Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

Khi Thằng Du Kích Trả Thù - Phần II - Thuyên Huy

2
    Cây Phượng già nua đứng trơ vơ, như bóng ma mảnh khảnh trong cái bồn binh giữa khoảng đất rộng, trước sân chợ xã, dưới ánh trăng lờ mờ cuối đêm, đong đưa mươi cánh hoa đỏ bầm cuối mùa theo chiều gió đầu ngày rung rẩy. Cũng như mọi năm, một lần nữa, thầy tư Biên thức dậy thật sớm, qua tiệm ông ba Lý uống lẹ ly cà phê sữa nóng, để còn kịp đi một vòng sở, từ ngoài quốc lộ cho tới trong sâu, làm dấu số cây hư cần phải cắt bỏ, cho văn phòng biết, trước khi công nhân có mặt vì sắp tới ngày phát đồ đạc trợ cấp cho công nhân nay mai. Đâu đó trong rừng dăm ba tiếng dế kéo dài mệt mỏi chờ sáng, trời vẫn còn âm u lành lạnh, khu nhà ở của công nhân vắng im rờn rợn. Thầy tư Biên kéo cao cổ áo lên, nhấn ga chạy tiếp vào rừng phía trong sâu. Tiếng máy Honda nổ êm êm một nhịp buồn ngủ trên con đường đất mịn thẳng tấp còn ướt đẫm sương đêm.
    Qua khỏi dãy nhà hơn năm sáu cây số, cách chỗ giáp ranh với mấy sở cao su thuộc khu Khiêm Hanh, Dầu Tiếng, một khoảng rừng cây rậm âm u, thêm cỏ tranh cao dầy đặc và dây leo chằng chịt, thầy tư Biên xuống xe Honda, dùng cây đèn pin rọi về phía hàng cây cao su cuối cùng, nằm cách ngăn phía rừng bên đó bằng một con đường mòn nhiều cỏ dại hơn là đất trống. Đếm số cây hư xong, ông chậm rãi trở lại chỗ dựng xe. Trong màn sương mù mờ chập chững tan, gần đó hai ba bóng người, không cầm đèn “khí đá” như công nhân cạo mủ thường có, lố nhố đứng chờ. Vừa đến gần, nhận ra họ chừng mười sáu mười bảy, trên tay cầm súng tiểu liên, không rõ loại gì, chỉa về phía mình, thầy tư chưa kịp hỏi gì, thì một trong mấy tên này quát to bảo ông đứng im. Ba tên tiến lại sát bên, tên quát to lúc nãy kê súng nhắm vào ngực thầy tư, hai tên kia lôi trong túi xách vải ra sợi dây thừng dài, kéo tay ông tréo ngược ra phía sau, hì hục trói chặt lại rồi dẫn ông đi theo đường mòn, qua bên kia rừng. Mặt trời ửng lên phía ngoài xa, nhưng nắng chưa đủ sức sáng xuyên qua những tàn lá dầy đặc. Hơi sương tiếp tục xuống, phủ kín chiếc xe Honda nằm trơ trọi bên gốc cây cao su già gần đường, quanh quẩn đâu đó không còn nghe tiếng dế.
    Ba tên du kích đẩy thầy tư ngồi bệt xuống trên miếng đất trống khá rộng giữa khu rừng. Một tên bỏ đi, hai tên còn lại chỉa súng canh chừng. Không lâu sau, xuất hiện một nhóm bốn năm tên, cũng với súng và lựu đạn, dẫn từng tốp hai ba chục người công nhân cạo mủ từ sở của thầy tư, của thầy bảy Quanh và sở phía bên Khiêm Hanh đến. Trời bắt đầu có chút  nắng ấm, đám công nhân hơn một trăm người, bị bọn này ra lệnh ngồi xuống, xếp thành ba bốn hàng ngang, cách chỗ ông độ năm sáu thước, mấy tên du kích chia ra, đứng ghìm súng phía trước hàng người ngồi và sau lưng. Thấy thầy tư bị trói, đám công nhân ồn ào, xì xầm bàn tán nhưng không ai dám nhúc nhích khỏi hàng.


    Từ một góc rừng không xa, tên du kích bỏ đi lúc nãy, giờ trở lại với một tên xem ra lớn tuổi hơn, mặt bịt khăn rằn đen che kín miệng mũi, mang súng ngắn, đeo túi xách vải và trên tay cầm cuốn tập giấy học trò cũ. Một lần nữa đám công nhân nhốn nháo lên, mấy tên du kích phía trước giơ mũi súng về hướng họ, bậm trợn hăm dọa. Tên bịt khăn tiến tới trước mặt thầy tư, bảo tên đi theo đứng lùi sau lưng vài bước rồi nói lớn cho mọi người biết, hôm nay là ngày tòa án nhân dân của “chính quyền cách mạng” xử tôi ông Biên. Hắn mở cuốn tập ra, đọc bản án kể đủ thứ tội của thầy tư, “ông Biên là tên cường hào ác bá, là tay sai của thực dân Pháp và bọn Mỹ Ngụy, bốc lột công nhân, hà hiếp người nghèo khổ, ăn chận ăn bớt đồ đạc để làm của riêng mình, do đó sau khi xem xét, nhân danh nhân dân, tòa án quyết định xử tử”. Đọc xong, tên này hất hàm lớn tiếng bảo đám công nhân phát biểu, trước khi thi hành án lệnh, thầy tư vẫn ngồi yên, điềm tỉnh và thản nhiên. Mấy anh cai đưa mắt nhìn nhau, dường như muốn ra dấu gì đó. Tên bịt khăn, bước tới gần thầy tư, rút cây súng ngắn ra, bảo hai tên đứng bên, kéo ông đứng dậy, rồi dõng dạc lên tiếng, trước khi mở cái khăn khỏi mặt:
-Bây giờ mấy người sẽ biết tui là ai.
-Thằng Trắng!
Đám công nhân hơn trăm người kinh ngạc, cùng thốt lên một lượt. Trắng nhìn vào mặt thầy tư cười, một cái cười thỏa mản:
-Tui nói rồi, hôm nay là ngày ông đền tội.
    Mấy tên còn lại, mãi mê nhìn Trắng ra oai với thầy tư quên mất chuyện canh chừng. Không ai bảo ai, một trăm mấy công nhân cùng đứng vụt lên, vừa đồng thanh la to hai chữ “phản đối”, vừa ùa túa ra xúm lại bao vây đám du kích năm sáu tên cứng ngắt. Trắng không kịp làm gì khác hơn, giơ cây súng ngắn bắn đại hai ba phát lên trời rồi cùng bọn còn lại la hét, cố chống cố đở, mở vòng vây chạy đi, đám đông công nhân tiếp tục đuổi sát theo tới bìa rừng rậm, một số người đứng ở đó nhìn theo chữi rủa, một số khác quay lại chỗ thầy tư, ông nằm nghiêng dưới đất, mình ướt đẩm mồ hôi và hơi sương. Mấy anh cai, phụ nhau cắt dây mở trói, rồi dìu ông về tới phía sở cao su bên này. Chiếc xe Honda cũng còn ở đó, nhưng giờ xem ra có chút màu sắc lóng lánh, dưới ánh nắng của trời sắp vào giữa trưa.
    Một đêm mưa dầm, vài ngày hôm sau, quá giữa khuya, súng nhỏ súng lớn nổ liên hồi, át cả tiếng mưa, nghe văng vằng từ phía rừng cao su trong xa vọng ra suốt đêm, gần tới sáng mới im bặt hẳn. Sáng sớm, chợ bắt đầu nhóm, mấy chục người lính Địa Phương Quân và Nghĩa Quân xã, áo quần ướt đẩm nước mưa, đứng lố nhố quanh hai cái xác chết, để nằm trên tấm tấm vải ni-lông màu “cứt ngựa”, có khăn rằn che mặt, dưới gốc cây Phượng già thân nhánh khẳng khiu không còn bao nhiêu lá.  Mấy bà bán hàng bảo nhau đó là hai tên du kích Việt Cộng, bị bắn ở khu nhà Tây Cầu Khởi, trong cuộc hành quân đêm qua của lính mình.  Mặt trời ửng đỏ lên ở phía bên kia sông Vàm, chợ bắt đầu có nắng sáng. Đám công nhân cạo mủ, chưa được phép vào rừng, tụm lại dựng xe đạp vây quanh nhìn. Một anh cúi xuống mở cái khăn ra xem, người đứng chung quanh, ai nấy nhìn xuống đều buột miệng cùng một lúc:
-Thằng Trắng!

Thuyên Huy

   

Không có nhận xét nào: