Hỡi ôi!
Rét mướt trời Đông – Tái tê
gió buốt.
Mùa Giáng Sinh đến giữa đất
trời - Tết Dương Lịch rộn trong tâm thức (1).
Nhớ thời trai tráng, chốn
Thuận Hóa bút nghiên, dạ cứ bồi hồi – Nghĩ thuở học trò, đất Sài Gòn đơn thư
(2), lòng luôn bứt rứt.
Nhớ xưa,
Đất Cố Đô – Viện Hán Học.
Mùa đông 59 mở trường – Mùa
hè 65 đóng lớp.
Tổng thống Ngô Đình Diệm, vì lưu
luyến với vốn xưa, sắc lệnh duyệt ký để
mở trường – Bộ trưởng Nguyễn Văn Trường, do thực dụng theo ý riêng, nghị định giải
tán cho xong việc.
Viện lập ra: mong giảng huấn
luân thường – Chuyện đem dạy: ước duy trì đạo đức.
Nơi thi tuyển chọn: mở ra hai
(3)– Chỗ học tập trung: gom về một.
Di Luân Đường: nhà cổ vẻ
nghiêm – Nội Vụ Phủ: cây cao bóng rợp.
Khốn nỗi! Phải di dời đổi chỗ
chửa bao lâu – May thay! Sớm ổn định tạo
nề trong mấy chốc.
(Khai giảng niên khóa 1961-1962 tại Nội Vụ Phủ)
Đẹp biết bao! Lầu Viễn Đệ: sinh
viên tấp nập, sáng tới, chiều về – Khó hiểu lắm! Dòng Phủ Cam: thủy sắc trớ
trêu, mưa trong, nắng đục.
(Lầu Viễn Đệ)
(Lầu Viễn Đệ)
Khen người khéo dựng bảng sơ
đồ - Phục kẻ rành lên khung tổ chức.
Nọ nhóm nghiên cứu đông y –
Này ban sưu tầm dịch thuật.
Nắm quản lý do thầy Nguyện (4)
rồi thầy Điền (4) – Xếp học hành bởi thầy Hương (5) tiếp thầy Dật (5).
Khăn đóng áo dài, ngồi xích
lô đến lớp, các cụ khoa bảng tiếng tăm – Com-lê cà-vạt, trưng giáo án giảng bài,
những thầy cấp bằng xuất sắc.
Lớp này giảng Bắc sử, Thi
kinh – Lớp kia bình Trung Dung, Đại học.
Khóa trước dành hai năm:
chuyên cần quan thoại ê a (6) – Khóa sau để cả buổi: phân tích cổ văn rành
mạch.
Nhờ thế, nên:
Hè 64, tốt nghiệp vài mươi –
Hè 65 ra trường mấy chục.
Vốn tiếng Pháp: viết thạo,
đọc thông – Tài tiếng Anh: nói rành, hiểu tốt.
Ai cũng Tống Phú biết qua – Thảy
đều Đường Thi làm được.
Hiếu hỉ đối trướng thuộc loại
uyên thâm – Xướng họa thơ văn cũng hàng lỗi lạc.
Giáo dục vào nghề, không sư
phạm vẫn dạy tốt học trò (7) – Quản lý giao quyền, chẳng chuyên môn cũng làm
tròn sổ sách (8).
Những tưởng: cứ thế mà đào
tạo thanh niên nên người giỏi. kẻ tài – Đâu ngờ: tự dưng lại đoạn khóa sinh
viên để sông trôi, chợ lạc.
Bây giờ, môn sinh:
Đủ đất sinh nhai - Khắp trời
phiêu dạt.
Đốt hương lòng tưởng niệm anh
linh – Viết văn tế thiết trần nghi thức.
Vái xin chư thánh với lòng
thành – Cầu mong liệt hiền trong tình thật.
Tuy nương dâu biển cả, vẫn
luôn phò đạo lý vững bền – Dù vật đổi sao dời, cứ mãi hộ giang sơn thống nhất.
Chốn dương gian, chúc sức
khỏe: Thầy còn – Nơi âm giới, cầu thảnh thơi: Thầy mất.
Đồng môn ơi! Đất Mỹ trời Âu –
Thân bằng hỡi! Miền Nam
miền Bắc.
Cuộc chiến tranh: nhiều kẻ phải
điêu linh – Lòng thành khẩn: liệt hồn mong siêu thoát.
Oái oăm thay! Tháng năm qua, tai
họa rập rình – Kỳ diệu nhỉ! May mắn gặp, số phần sống sót.
Vậy nên: từ muôn nơi, đốt dậy
nén tâm hương – Thế thì: dành một phút, tưởng về Viện Hán Học.
Cẩn cáo
Hoàng Đằng(khóa II - 1960 – 1965)
09/9/2014
--------------------------------------------------------------------------------
(1)
Ngày thi tuyển
khóa I là ngày 25/12/1959.
(2)
Phái đoàn đại
diện sinh viên viện Hán Học do Lý Văn Nghiên làm Trưởng đoàn đi đòi quyền lợi ở
bộ Văn Hóa Giáo Dục tại Sài Gòn hè 1965.
(3)
Từ năm 1960,
thi tuyển sinh ở 2 nơi: Sài Gòn và Huế.
(4)
Thầy Võ Như
Nguyện làm Chủ Sự 1959 – 1964; thầy Trần Điền làm Q. Giám Đốc 1964 – 1965.
(5)
Thầy Phan Văn
Dật làm Giám Học 1959 – 1964; thầy Phạm Ngọc Hương làm Giám Học 1964 – 1965.
(6)
Chỉ học quan
thoại ở 2 năm cuối: năm IV và năm V
(7)
Hầu hết số
sinh viên tốt nghiệp đều được bổ dụng giáo sư trung học chính ngạch từ năm học
1966 – 1967.
(8)
Một số sinh
viên tốt nghiệp, sau vài năm đứng lớp, được đề bạt làm giám học, hiệu trưởng
hoặc giữ chân lãnh đạo ở một số sở Học Chánh cấp tỉnh.
Địa điểm thứ nhất của Viện Hán Học:
Di Luân Đường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét