tình lãng mạn như nàng không khóc được, không nhớ được.
Tình yêu, nỗi nhớ nhung của Kiều đối vơi Kim Trọng trên lầu Ngưng Bích
trong truyện như thế nào thì tình yêu và nỗi nhớ quay quắt của Nguyễn Du đối
với Xuân Hương trong đời ắt mãnh liệt hơn nghìn lần.
Kiếp này thôi thế
thì thôi
Kiếp sau xin được
làm người chung thân
Và chỉ có Nguyễn Hầu nào đó mới cảm nhận được nỗi nhớ nhung vời vợi ngàn
dặm quan san của Xuân Hương qua bài Mộng Đắc Thái Liên “Ngẫu
Hứng Ngũ Thư” như Đậu Thao với bài thơ Chức Cẩm Hồi Văn của vợ mình là Tô
Huệ.
Nguyễn Du chết trong cơn dịch tả kinh hoàng tại kinh đô Phú Xuân năm 1820
và 2 năm sau thì có thể Xuân Hương cũng đã qua đời, Nàng được chôn cất bên cạnh
Hồ Tây - Thăng Long, còn chàng thì táng vội vàng ở trên quảng đồng vắng Bầu Đá
- An Ninh - Phú Xuân.
Bầu Đá nữa hồn nằm gối đất
Hồ Tây một dạ đứng không yên
Một mối tình thiên
thu Xuân Hương – Nguyễn Hầu hay Hồ Xuân Hương – Nguyễn Du đã vào huyền thoại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét