XUÂN HƯƠNG KHÓC
NGUYỄN HẦU
Tin
Nguyễn Du qua đời đột ngột đến Bắc Thành làm bàng hoàng một số văn nhân, thi
sĩ, người thân, bạn bè và những người ngưỡng mộ ông.
Trong nỗi tiếc thương
vô hạn của nhiều người, có một phụ nữ sống bên cạnh Hồ Tây âm thầm đau đớn
quằn quại trước hung tin đó. Người đàn bà ấy là Xuân Hương người yêu của
Nguyễn Hầu ( Hầu, Nghi-xuân, Tiên-điền
nhân), người ta nói Nguyễn Hầu chính là Nguyễn Du vì cả làng Tiên Điền chỉ có
một người duy nhất mang tên Nguyễn Du được vua phong chức Hầu .
Cuộc tình giữa Xuân Hương và Nguyễn Hầu qua bài "Cảm cựu kiêm trình
Cần Chánh học sĩ Nguyễn Hầu - Hầu, Nghi-xuân, Tiên-điền nhân là một mối tình mà
“Mối tình chốc đã ba năm vẹn, Giấc mộng rồi ra nửa khắc không” thì
cái chết của người tình cũng như môt vết dao đâm vào trái tim của nàng.
Đi theo
với tin dữ, bệnh dịch cũng lan tới với một tốc độ nhanh chóng khủng khiếp, số
người tử vong càng ngày càng lớn, đời sống xã hội trở nên rối loạn trầm trọng,
xác người chết không kịp chôn, môi trường tất nhiên là ô nhiễm, nhà cầm quyền,
quan lại cũng như các thầy thuốc đành bó tay để cho cơn đại dịch mặc sức hoành
hành.
Cơn đại
dịch từ kinh đô Phú Xuân lan khắp cả nước đến mức mà tình trạng kinh tế, nhân
lực quốc gia rơi vào cơn khủng hoảng. Thử nhìn và suy ngẫm các con số ghi trong
Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu một cuốn lịch sử tóm tắt của Quốc Sử Quán
triều Nguyễn biên soạn: “Năm 1820 bệnh
dịch từ mùa Thu qua mùa Đông, khởi đầu từ Hà Tiên suốt đến Bắc thành, số dân
chết đến 206.835 người (trên tổng số hộ dân cả nước là 612.912 người tương
đương với 1/3 dân số chính thức của cả nước lúc bấy giờ, không kể trai gái già
trẻ ở ngoại tịch… Người ta đồn rằng bệnh dịch ấy từ bên thái tây lây qua.”
Chết hết 1/3 dân số, một thông tin khó tưởng tượng nổi trong thời đại hiện nay
Một đoạn
khác ghi thêm rằng “Tháng 5 năm Kỷ sửu (1829): "Bộ Hộ tâu dâng: Số hộ
trong cả nước cộng 719.510 người. Ngài (vua Minh Mạng) ngự chế bài “Hộ Khẩu
Ký Sự” để ghi việc ấy so với năm Gia Long thứ 18 (năm 1819 dân số cả nước là 612.912) dân số tăng thêm
được 106.598 người trong vòng 10 năm (1819 đến 1829) .
Chúng ta
thử tưởng tượng hình ảnh cứ 3 người, có một người chết ở chung quanh mình thì
nỗi kinh hoàng của mọi người ra sao? xã hội, tỉnh thành làng xã, chợ búa… sẽ
ra sao?
Và chính
lúc ấy mới có thể cảm nhận được tâm lý cực kỳ hoảng loạn của con người sống
trong thời điểm đó: Cố gắng sống trong cái chết ở chung quanh. Xuân Hương chắc
cũng phải rơi trong tình cảnh đó
Nguyễn Hành trong
Minh Nguyên Thi Tập có làm 2 bài thơ mô tả lại cơn đại dịch năm 1820 qua bài Đại Dịch: “Dữ dội như đại quân kéo đi náo động khắp muôn dân. Xưa nay chưa
từng có trận dịch nào như thế. Từ Xiêm La, Chân Lạp đến Thăng Long. Thấy nhân
dân chết mà đau đớn. Xót thương loài người trời sinh ra. Giận mình không có
thuật gì để cứu chữa. Mà đem hiến các vị công khanh mà cứu dân.”
Bầu Đá nữa hồn nằm gối đất
Hồ Tây một dạ đứng không yên
Cánh
đồng Bầu Đá là nơi nhà thơ tài hoa được an táng vội vàng trong cơn đại dịch
Hồ
Tây là nơi Xuân Hương sống, ở đó Xuân Hương có xây một Cổ Nguyệt Đường nơi mà
các tao nhân mặc khách thường tới lui xướng họa với nữ chủ nhân
Nguyễn
Du là nạn nhân của trận đại dịch ấy, ông mắc bệnh rồi mất nhanh chóng vào ngày
mồng mười tháng 8 âm lịch, tức ngày 16-09-1820. Ông chết mà không kịp trối
trăn
Người
nhà của Nguyễn Du đã mô tả tình trạng bệnh lý và tâm lý của ông như sau: Khi ốm
nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ nói với ông là
đã lạnh. Ông nói “Được” rồi mất, không trối lại một lời. Bên cạnh ông lúc ấy có
em là Nguyễn Ức và cháu là Nguyễn Thảng, con Nguyễn Khản, đang làm quan ở Phú
Xuân.
Ông được chôn cất vội vàng ở cánh đồng Bầu
Đá, An Ninh, Phú Xuân.
Cháu của ông là Nguyễn Hành bấy giờ ở Bắc
Thành được tin ông mất, có làm thơ khóc chú và nói lên cái chết nhanh chóng bi
thảm đến với ông như sau :
Thập cửu niên tiền Tố Như tử,
Nhất thế tài hoa kim dĩ hỉ.
Ngô môn hậu phúc công xảo
hoàn,
Dịch lệ hà năng tốc công tử?
Tam thu xuân lạc thử thành
trung,
Quy khứ gia sơn văn dạ lạp,
Tinh linh hoảng dữ năng thời
đồng.
(Trong khoảng 19 năm trước đây, Chú Tố
Như nổi tiếng tài hoa nhất đời. Phúc dày nhà ta chú đã khéo giữ được trọn vẹn. Bệnh dịch sao có thể làm chú chết mau đến thế? Ba năm lưu lạc ở thành này, mỗi
lần nhìn về phương Nam
thấy mây lơ lửng là mỗi lần nhớ chú. Từ nay về núi nhà ban đêm nghe tiếng người
đi săn, Thì tâm hồn lại hoảng hốt giống y như ngày xưa còn chú).
Đến
mùa hè năm Giáp Thân (1824), tức là 4 năm sau, con trai ông là Nguyễn
Ngũ cải táng hài cốt của cha về ở quê nhà, xứ Đồng Mát, nơi vườn cũ của ông ở
lúc sinh thời, thuộc xóm Tiên Giáp (nay đổi là Tiên Mỹ). Năm 1928, lại cải táng
sang xóm Đồng cùng ở xóm Tiên An, cách làng 2 cây số về phía Đông Nam
trên một bãi cát hẻo lánh. Con cháu có dựng một ngôi nhà thờ ở vườn cũ. Năm
1940, hội Khai Trí Tiến Đức có quyên tiền xây một ngôi nhà thờ gạch, lợp ngói. Năm 1954, chiến tranh phá hủy ngôi nhà thờ này. Hiện nay kỷ vật của Nguyễn Du
chỉ còn một quản bút, một con dao ngà, một chiếc la bàn và một chiếc đĩa sứ to
có vẽ cảnh mai hạc với một câu thơ lục bát:
Nghêu ngao vui thú yên hà,
Mai là bạn cũ hạc là người
quen.
Nhân thân của Nguyễn Du, Nguyễn Hầu, Xuân Hương và Hồ Xuân Hương được hậu
thế đem ra mổ xẻ, tranh luận, minh chứng rằng họ tuy hai là một, một luận cứ
đối lập thì cho là Hồ Xuân Hương và Xuân Hương là hai nhân vật.
Trong bài viết
trước tôi đã giải mã bài “Mộng đắc thái liên” , “Ngẫu Hứng Ngũ Thư”của Nguyễn
Du mà nhiều bậc thức giả cho rằng nó ẩn chứa tình cảm của nhà đại văn hào này
gởi cho Xuân Hương
Cái chết tức tưởi, một cái chết không được báo trước của người tình và
một trận dịch như một cơn lốc bão tàn khốc đi qua Thăng Long, Xuân Hương sẽ phải trải qua một cơn khủng
hoảng ít nhất là vài tháng mới có thể bình tâm, mới có thể khóc cho người tình
và cho số phận của mình trước nghịch cảnh éo le tạo hóa gây ra, hình như 24
tháng sau khi Nguyễn Du qua đời thì Xuân Hương cũng bỏ cuộc chơi và về nơi suối
vàng với chàng thi sĩ nhất mực tài hoa.
Trong 24 tháng đó, Xuân Hương đã nhỏ bao nhiêu nước mắt cho người tình?
bao nhiêu đêm thao thức quay quắt nhớ nhung ? hồi tưởng những kỷ niệm êm đềm của ba
năm hương lửa, có biết bao nhiêu thơ văn xướng họa với nhau mà chỉ có hai người
biết
Một kho tàng văn chương của hai người đang bàng bạc đâu đó, một kho tàng
vô giá có thể ngang hàng với truyện Kiều với những trước tác bằng Hán văn của
Nguyễn Du hay Lưu Hương Ký của Xuân Hương.
Nằm mộng còn ai
thấy hái sen
Người đi kẻ ở nhỡ
lời nguyền
Tình yêu những tưởng muôn năm mãi
Ân ái chỉ còn mỗi một đêm
Bầu Đá nửa hồn nằm gối đất
Hồ Tây một dạ đứng không yên
Sao đi không nói
lời trăn trối
Cho mắt lưng tròng nhỡ hết duyên
Chắc rằng sẽ còn nhiều nhà nghiên cứu khám sau
này phá ra trong truyện tình thiên thu Xuân Hương – Nguyễn Hầu hay Hồ Xuân Hương – Nguyễn Du sẽ có
thêm nhiều điều thú vị.
HỒ ĐẮC
DUY
24 THÁNG 2 NĂM 2008
24 THÁNG 2 NĂM 2008
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét