Có Phải Chiều Đó Chiều Thu
(Chuyện được viết bằng tưởng tượng từ tình tiết, bối
cảnh đến nhân vật)
Ngồi trước
mộ Nhiên khá lâu, nói gì thì cũng nói gần hết rồi,
nhưng Đan vẫn muốn ở lại với hắn thêm chút nữa, vì ít khi có dịp về Sài Gòn,
không biết chừng nào mới có lần tới. Đan nhắc chuyện cũ chuyện xưa, buồn nhiều
vui ít, lắm lúc bùi ngùi muốn khóc, nhưng trên tấm mộ bia, trong hình Nhiên cứ
cười, cái cười của những ngày hai người còn đánh trỗng đánh gồng, bắn bi đá dế ở
trường làng cho đến năm cuối cùng trung học, cả hai cùng đậu tú tài hai. Đan tiếp
tục học lên, Nhiên giã từ sách vở, tình nguyện vào lính, rồi theo đơn vị miệt
mài súng đạn, hết trận chiến này đến trận chiến khác, cứ như vậy mà quăng đời hun
hút từ cao nguyên gió núi mưa mùa, xuống đầm lầy rừng sâu, đồng chua nước mặn. Đan ra trường, xuống tận Chương Thiện, nhận nhiệm sở chưa đầy nửa năm. Nhiên tử
trận ở chiến trường Đức Cơ, rồi được đem về chôn tại nghĩa trang quân đội Biên
Hòa.
Nắng rạng lên ở phía dưới quốc lộ. Trời đầu thu, lá úa rụng, trải dầy một
màu vàng ủ rũ, buồn nối buồn trên những con đường chia đôi, chia ba trên từng
hàng mộ thẳng dài, dài hun hút. Mặt trời lơ lửng đỏ nhạt cuối hàng cây dưới đồi. Mới đó mà đã gần giữa trưa, người vào thăm mộ càng lúc càng đông, nghĩa trang
trắng một màu của áo tang và của mộ đá, Sửa lại nhánh hoa Huệ trắng trong bình
trước hình Nhiên ngay hơn một chút, Đan đứng dậy, bỏ đi dọc theo mấy cái mộ cạnh
đó, không có ai thăm, đọc tên trên từng bia một, lòng đau nhói.
Đi trở lại, từ đằng xa nhìn ngược về, có
người con gái nào đó, áo dài màu thanh thiên nhạt, ngồi cắm hoa trước ngôi mộ,
cách chỗ Nhiên hai ba cái, phía bên kia, mà lúc nãy vắng im chưa thấy ai. Ngại
làm phiền và cũng muốn để yên cho người, Đan đứng yên ở xa một chập lâu, chờ
người con gái đứng dậy, nói gì với mấy chị mới tới, loay hoay bày dọn nhang đèn
trước ngôi mộ kế bên, Đan lặng lẽ bước chậm trở lại, vừa tới nơi thì cũng vừa đúng
lúc người con gái quay nhìn qua. Đan đứng chết trân, nín thinh, ngỡ ngàng, hai
người buột miệng cùng một lúc hai tiếng “anh
Đan, Trúc” rồi im bặt. Nắng giữa trưa lùa bóng hai người khẳng khiu ngã
xuôi, ngang qua đầu mấy hàng mộ trắng. Thoáng một chút nhớ của tháng ngày xa
xưa nào đó lúng túng chợt về, Đan bước tới gần bên, nhìn lên hàng chữ “cố Thiếu Tá Phạm Bảo Trân” trên mộ bia,
chưa biết hỏi gì. Đứng bên cạnh, Trúc bật khóc.
*
Với
chút ít kinh nghiệm có được từ thời Pháp, ba của Đan, dù gia cảnh không khá giả
mấy nhưng sau những năm tháng chắt chiu, dành dụm, mua được chừng chục mẫu đất,
qua khỏi cầu sắt Trà Phí, có đồn lính Địa phương quân VNCH đóng, xế chỗ ngả
đi lên Ka Tum, Thiện Ngôn, tính từ ngoài chợ tỉnh vô, nằm dọc theo bên đường đi
núi Bà Đen, gần giáp mấy cánh đồng trồng chuối của dân trong vùng Long Hoa, lập thành sở cao su nho nhỏ, thỏa mản ước mơ cuối đời. Một hai năm đầu, chưa có nhà cửa
trên Tây Ninh, từ Trâm Vàng, ba Đan, lên tỉnh ở nhờ nhà vợ chồng chú bảy Kiên, người
em bà con xa cùng quê Bến Cầu, ở gần trung tâm Chiêu Hồi, đôi ba ngày, chạy ra
chạy vô, mướn người trồng cây, làm đất, nhỗ cỏ, vét mương. Đan ở nhà với mẹ, học
trường trung học quận, thỉnh thoảng, hai ba lần, cũng được ông dẫn lên tỉnh chơi cho biết. Mấy năm
sau, cao su lớn như cánh rừng, không uổng công ba mẹ Đan vất vả, ngược xuôi, nhịn
ăn nhịn mặc. Nhờ vợ chồng chú bảy Kiên phụ thêm một chút tiền, ông bà mua được
một căn nhà cây cũ, xập xệ, mái ngói âm dương ẩm ốc rong rêu, không lớn nhưng
miếng đất rộng, có vài ba cây dừa, bốn năm cây vú sửa, ở gần phía xóm trong,
cách nhà chú bảy Kiên không mấy xa. Cuối năm đệ tứ, gia đình dọn về Tây Ninh, để
căn nhà tôn lại cho bà dì ruột thứ năm, em của ngoại. Đan cũng may, nhờ học bạ
mấy năm dưới kha khá nên được chuyển vào đệ tam trường trung học tỉnh năm đó.
Hôm đám cúng giỗ ở nhà bác Tuân, người bạn
cũ, có thời làm đốc học đã hưu trí, ba Đan quen vợ chồng hai bác Thuận, gia
đình được xem là giàu có. Nhà ông bà là
căn biệt thự kín cổng cao tường, hoa lá xum xuê, nằm không mấy xa ngã ba đường
vào Ao Hồ, cái hồ tắm mà đám học trò các trường học trong tỉnh, nhỏ lớn đều có
tới bơi tới lội hà rầm. Cổng nhà rộng hai cánh, lúc nào cũng đóng, phía
trên có tấm bảng bằng gỗ với hàng chữ “Trần
Gia Trang”. Hai bác hiền hậu và quen biết nhiều chức sắc trong tỉnh, đạo
cũng như đời. Gia đình có hai người con, anh trai lớn đang sống ở đâu đó bên
Pháp, cô con gái út, bằng tuổi Đan, học cùng lớp ở dưới Sài Gòn. khi có ai đó
nhắc chuyện ngày ba Đan còn cai quản đồn điền cao su cho người Pháp ở Bình
Long, Ban Mê Thuộc. Bác Thuận hiện có ba bốn sở cao su, bên Thanh Điền và phía
bên kia núi Bà, đã khai thác từ lâu nhưng không đạt được như ý bác muốn. Vả lại,
có nhiều khu, cây cao su xem ra đang chết dần, mủ không ra nhiều như trước. Ngoài đồn điền cao su, bác Thuận còn có lò gạch, xưởng cưa, cửa tiệm bán phân
bón, nông cụ, máy bơm nước, ở lòng vòng các vùng quanh tỉnh và chợ Long Hoa,
thêm vào đó bác cũng có mấy căn phố lớn mặt tiền trên đường Tự Do, đường Lê
Thánh Tôn, gần chợ Bến Thành nữa.
Sau lần gặp gỡ này, bác Thuận trai xem ra mến
mộ ba Đan nhiều lắm. Bác đã nhiều lần đem xe hơi hiệu “Peugeot”, chở ông tới mấy sở cao su xem giùm số cây bị hư. Ba Đan
thiệt tình bàn bạc cách giải quyết với bác; mặt khác bác cũng tới thăm sở của
nhà Đan, tỏ ý muốn ba Đan nhín chút ít thời giờ, thay mặt ông coi trong coi
ngoài mấy sở của mình. Hai người kết thân và coi nhau như anh em từ đó. Chừng
năm sau, mấy khu cao su chết, cây lớn lên tươi tốt, ngay hàng thẳng tấp. Bác
Thuận đích thân đến nhà, gởi ba Đan một số tiền đền ơn nhưng ba mẹ Đan không nhận. Hai bác, không lần này cũng lần khác, mỗi khi có tiệc tùng, có cúng quảy gì đó đều
nhất định “một hai” phải mời ba mẹ
Đan cho bằng được, cũng không mấy lần ba Đan liệu đủ cách chối từ nhưng đành phải
tới một hai lần.
Xuống Sài Gòn, vào đại học, thì sở cao su ở
nhà, công nhân bắt đầu cạo mủ, chưa bao lâu thì trên tỉnh nhà, cộng sản tung quân rần rộ, từ
biên giới Miên qua, tấn chiếm vùng núi Bà Đen, tràn xuống chận đường quân sư
đoàn 25 VNCH từ ngoài tỉnh vào. Họ đóng chốt ngay trong khu rừng sở cao su của
nhà Đan. Hai bên đánh nhau ác liệt hết mấy ngày. Không còn cách nào khác, không
quân VNCH cho oanh tạc cơ A 37 dội bom liên tục trong suốt mấy ngày liền, yểm
trợ cho bộ binh, tiến vào. Rừng cao su của nhà Đan vô tình trở thành một bải
chiến trường nghiệt ngã. Đạn đại liên, đạn súng đại bác từ mấy cái xe tăng, của
thiết giáp bắn nát không chừa một thứ gì. Quân cộng sản bị đẩy lui ngược về hướng
sau núi. Ngày trận đánh kết thúc, gần như hơn hai phần ba, không còn một cây
cao su nào được nguyên vẹn, thân cháy đen, gãy ngang, xơ xác, tiêu điều. Nhà
máy chứa mủ cũng bị sập hơn phân nửa. Cảnh tượng không khác gì bị những cơn bão
dữ nào đó quét ngang. Đứng từ ngoài đường nhìn vào từng hàng cây cao su, ba mẹ
Đan lặng thinh, không biết nói gì, chỉ sụt sùi quẹt nước mắt, lầm thầm, đời ông
quả là một phận đời “mưu sự tại nhân thành
sự tại thiên.” Thật vậy, đời của ba Đan là một chuỗi đời từ thất bại nhỏ
tới thất bại lớn, dựng lên, sập xuống, trôi giạt kiếp người, cao nguyên gió núi
sông nước miền Tây, rốt cuộc vẫn là hai bàn tay trắng.
Về nghỉ tết, đêm giao thừa năm Mậu Thân,
quân cộng sản tấn công ào ạt vào tỉnh, lại một lần nữa không may, nhà của Đan bị
trúng đạn pháo của quân cộng sản từ hướng núi Bà bắn vào tỉnh lỵ, sập xuống hơn
hai phần ba, còn được cái chái phía sau tạm che nắng che mưa. Trời chắc cũng
còn thương nên trong nhà, ba người không ai bị thương tích gì. Tiếng súng
ngưng, trận chiến tàn, quân cộng sản thối lui, không chiếm được tỉnh lỵ. Mấy
ngày sau, tình hình tạm xem yên ổn, dân chúng tràn ra đường, người chạy lên, kẻ
chạy xuống, tìm hỏi bà con thân nhân ai còn ai mất. Chuyện vợ chồng chú bảy
Kiên, lăng xăng lo lắng cho ba mẹ Đan thì không nói gì, đằng này, bác Thuận
trai cũng lái xe Honda ra thăm, nhìn căn nhà đổ nát lắc đầu không nói gì khi
theo ba Đan đi vòng quanh sau trước. Ra về ông bắt tay ba Đan, buồn buồn “thôi chuyện để từ từ mình tính anh tư nghe”.
Nhờ sự giúp đở của hai ba anh công nhân cạo mũ của sở mình, hiện phải tạm nghỉ
việc, ở gần nhà, ba mẹ Đan đem mớ bàn ghế không bị hư, qua để bên nhà chú bảy
Kiên một thời gian; may mà còn được cái chái sau nên, cũng còn có chỗ ăn chỗ nằm,
có chỗ cúng kiếng ông bà, nhang đèn tạm qua ba ngày Tết, một cái Tết buồn thiu tẻ
nhạt.
Trước ngày thi cuối năm vài tuần, gần ba bốn
tháng, sau ngày vào học lại, thấy tình cảnh gia đình túng quẩn, thương cho ba mẹ
lo ngày lo đêm, Đan tìm được việc làm giữ kho những ngày cuối tuần, cho công ty
SAKIBOMI, làm bột mì, bên phường Rạch Cát, bến Bình Đông, vừa học vừa làm. Đan
về Tây Ninh thăm nhà theo chuyến xe đò Tân Nguyên Thành đầu ngày. Chiếc xe lôi
máy ngừng lại trước nhà, chưng hửng, Đan ngồi thừ trên xe một lúc rồi mới bước
xuống trả tiền. Chiếc xe bỏ đi lâu rồi, Đan vẫn còn đứng một hồi lâu ngoài đường.
Căn nhà được dựng lại hết từ trước cho tới chái hiên sau, mái ngói nửa cũ nửa mới,
cây ván, gạch đá, xi măng vẫn còn chất từng đống, đầy ở một góc sân trước. Buổi
chiều, trời chưa dịu nắng, ngồi ăn cơm ngoài sau hè như những ngày mới dọn vể tỉnh,
nhà cửa tạm rồi, nhưng nghe chuyện qua chuyện lại, Đan thấy hình như ba mẹ mình
vẫn còn có chút lo lắng gì đó, vui không hẳn vui mà buồn thì cũng không hẳn là
buồn.
Đêm trước ngày trở xuống Sài Gòn, ba mẹ cho
biết, hai bác Thuận cứ một hai muốn làm suôi gia với ông bà, bảo Đan ghé qua
nhà dưới Sài Gòn, thăm cho biết mặt con gái họ, Trúc, hiện đang học đại học Sư
Phạm, làm quen nhau đi rồi chuyện gì thì tính sau. Ba mẹ thấy quen nhau lâu rồi,
hai bác Thuận cũng tốt, cái gì cũng “một
anh chị tư hai anh chị tư”, chưa kịp trả lời thì đã cho xe chở gạch chở
ngói, cho người ùn ùn, tới dẹp dọn dựng cột dựng tường, sửa lại nhà suốt cả
tháng trời. Ngày nào ông cũng có mặt, hỏi ba mẹ được chưa, thêm cái gì nữa
không. Ba mẹ Đan trở tay không kịp, đành chịu phép. Nhà dựng lại xong, vợ chồng
chú bảy Kiên qua chơi, khen lấy khen để, “tiếng
một tiếng hai”, cám ơn bác Thuận trai rối rít, cứ như là chuyện của mình.
Ba mẹ Đan ở vào thế kẹt, nợ ơn đành mang, vả lại, nghĩ con mình vốn dễ dạy từ ngày còn nhỏ
và cũng phải tính tới chuyện có vợ có con, chắc không có gì phản đối, thêm
nữa, đã gặp mặt Trúc, hôm hai bác Thuận đưa đến nhà chào, khi cô từ Sài Gòn về
chơi. Thấy Trúc dễ thương, người xinh xắn, ăn nói dịu dàng, nên cuối cùng, ba mẹ
Đan, hứa là sẽ không để phụ lòng hai bác. Đan hiểu tình cảnh gia đình mình,
thương cho ba mẹ, trước tới nay, chưa từng ngửa tay nhờ vã một ai, giờ lại lâm
vào cảnh này. Chưa tính tới chuyện chưa thấy mặt, biết có thương được hay
không, dù rất mến, rất trọng và biết ơn gia đình Trúc nhưng ý tưởng không ưa con nhà giàu của Đan có từ những ngày còn ở lớp ba lớp bốn trường
làng, vẫn còn là quan niệm sống của mình. Đan ghét câu anh đã thường
nghe nhiều lần: “cái thằng đó, sở dĩ được,
giàu có, làm quan to ông lớn là nhờ vào gia đình vợ, chứ thân nó có cái gì đâu.” Cũng cùng một nỗi khó như ba mẹ, Đan không dám từ chối hẳn mà xin ông bà để từ
từ rồi tính.
Để ba mẹ tạm yên lòng, hôm về Tây Ninh thăm
nhà, trước ngày chuẩn bị khăn gói xuống Sa Đéc thực tập, Đan nhận lá thư và hai
ba món gì đó, bỏ trong cái hộp giấy, không cột kín, mà hai bác Thuận, nhờ ba mẹ
đưa cho Đan mang xuống Sài Gòn, giao cho Trúc giùm, hai bác cũng có ý là để Đan
“xem mặt” con gái của mình. Cầm gói đồ
trên tay, cám ơn bà cụ mở cửa, xưng là ngoại, cho biết Trúc vừa chạy mua gì đó,
đã ân cần mời vào trong nhà. Đan đứng ngoài chờ, giữa trưa, trên đường người xe
một giòng đông nghẹt, trời nhiều mây hơn nắng. Trúc đi đâu đó về tới, thấy có
người lạ, bỏ vội chiếc xe Honda PC ngay bực thềm, bên hông nhà để xe, đi
nhanh vào. Đan gật đầu chào, cả hai chưa kịp hỏi gì, thì bà ngoại từ cánh cửa,
để mở rộng, từ nãy giờ bước ra, cười “có cậu này kiếm con, chờ lâu rồi, ngoại kêu
vô mà không chịu vô đó” rồi bỏ vào trong. Trúc đi trước làm dấu mời, tiếng
còi chuyến xe lửa về miền Trung ra, từ chợ Bến Thành, báo hiệu đóng cổng ngăn
đường, phía ngang khúc Yên Đổ Hiền Vương, rít lên inh ỏi, từng chập một, át hai
tiếng “cám ơn” của Đan.
Trúc hồn nhiên, cười luôn miệng rối rít cám
ơn Đan đã mang đồ của nhà trên Tây Ninh gởi xuống. Đan thì cám ơn hai bác Thuận
đã giúp đỡ gia đình mình trong lúc túng quẩn. Hỏi nhau đôi chút loanh quanh về
chuyện học chuyện hành, chuyện phố phường đường xá, chừng đó rồi thôi, Đan chào
từ giã. Bà ngoại từ nhà sau đi lên, đứng sát bên Trúc hỏi “đây là cậu Đan mà ba mẹ con nói đó hả?” Trúc thẹn thùng, đỏ mặt dạ
thật nhỏ. Đan chào bà lần nữa, đi ra,Trúc theo sau tới cổng. Bà ngoại nói vói
theo “rãnh thì tới chơi nghe con.” Đan
khẻ gật đầu, không nhìn lại. Trời vẫn cứ mây với mây, những cụm mây lảng đảng
buổi sang mùa, lững lờ che bóng nắng vào chiều. Lẻ loi đâu đó dăm ba chiếc lá
úa khô vàng lác đác bay ngang, theo chiều gió nhẹ từ hướng xa nào đó về. Bất chợt
một thoáng mưa đầu thu ghé ngang trên đường, lất phất như bụi phấn. Đội mưa trên
đầu, Đan khuất ở góc ngã tư Lê Văn Duyệt lâu rồi, Trúc vẫn còn đứng trước cổng
nhìn theo, trong lòng có chút vui là lạ. Ngồi trên xe buýt về lại nhà trọ, nhìn
mông lung bên đường, Đan tự hỏi mình “có
nên gặp lại”.
Từ Sa Đéc, về Tây Ninh đám giỗ ông nội,
ngoài vợ chồng chú bảy Kiên và mấy người bạn quen hàng xóm, ba mẹ cũng mời hai
bác Thuận đến, có cả Trúc đi theo, vừa học xong, luôn tiện chào từ giã ba mẹ
Đan, nay mai xuống dạy dưới trường Lê Ngọc Hân, Mỹ Tho. Sau lần mang thư đến
nhà của cô nàng dưới Sài Gòn hai người mới gặp lại. Không như những lúc chào hỏi
qua loa cho phải phép trước đây, hôm đó cũng là lần mà Đan nói chuyện với hai
bác Thuận khá nhiều. Trúc cũng quanh quẩn bên mẹ bên thiếm Bảy và mấy cô thiếm
khác, nói nói cười cười, bưng lên dọn xuống, bếp dưới bàn trên, thỉnh thoảng hỏi
qua hỏi lại với Đan vài câu. Ở một góc nhà trên, mẹ Đan và bác Thuận gái, nhìn
qua nhìn lại, hết Đan rồi Trúc, gật gù nhỏ to gì đó. Ra về, Trúc nấn ná phía
sau hai bác Thuận, đi bên cạnh Đan, Trúc nói nhỏ “chừng nào xuống Sài Gòn, trước khi đi Sa Đéc, anh Đan ghé qua nhà Trúc
chơi nghe”, Đan gật đầu nhưng không dám hứa chắc. Hôm đó, cũng bữa cơm chiều
ngoài sân sau, Đan nói ra những gì mình nghĩ về chuyện anh và Trúc, anh đành phụ
lòng ba mẹ. Ông bà ngồi nghe, trầm ngâm không hỏi thêm hỏi bớt. Bữa cơm xong muộn
hơn mọi lần. Mẹ Đan có vẻ buồn buồn, không giận, nhắc đi nhắc lại “Trúc nói nó thương con từ bữa mới gặp dưới
Sài Gòn”, rồi bỏ lửng.
Đan nói chừng đó rồi bỏ lửng, giống cái bỏ
lửng của mẹ anh. Lúc xong bữa cơm chiều ngày giỗ nội, Trúc ngồi lặng thinh
nghe, nhìn mông lung qua khung cửa sổ. Ngoài kia trời Sài Gòn đã giữa thu,
nắng vẫn cái nắng pha chút hơi lạnh, mưa cũng những cơn mưa buồn vui đi về bất
chợt. Lá thu khô vàng rụng đầy bai bên đường Phan Thanh Giản, có chút gió lướt
qua, lá chết trở mình đuổi theo giòng người hối hả đi, giữa ráng chiều đang chầm
chậm xuống, Đan đứng dậy từ giã, quay nhìn Trúc nói nhỏ “xin Trúc hiểu cho”,Trúc không đưa ra cổng như lần trước, đứng tựa cửa
nhìn theo. Như trốn chạy, Đan cúi mặt bước thật nhanh, ở góc Hiền Vương Yên Đổ,
cũng tiếng còi réo vang nghe như có cái gì đó nhói đau, đau dằng dặc, Trúc bật
khóc. Kéo ngăn hộc tủ, thu mình trong một góc phòng, lẳng lặng ngồi đọc lại lá
thư gởi cho Đan, viết chừng mấy ngày nay. Một lần nữa và có lẽ là lần cuối,
Trúc đốt tờ thư giấy màu xanh lá cây hy vọng mà cô đã nâng niu từng hàng chữ một,
mắt đỏ hoe, rấm rứt “thôi thì vĩnh biệt”,
vĩnh biệt chút tình đầu vừa chớm. Hai người không gặp lại nhau từ đó. Bãi trường
năm sau, nghe lời gia đình, Trúc bằng lòng lập gia đình với Trân, đại úy bộ
binh, đang là chi khu phó chi khu Cần Đước, Long An, con trai lớn của người bạn
đạo ở Tòa Thánh với hai bác Thuận. Không may, Trân bị phục kích chết trên đường
đi thăm một phân chi khu khá xa, về hơi trễ, khi ngang qua khoảng “đám lá tối trời” mấy hôm, trước ngày
đưa “ông táo” năm đó không bao lâu.
*
Từ nghĩa trang về tới nhà, trời lấp xấp chiều,
Trúc kêu cửa, Đan đứng sau chờ. Một lần nữa, Sài Gòn cũng lại vào Thu giữa mùa,
sân trước nhà vẫn vậy, cũng ngập lá khô một màu úa vàng như lần đầu Đan đến,
cũng những bậc thềm lác đác đá rong rêu. Cửa mở, bà ngoại bước ra, mắt tròn xoe
nhìn Đan chưng hửng “Đan hả, bận lắm sao
lầu rồi không ghé qua chơi vậy con”, Trúc cười nhẹ quay lại sau, Đan gật đầu,
chưa biết trả lời sao hơn là tiếng “dạ”
thật nhỏ. Cũng trong căn phòng cũ, chiều hôm đó, hai người có nhiều chuyện nói
cho nhau nghe hơn là lần trước. Chuyện Trúc thương Đan nhưng tiếc đã không dám
nói ra, chuyện chôn kín nỗi lòng của người đi bên cạnh cuộc đời. Chuyện Đan
cũng thương Trúc nhưng cái lập trường “ghét
nhà giàu”, vướng mắc, rồi gì gì đó, chừng như đủ cho cả hai, bỏ những cái
buồn vương mang khắc khoải theo đời lại sau lưng, để không còn cái “chỉ riêng mình hiểu”, theo ra cổng. Trúc
tiễn Đan về nhà trọ bên nhà người em bạn dì của thiếm Bảy Kiên, để sáng mai trở
xuống Chương Thiện. Không như ngày đó, Đan nấn ná bước tới bước lui, chưa chịu
bỏ đi, hẹn chắc chắn sẽ gặp lại nhau. Trúc nhìn theo cười muốn khóc. Thoáng
chút gió lẻ bạn tạt về ngang bên đường. Vài ba chiếc lá chết tiếc nuối đời, cuốn
quấn quít bên chân, Đan quay lại vừa vẫy tay, vừa chợt biết, trái tim đã ngủ
quá lâu của mình đang trở mình thức muộn.
Đan kéo cao cổ áo, bước ra sân sau, sáng rựng,
có chút mặt trời hé lên đâu đó nhưng chưa đủ ấm. Mấy cây vú sửa già ở góc sân
cuối rào vẫn tàn lá um tùm, che kín nắng. Gần hai năm, từ ngày xuống Chương Thiện,
về thăm nhà vài ngày, lần này ba Đan vui nhiều, cũng nhờ hai bác Thuận một tay,
cái sở cao su nhà, được gom lại vài mẫu, còn lấy mủ kha khá, ít nhất, đã có được
chút đỉnh tiền ra tiền vô, không uổng công ông gần hơn hai phần ba đời chỉ toàn
là thất bại, đi qua đi lại, tìm bóng nắng chưa mấy bước, có tiếng mẹ trong nhà gọi
vọng ra.
Hai cha con từ trong nhà ra, ngoài sân bác
Thuận trai đi trước, bác gái và Trúc theo sau, nói nói cười cười. Đan chưng hửng
nhìn, mấy ngày trước, anh có nhắn với Trúc là thứ bảy hôm qua về Tây Ninh vài
ngày, hẹn sẽ ghé xuống trường dưới Mỹ Tho thăm trên đường trở lại Chương Thiện. Hai bác theo ba Đan vào nhà, phía sau, đi bên nhau, nắm tay Đan bấm nhẹ, Trúc
mĩm cười “về đây gặp anh, gặp cả nhà vui
hơn là ở dưới Mỹ Tho chờ ngày này ngày kia nóng ruột chết.” Bỏ bác Thuận
trai và ba Đan nói chuyện với nhau trên phòng trên, Đan, Trúc và bác gái, kéo
nhau xuống phụ mẹ Đan dưới nhà bếp, làm cơm trưa, tiếng cười nhiều hơn tiếng
nói.
Ra về, đứng chờ đón xe lôi máy, bác trai
Thuận, nhắc đi lắc lại với ba Đan “chừng
nào, anh Tư cứ nói cho tôi biết, càng sớm càng tốt, tùy anh chị, anh chị tính
sao thì hai vợ chồng tôi tính vậy.” Bác gái nhìn Đan và Trúc, đang thì thầm
với nhau, không nói gì hết, thấy vui. Xe lôi đến, trước khi lên, bác Thuận trai,
lại gần bên, vỗ nhẹ vai Đan, nhoẻn miệng cười “thôi bác về nghe ông phó.” Đan cúi đầu chào “dạ con không dám.” Nắng lên rực đỏ từ nãy giờ, Đan vẫn còn đứng
ngoài đường, xe chạy khuất một khoảng xa rồi, bỏ lại sau lưng một thoáng mù bụi
đỏ, từ trong sân nhà nhìn ra, mẹ Đan cười, một nụ cười trọn vẹn.
Thuyên Huy
Hobart Chờ Thu tàn 2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét