Thứ Tư, 23 tháng 6, 2021

Góc Việt Thi : Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (4) (Đỗ Chiêu Đức)

 Góc Việt Thi : 

          Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (4)
                     
                
                     
16. Bài thơ ĐỀ PHIẾN (Kỳ 1) :

     題 扇                               ĐỀ PHIẾN
    (其 一)                               (kỳ 1)
歌 罷 薰 風 日 正 長, Ca bãi huân phong nhựt chánh trường,
望 湖 亭 上 芰 菏 香。Vọng hồ đình thượng kỵ hà hương.
俄 驚 紈 扇 回 天 力,   Nga kinh hoàn phiến hồi thiên lực,
消 得 人 間 六 月 涼。Tiêu đắc nhân gian lục nguyệt lương!

                

* Chú thích :
    - ĐỀ PHIẾN 題 扇 : Đề Thơ lên Quạt.
    - Huân Phong 薰 風 : Cơn gió ấm hòa dịu của mùa hè thổi từ Nam sang Bắc.
    - Kỵ Hà 芰 菏 : KỴ là Ấu, HÀ là Sen; Nói chung KỴ HÀ là chỉ sen súng ấu... mọc trong các ao, hồ, đầm nước.
    - Nga Kinh 俄 驚 : Bỗng giật mình, chợt giật mình kinh ngạc...
    - Hoàn Phiến 紈 扇 : Các loại quạt có hình tròn hay hình bầu dục ngày xưa.
    - Hồi Thiên Lực 回 天 力 : Vãn hồi lại cái sức của trời; Ý nói : Cây quạt có thể làm cho thời tiết đang nóng trở thành mát. Chỉ là một cách nói nhấn về công dụng của chiếc quạt mà thôi.

* Nghĩa bài thơ :
                          ĐỀ THƠ LÊN QUẠT

       Ca múa xong rồi nhưng gió vẫn đang nóng và ngày cũng như đang dài ra, trên cái đình trên hồ ta nhìn các hoa ấu hoa súng hoa sen đang tỏa hương thơm. Chợt giật mình kinh ngạc vì chiếc quạt tròn nhỏ bé nầy có thể vãn hồi lại cái sức của trời, làm tiêu tan đi cái nóng mà đem cái mát mẻ đến cho trời tháng sáu nầy. 

       Nhà vua đã khéo ví von cái năng lực của chiếc quạt tròn nhỏ bé có thể làm nên việc lớn chẳng ai ngờ. Phải chăng chiếc quạt nhỏ bé đó lại được bàn tay xinh xắn của một cung nhân tuyệt đẹp phe phẩy để quạt cho nhà vua, nên mới có cái khả năng "hồi thiên lực" như nhà vua đã cảm nhận, chứ đối với một nông phu tay lấm chân bùn thì "cày đồng đang buổi ban trưa, Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày" và "Ai ơi, bưng bát cơm đầy, Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!"

* Diễn Nôm :
                           ĐỀ PHIẾN

                Ca dứt gió hanh ngày tựa dài,
                Trên hồ hương tỏa súng sen lay.
                Lạ lùng đoàn phiến xoay trời đất,
                Tháng sáu mà sao mát mẻ thay !
  Thơ tám chữ :              
                Tiếng ca dứt gió nồng ngày đằng đẵng,
                Trên đình hồ lặng ngắm súng sen thơm.
                Chợt lạ lùng chếc quạt lụa con con,
                Xoay trời đất mát còn hơn tháng sáu !
                                     Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm             

17. Bài thơ ĐỀ PHIẾN (Kỳ 10) :

      題 扇                          ĐỀ PHIẾN
     (其 十)                         (KỲ 10)
   南 樓 方 溽 暑,    Nam lâu phương nhục thử,
   火 夏 日 如 年。    Hoả hạ nhật như niên.
   卻 愛 掌 中 物,    Khước ái chưởng trung vật,
   能 參 造 化 權。    Năng tham tạo hóa quyền.
      
                  

* Chú thích :
   - Phương 方 : là Đúng lúc; đang nhằm lúc.
   - Nhục Thử 溽 暑 : Ẩm thấp nóng nực đến bức rức.
   - Hỏa Hạ 火 夏 : chỉ Nắng của mùa hè nóng như lửa, ta gọi là Lửa Hạ.
   - Chưởng Trung Vật 掌 中 物 : Đồ trong lòng bàn tay, ở đây chỉ Cây quạt.
   - Tham 參 : là Tham gia, là Can dự vào.

* Nghĩa bài thơ :
                            Đề Thơ Lên Quạt
        Lầu phía nam đang lúc nóng như thiêu như đốt, lửa hạ nóng nực làm cho người ta có cảm giác là ngày dài như năm. Nên lại đâm ra yêu thích cái vật đang cầm trong tay (cây quạt), vì nó có thể can dự vào uy quyền của tạo hóa (Ý nói cây quạt có thể làm cho thời tiết đang nóng nực trở nên mát mẻ!). 

* Diễn Nôm :
                       ĐỀ PHIẾN
                  Lầu nam đang nóng bức,
                  Lửa hạ, ngày như năm.
                  Vật trong tay yêu dấu,
                  Can dự quyền hóa công !
      Lục bát :
                  Lầu nam nóng bức đang khi,
                  Ngày dài lửa hạ khác gì như năm.
                  Yêu thay vật trong tay cầm,
                  Thay quyền tạo hóa xoay vần mát thay !
                                     Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm       

18 . Bài thơ ĐỀ PHIẾN (Kỳ 8) :

       Đây là bài thơ Lục Ngôn Thi duy nhất trong mười bài ĐỀ PHIẾN của nhà vua. Căn cứ theo ý nghĩa của bài thơ, theo tôi thì bài nầy nên lui xuống thứ mười (Kỳ Thập) cho thích ứng với vai trò và công dụng của cây quạt hơn khi gió tây đã bắt đầu phe phẩy !

     題 扇                            ĐỀ PHIẾN
    (其 八)                            (Kỳ bát)
赫 赫 空 中 火 扇,   Hách hách không trung hỏa phiến,
甚 明 君 子 行 宜。   Thậm minh quân tử hành nghi.
折 折 西 風 暑 退,   Chiết chiết tây phong thử thoái,
正 知 君 子 藏 時。   Chính tri quân tử tàng thì !
     
                       

* Chú thích :
    - Hách Hách 赫 赫 : Chữ HÁCH 赫 được ghép bởi 2 bộ XÍCH 赤 là màu đỏ, nên HÁCH HÁCH là Đỏ chói, là rực rỡ, là Hừng hực, là Rõ rệt, là Hiển Hách.
   - Thậm 甚 : là Rất, Thậm Minh 甚 明 là Hiểu rất rõ ràng tường tận.
   - Chiết Chiết 折 折 : ở đây là từ Tượng thanh, có nghĩa Xào Xạc, hây hẩy, hắc hiu. TÂY PHONG 西 風 là gió từ hướng Tây thổi đến, là gió của mùa thu.
   - Tàng 藏 : là Cất, giấu. TÀNG THÌ 藏 時 là Lúc nên cất giấu lại, từ nầy đối chọi với từ HÀNH NGHI 行 宜 là Lúc nên đem ra dùng ở câu 2. Đối với Sự Vật thì như thế, còn đối Con Người thì HÀNH 行 là lúc hoạt động, như ra thi cử, làm quan, tạo dựng công danh sự nghiệp... Còn TÀNG 藏 là lúc chưa gặp thời, còn ẩn mình hay lúc đã thoái quan về hưu ở ẩn.

* Nghĩa bài thơ : 
                           Đề Thơ Trên Quạt (bài số 8)
       Hừng hực trên không nóng như là đang quạt lửa (chỉ khí hậu nóng bức của mùa hè), thì hiểu rất rõ ràng rằng chính là lúc người quân tử phải đem ra dùng (cây quạt). Đến khi gió tây hây hẩy làm cho cái nóng lui đi (chỉ mùa thu tới), thì biết rằng chính là lúc người quân tử đem cất nó đi. 
       Con người "quân tử" bạc bẽo là thế đó, khi cần thì chìu chuộng đủ điều, ấp yêu hết mức; đến lúc đã không còn cần nữa thì đem cất giấu hay vứt bỏ một bên chẳng thiết ngó ngàng. Đọc bài thơ nầy của ông vua lại làm cho ta nhớ đến 2 câu cuối trong bài Trường Tín Cung của Lưu Phương Bình 劉 方 平《長 信 宮》đời Đường là:

     秋 風 能 再 熱,   Thu phong năng tái nhiệt,
     團 扇 不 辭 勞。   Đoàn phiến bất từ lao !

Có nghĩa :
         Cơn gió thu nếu có thể "nóng trở lại" được, thì cây quạt tròn (bị vứt bỏ) nầy cũng sẽ chẳng từ lao nhọc mà sẽ sẵn sàng quạt mát cho đấng quân vương! Tội nghiệp thay cho số phận của những nàng cung nữ bị bỏ quên trong cung vua lạnh lẽo, khao khát cả những gì bạc bẽo nhất ở trên đời nầy.
        
                

* Diễn Nôm :
                         ĐỀ PHIẾN 
                          (kỳ 8)
                  Hừng hực trên không lửa đốt,
                  Là thời quân tử ấp yêu.
                  Hiu hắt gió tây thôi nóng,
                  Là khi quân tử hết chìu !
     LỤc bát :
                  Không gian hầm hập như thiêu,
                  Là khi quân tử ấp yêu chẳng rời.
                  Gió tây se sắt đến nơi,
                  Cất đi quân tử quên rồi thuở xưa !
                                Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm
                
19 . Bài thơ ĐIỆU ĐỒNG KHÍ :

    悼 同 氣                            ĐIỆU ĐỒNG KHÍ
憶 昔 玉 樓 連 帳 夜,     Ức tích ngọc lâu liên trướng dạ,
淒 涼 今 日 異 存 亡。     Thê lương kim nhật dị tồn vong.
乘 鸞 遊 覓 無 消 息,     Thừa loan du mịch vô tiêu tức,  
望 美 人 兮 天 一 方。  Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương!
      
                
     
* Chú thích :
    - Điệu Đồng Khí 悼 同 氣 : là Truy điệu người cùng chung chí khí.
    - Liên Trướng 連 帳 : LIÊN là Liền nhau, sát cạnh nhau; TRƯỚNG cái màn, cái mùng để ngủ cho muỗi khỏi cắn. LIÊN TRƯỚNG là hai cái mùng giăng sát cạnh nhau.
    - Dị Tồn Vong 異 存 亡 : là Khác biệt giữa còn và mất, giữa sống vả chết.
    - Thừa Loan 乘 鸞 : là Cởi chim loan (bay về cõi tiên giới) chỉ đã chết.
    - Câu "望 美 人 兮 天 一 方 Vọng mỹ nhân hề thiên nhất phương": Có xuất xứ từ bài Tiền Xích Bích Phú 前 赤 壁 賦  của Tô Thức 蘇 軾 (Đông Pha) đời Tống. Ý nói: Nhìn về một phương trời để nhớ đến người đẹp nơi đó. Người Đẹp (Mỹ Nhân) ở đây ám chỉ nhà vua lúc bấy giờ; còn trong bài thơ nầy "người đẹp" chính là "người bạn cùng chung chí khí" với vua Lê Thánh Tông.

* Nghĩa bài thơ :
              Truy Điệu Người Cùng Chung Chí Khí.
       Nhớ lúc xưa trên lầu ngọc, hai ta cùng ngủ sát liền mùng với nhau (để cùng tâm sự). Còn hôm nay thì lạnh lẽo làm sao khi đã khác biệt giữa người còn kẻ mất. Bạn đã cởi chim loan bay đi tìm nơi dạo chơi không còn biết được tin tức gì nữa cả. Ta chỉ còn có nước ngóng trông về một phương trời để nhớ về bạn mà thôi !
      Đọc bài thơ nầy làm cho ta nhớ đến bài hát nói "Vịnh Tiền Xích Bích" của cụ Nguyễn Công Trứ với các câu như:

              ... Ông Tô Tử qua chơi Xích Bích,
                  Một con thuyền với một túi thơ
                  Gió hiu hiu mặt nước như tờ
                  Trăng chếch chếch đầu non mới ló
                  Thuyền một lá xông ngang gành bạch lộ
                  Buông chèo hoa len lỏi chốn sơn cương
                  Ca rằng:
                  Quế trạo hề lan tương 桂 棹 兮 蘭 槳,
                  Kích không minh hề tố lưu quang 
                    擊 空 明 兮 溯 流 光
                  Diếu diếu hề dư hoài 渺 渺 兮 予 懷,
                  Vọng Mỹ Nhân Hề Thiên Nhất Phương 
                   望 美 人 兮 天 一 方。
                  Người ỷ ca réo rắt khúc cung thương
                  Tiếng tiêu lẫn tiếng ca vang đáy nước...
             
        

* Diễn Nôm :

                          ĐIỆU ĐỒNG KHÍ

                  Nhớ xưa lầu ngọc sát mùng đôi,
                  Lạnh lẽo giờ đây sống chết rồi.
                  Biệt tích cởi loan chơi xứ lạ,
                  Riêng ta nhớ bạn ngắm phương trời !
     Lục bát :
                  Nhớ xưa lầu ngọc liền màn,
                  Hôm nay sống thác vô vàn thê lương 
                  Cởi loan biệt tích ngàn phương,
                  Góc trời lặng ngắm đoạn trường riêng ta!
                                      Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm 

20. Bài thơ ĐỈNH HỒ :

   鼎 湖                         ĐỈNH HỒ 
鑄 鼎 湖 邊 日,    Chú đỉnh hồ biên nhật,
雲 煙 秀 氣 鍾。    Vân yên tú khí chung.
乘 龍 仙 去 遠,    Thừa long tiên khứ viễn,
水 上 碧 溶 溶。    Thủy thượng bích dung dung.
        
                           

* Chú thích :
    - Đỉnh Hồ 鼎 湖 : Tên hồ nằm ở thành phố Bảo Linh, tỉnh Hà Nam Trung Hoa. Theo truyền thuyết Hiên Viên Huỳnh Đế 軒 轅 黃 帝 đã khai quật mỏ đồng ở trên núi Thủ Sơn và dùng nước của Đỉnh Hồ để đúc đỉnh đồng ở dưới chân núi Kinh Sơn. Đỉnh đúc xong thì vua băng, cởi rồng mà lên tiên. Hiện còn khu di tích lịch sử và là điểm du lịch nóng ở nơi nầy.
    - Chú 鑄 : là Hun đúc, trui rèn.
    - Tú Khí 秀 氣 : chỉ khí chất đẹp đẽ hùng vĩ của núi sông. TÚ KHÍ cũng dùng để chỉ cái dáng vẻ đẹp đẽ thanh thoát của con người, nhất là dùng để chỉ các cô thiếu nữ mới lớn.
    - Chung 鍾 :là Tập trung, gom góp lại.
    - Bích Dung Dung 碧 溶 溶 : BÍCH là màu xanh biếc; DUNG 溶 có ba chấm thủy 氵 là Tan Chảy như DUNG DỊCH 溶 液. DUNH DUNG đi liền nhau là Hình Dung Từ chỉ "thế nước tuôn chảy mênh mông". 

* Nghĩa bài thơ :
                             ĐỈNH HỒ 
        Cái ngày đúc đỉnh ở bên bờ hồ, thì mây khói khí chất đẹp đẽ hùng vĩ của núi sông như cũng được gom góp đúc kết lại. Nay thì người đúc đỉnh đã cởi rồng lên tiên về nơi xa rồi, nhưng mặt hồ nước vẫn còn mênh mông xanh biếc!

* Diễn Nôm :
                       ĐỈNH HỒ

                  Ngày bờ hồ đúc đỉnh,
                  Khí thiêng sông núi gom.
                  Cởi rồng tiên xa khuất,
                  Nước hồ mãi xanh om !
      Lục bát :
                  Ngày nao đúc đỉnh bờ hồ,
                  Khí thiêng sông núi chực chờ khói mây.
                  Cởi rồng tiên đã xa bay,
                  Mặt hồ nước biếc vẫn đầy mênh mông.
                                Đỗ Chiêu Đức diễn Nôm

                     


      Hẹn bài viết tới :
                    Thơ vua LÊ THÁNH TÔNG (5)

                                        杜 紹 德
                                     Đỗ Chiêu Đức







Không có nhận xét nào: