HOÀNG HẠC LÂU với Cụ NGUYỄN DU và
Cụ PHAN THANH GIẢN
................................
HOÀNG HẠC LÂU
Đối với các thi sĩ Việt Nam ...
Năm Quý Dậu (1813) Khi NGUYỄN DU được thăng Cần Chánh điện Đại Học Sĩ và được cử làm chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi sứ về, được thăng Hữu Tham Tri bộ Lễ (hàm Tam phẩm). Chính thời gian đi sứ sang nhà Thanh nầy, khi đi ngang qua lầu Hoàng Hạc Nguyễn Du cũng không bỏ lở cơ hội ghé qua ngôi lầu nổi tiếng cổ kim nầy, và cũng chính vì thế mà ta lại được đọc thêm một bài thơ vịnh Hoàng Hạc Lâu bất hũ sau đây :
黃鶴樓 Hoàng Hạc lâu
阮攸 Nguyễn Du
何處神仙經紀時 ? Hà xứ thần tiên kinh kỉ thì ?
猶留仙跡此江楣 . Do lưu tiên tích thử giang mi.
今來古往盧生夢, Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng,
鶴去樓空崔顥詩 . Hạc khứ lầu không Thôi Hiệu thi.
軒外煙波空渺渺, Hiên ngoại yên ba không miểu miểu,
眼中草樹尚依依 . Nhãn trung thảo thụ thượng y y.
衷情無限凴誰訴 ? Trung tình vô hạn bằng thùy tố?
明月清風也不知 ! Minh nguyệt thanh phong dã bất tri!
CHÚ THÍCH :
1. KINH KỶ 經紀 : là Kinh Doanh, tính toán làm ăn, buôn bán. Ví dụ: KINH KỶ NHÂN 經紀人 : Người Kinh Doanh. KINH KỶ GIA 經紀家 : là Nhà Kinh Doanh. Từ KINH KỶ trong câu thơ chỉ Hoàng Hạc Lâu từng là nơi kinh doanh buôn bán rượu được tiên giúp đỡ theo các truyền thuyết sau đây :
1. KINH KỶ 經紀 : là Kinh Doanh, tính toán làm ăn, buôn bán. Ví dụ: KINH KỶ NHÂN 經紀人 : Người Kinh Doanh. KINH KỶ GIA 經紀家 : là Nhà Kinh Doanh. Từ KINH KỶ trong câu thơ chỉ Hoàng Hạc Lâu từng là nơi kinh doanh buôn bán rượu được tiên giúp đỡ theo các truyền thuyết sau đây :
Có ba truyền thuyết về Hoàng Hạc Lâu như sau :
A . Theo "Nam Tề thư Châu Quận Chí": Thời cổ đại, có tiên ông Hoàng Tử An thường cởi hạc vàng bay ngang qua lầu nầy, nên mới lấy tên là HOÀNG HẠC LÂU.
B. Theo sách "Đồ Kinh": Xưa Phí Vĩ lên tiên, thường cỡi hạc vàng nghỉ ngơi ở lầu nầy, nên có tên là HOÀNG HẠC LÂU. Nhưng...
Theo sách "Thái Bình Hoàn Vũ Kí" thì ghi rằng: Người nước Thục là Phí Văn Vĩ tu thành tiên, thường cỡi hạc vàng và nghỉ ngơi ở lầu nầy, nên mới đặt tên lầu là "HOÀNG HẠC LÂU."
C. Theo "Báo Ứng Lục": Dòng họ Tân Thị mở quán bán rượu. Một hôm, có một đạo sĩ tướng mạo khôi ngô, nhưng áo quần lam lũ, đến hỏi một cách thẳng thắng rằng : "Có thể cho bần đạo uống chịu được không", Tân Thị ưng thuận. Đạo sĩ uống bằng ly lớn và uống rất nhiều. Cứ thế, kéo dài nửa năm, Tân Thị vẫn thản nhiên không lộ vẻ khó chịu. Một hôm, đạo sĩ nói với Tân Thị rằng: "Thiếu nhiều tiền rượu quá, không gì đền đáp!" bèn lấy miếng vỏ quít trên bàn vẽ hình một con hạc lên vách, vì vẽ bằng vỏ quít nên con hạc có màu vàng. Điều thần kì là hễ Tân Thị vỗ tay thì hạc từ trên vách bay xuống múa may chào khách theo đúng âm luật nhịp nhàng, nên khách đến uống rượu rất đông. Ròng rã suốt mười năm trường, Tân Thị đã giàu có ức vạn. Một hôm, đạo sĩ trở lại, Tân Thị tiếp đón vô cùng niềm nở, tỏ ý sẽ thỏa mãn mọi yêu cầu của đạo sĩ. Đạo sĩ chỉ cười, lấy trong tay áo ra một ống sáo, thổi lên mấy hồi réo rắc. Bỗng thấy mây trắng từ trên cao bay xuống và hạc vàng cũng từ trong vách bay ra. Đạo sĩ cưỡi hạc cưỡi mây mà bay đi mất dạng. Vì vậy mà Tân Thị mới dùng tiền kiếm được xây quán thành lầu và đặt tên là "HOÀNG HẠC LÂU" từ đó. Nên...
Câu thơ số 1 "Hà xứ thần tiên kinh kỉ thì?" có nghĩa: Nơi đâu là nơi mà có lúc thần tiên đã (giúp đỡ cho việc) kinh doanh buôn bán?
2. TIÊN TÍCH 仙跡 : Vết tích của Thần Tiên. GIANG MY 江楣 : là Cửa Sông, Ngã Ba Sông. Nên câu 2 "Do lưu tiên tích thử giang mi" có nghĩa...
...Còn lưu lại dấu vết của thần tiên ở cửa sông nầy!
3. LƯ SINH MỘNG 盧生夢 : Giấc mộng của Lư Sinh, còn gọi là Giấc mộng Hoàng Lương hay là Giấc Kê Vàng. Theo tích: Lư Sinh người đất Hàm Đan, thi rớt, gặp một đạo sĩ họ Lã (Lữ) trong quán rượu, chuyện trò rất tâm đắc. Sinh than thở cho cuộc đời bất đắc chí của mình, đạo sĩ cười, lấy một chiếc gối bằng sành đưa cho Lư Sinh, bảo chàng gối đầu lên đó mà ngủ một giấc sẽ được toại nguyện. Lư Sinh bèn làm theo lời đạo sĩ, lúc đó, chủ quán vừa bắt nồi hoàng lương (hạt kê màu vàng như hạt bắp) lên nấu....
Lư Sinh mộng thấy mình trở về quê, cưới được con gái nhà giàu là Thôi Thị làm vợ, sống cuộc đời giàu có. Năm sau, đi thi lại đỗ ngay Tiến Sĩ Hoàng Giáp, được phong Hiệu Thư Lang, làm Huyện Úy của Huyện Vị Nam, sau lại được phong làm Giám Sát Ngự Sử. Cách năm lại qua Thiểm Châu phụ trách công trình thủy lợi, giúp dân khai mở trên 80 dặm kinh đào xuyên qua Thiểm Tây, dân chúng lập bia ghi lại công đức. Mấy năm sau, được triệu về kinh làm Kinh Triệu Doãn, vừa gặp lúc Thổ Phồn làm loạn, Thần Võ Hoàng Đế phong cho làm tướng soái đánh tan 7 vạn quân Phiên, mở mang thêm 900 dặm bờ cõi, được dựng bia đá ghi công. Mấy năm sau được chuyển về kinh, quan phong Ngự Sử Đại Phu, Lại Bộ Thị Lang. Nhưng vì có lời xúc phạm đến Tể Tướng đương triều, nên bị biếm làm Ngự Sử Đoan Châu. Ba năm sau được triệu về kinh làm Trung bộ Thị Lang, bị tước hết binh quyền, lại bị những bạn đồng liêu hãm hại, vu cho cấu kết với các tướng ở biên cương, mưu đồ làm phản, nên cả nhà đều phải lãnh án tru di. Sinh buồn khóc với vợ là Thôi Thị, phải biết trước thì không ra làm quan, định tự vẫn, may nhờ có quới nhân bảo trợ mới khỏi tội chém đầu, cả nhà đều vào đại lao thọ án. Mấy năm sau, Vua biết là bị hàm oan, nên cho phục chức Trung Thư Lệnh, phong Triệu Quốc Công. 5 đứa con trai đều đậu đạt và đăng đàn bái tướng. Con cháu đầy đàn, thông gia đều là những gia đình quyền quí. Ruộng đất vạn khoảnh, gia bộc đầy nhà, vinh hoa phú quí suốt 30 năm trường. Khi già bệnh thì lương y khắp nơi được mời về điều trị, nhưng sinh lão bệnh tử nào ai tránh khỏi, nên cuối cùng cũng nhắm mắt lìa đời...
Đây cũng là lúc Lư Sinh vừa tỉnh mộng, đạo sĩ họ Lữ còn ngồi đó, và nồi kê vàng của chủ quán còn nấu chưa chín để bán cho khách!... Nên, câu 3 "Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng" có nghĩa...
Tất cả những việc từ xưa đến nay cũng giống như là giấc mộng của Lư Sinh mà thôi!
Tất cả những việc từ xưa đến nay cũng giống như là giấc mộng của Lư Sinh mà thôi!
Câu 4. "Hạc khứ lầu không Thôi Hiệu thi" có nghĩa: Hạc đã bay đi rồi, lầu đã trống không rồi, chỉ còn lại có bài thơ của Thôi Hiệu mà thôi.
Câu 5. "Hiên ngoại yên ba không miểu miểu" có nghĩa: Ngoài hiên lầu, khói sóng trên sông vẫn mênh mông bát ngát.
Câu 6. "Nhãn trung thảo thụ thượng y y" có nghĩa: Trong mắt ta, cỏ cây hoa lá như vẫn bịn rịn luyến lưu.
Câu 7. "Trung tình vô hạn bằng thùy tố?" có nghĩa: Nỗi cảm xúc vô vàn ở trong lòng này biết tỏ cùng ai đây?
Câu 8. "Minh nguyệt thanh phong dã bất tri!" có nghĩa: Trăng trong gió mát cũng không biết được nỗi lòng này của ta!
Câu 5. "Hiên ngoại yên ba không miểu miểu" có nghĩa: Ngoài hiên lầu, khói sóng trên sông vẫn mênh mông bát ngát.
Câu 6. "Nhãn trung thảo thụ thượng y y" có nghĩa: Trong mắt ta, cỏ cây hoa lá như vẫn bịn rịn luyến lưu.
Câu 7. "Trung tình vô hạn bằng thùy tố?" có nghĩa: Nỗi cảm xúc vô vàn ở trong lòng này biết tỏ cùng ai đây?
Câu 8. "Minh nguyệt thanh phong dã bất tri!" có nghĩa: Trăng trong gió mát cũng không biết được nỗi lòng này của ta!
DIỄN NÔM:
LẦU HOÀNG HẠC
Nơi nào tiên thánh đã kinh thương,
Lưu dấu cửa sông mấy dặm đường.
Tháng lại ngày qua như giấc mộng,
Hạc bay lầu vắng chỉ thơ vương.
Ngoài hiên bát ngát sông mây khói,
Trước mắt mơ hồ hoa cỏ hương.
Muốn tỏ nỗi lòng ai thấu hiểu?
Trăng thanh gió mát cũng xem thường!
Lục bát :
Nơi nào tiên đã từng qua,
Còn lưu vết tích chưa nhòa cửa sông.
Lư Sinh giấc mộng như không,
Lời thơ Thôi Hiệu mây lồng hạc xa.
Ngoài hiên sóng nước bao la,
Luyến lưu cây cỏ la đà ven sông.
Biết ai bày tỏ nỗi long ?
Trăng thanh gió mát sầu không ai màng !
Đỗ Chiêu Đức
Bài DIỄN NÔM của thi sĩ Thời Tiền chiến QUÁCH TẤN:
Lầu Hoàng Hạc
Nào thuở tiên đi mãi đến giờ ,
Dấu tiên bên bến đứng trơ vơ .
Xưa qua nay lại Lư dồn mộng ,
Hạc khuất lầu không Hạo để thơ .
Thăm thẳm nước mây ngoài vạn dặm ,
Dờn dờn cây cỏ vẫn nghìn xưa .
Nỗi lòng ấp ủ cùng ai tỏ ?
Gió mát trăng trong luống hửng hờ .
(Quách Tấn diễn nôm)
Nào thuở tiên đi mãi đến giờ ,
Dấu tiên bên bến đứng trơ vơ .
Xưa qua nay lại Lư dồn mộng ,
Hạc khuất lầu không Hạo để thơ .
Thăm thẳm nước mây ngoài vạn dặm ,
Dờn dờn cây cỏ vẫn nghìn xưa .
Nỗi lòng ấp ủ cùng ai tỏ ?
Gió mát trăng trong luống hửng hờ .
(Quách Tấn diễn nôm)
Năm 1834, Minh Mạng thứ 15, Cụ PHAN THANH GIẢN được cử đi sứ Trung Quốc. Khi đi ngang qua ngôi lầu nổi tiếng nầy, cũng như tất cả những thi nhân từ ngàn xưa đến nay, ông đã không bỏ lỡ dịp may lên thăm và ngắm ngôi lầu với nhiều huyền thoại nầy, và cũng vì thế mà ta mới có dịp thưởng thức thêm một bài thơ trác tuyệt của ông : ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU sau đây :
Nhật mộ hương quan hà xứ thị 日暮鄉関何處是
Yên ba giang thượng sử nhân SẦU 烟波江上使人愁
mà nhà thơ Tản Đà đã dịch rất xuất sắc là:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!....
Trước tiên là bài DIỄN NÔM của Thầy PHAN HUY VIÊN với bút hiệu CHÂN DIỆN MỤC (Tây Đô Cuồng Sĩ) :
Lên Lầu Hoàng Hạc
Lục Bát:
ĐÍnh kèm theo bài viết nầy là tài liệu về ...
ĐĂNG HOÀNG HẠC LÂU 登黃鶴樓
Phan Thanh Giản 藩清簡
Tích thời hạc dĩ hà niên khứ? 昔時鶴已何年去?
Thiên tải nhân tòng Nam cực lâm. 千載人從南極臨。
Anh vũ châu tiền phương thảo lục, 鸚鵡洲前芳草綠,
Tình Xuyên Các thượng bạch vân thâm. 晴川閣上白雲深。
Bán liêm lạc nhật phù Giang Hán, 半簾落日浮江漢,
Nhất phiến hàn lưu tống cổ câm (kim) 一片寒流送古今。
Mãn mục yên ba chuyển trù trướng, 滿目煙波轉惆悵,
Du du trần mộng thập thu tâm. 悠悠塵夢拾秋心!
Dịch Nghĩa :
Câu 1: Ngày xưa, Hạc đã bay đi mất tự năm nào?
Câu 2: Ngàn năm sau, mới có người từ vùng cực Nam đến đây. (Ngàn năm chỉ là cách nói nhấn, để chỉ rất nhiều năm rồi. Đối với Trung Hoa xưa thì nước ta ở về phía cực Nam. Câu nầy Cụ Phan tự chỉ mình là người đến từ Nước cực Nam, là nước xa tít ở cỏi Nam).
Câu 3: Cỏ non vẫn còn xanh tươi trên cù lao Anh Vũ ở giữa ngã ba sông. Liên hệ câu: Phương thảo thê thê Anh Vũ Châu, trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đời Đường nêu trên).
Câu 4: Mây trắng vẫn còn chập chùng trắng xóa khi ta đứng trên Tình Xuyên Các chữ "Thâm" ở đây không có nghĩa là "sâu" mà là "Đậm", dùng để chỉ màu sắc, mây trắng mà "đậm", là mây "trắng xóa chập chùng." Chữ THÂM ở đây còn dùng để đối với chữ LỤC ở câu trên.
Câu 5: (Vì đứng trong lầu nhìn ra, nên thấy...) Mặt trời lặn như nổi trên sông nước lung linh xuyên qua Nửa Bức Rèm (bán liêm) treo trên lầu.
Câu 6: Một dãy nước chảy âm thầm, lạnh lùng xuyên suốt từ ngàn xưa đến nay.
Câu 7: Mãn mục là "đầy mắt" ở đây có nghĩa là khoảng không gian mênh mông trước mắt. Câu nầy có nghĩa : Khói sóng mênh mông khiến cho lòng xúc đông bồi hồi (trù trướng).
Câu 8: (Nên chi)... Trong (giấc mộng trần thế) cuộc đời mộng ảo nầy cũng chỉ nhặt nhạnh (thập) được lòng hoài cảm trong mùa thu mà thôi! Câu cuối nầy, có thể Cụ PHAN đã chơi chữ đây, vì chữ THU 秋 ở trên, chữ TÂM 心 ở dưới, nếu ghép lại thì ta sẽ có chữ SẦU 愁 Cũng vừa hợp với chủ ý của bài thơ gốc của Thôi Hiệu:
Câu 2: Ngàn năm sau, mới có người từ vùng cực Nam đến đây. (Ngàn năm chỉ là cách nói nhấn, để chỉ rất nhiều năm rồi. Đối với Trung Hoa xưa thì nước ta ở về phía cực Nam. Câu nầy Cụ Phan tự chỉ mình là người đến từ Nước cực Nam, là nước xa tít ở cỏi Nam).
Câu 3: Cỏ non vẫn còn xanh tươi trên cù lao Anh Vũ ở giữa ngã ba sông. Liên hệ câu: Phương thảo thê thê Anh Vũ Châu, trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu đời Đường nêu trên).
Câu 4: Mây trắng vẫn còn chập chùng trắng xóa khi ta đứng trên Tình Xuyên Các chữ "Thâm" ở đây không có nghĩa là "sâu" mà là "Đậm", dùng để chỉ màu sắc, mây trắng mà "đậm", là mây "trắng xóa chập chùng." Chữ THÂM ở đây còn dùng để đối với chữ LỤC ở câu trên.
Câu 5: (Vì đứng trong lầu nhìn ra, nên thấy...) Mặt trời lặn như nổi trên sông nước lung linh xuyên qua Nửa Bức Rèm (bán liêm) treo trên lầu.
Câu 6: Một dãy nước chảy âm thầm, lạnh lùng xuyên suốt từ ngàn xưa đến nay.
Câu 7: Mãn mục là "đầy mắt" ở đây có nghĩa là khoảng không gian mênh mông trước mắt. Câu nầy có nghĩa : Khói sóng mênh mông khiến cho lòng xúc đông bồi hồi (trù trướng).
Câu 8: (Nên chi)... Trong (giấc mộng trần thế) cuộc đời mộng ảo nầy cũng chỉ nhặt nhạnh (thập) được lòng hoài cảm trong mùa thu mà thôi! Câu cuối nầy, có thể Cụ PHAN đã chơi chữ đây, vì chữ THU 秋 ở trên, chữ TÂM 心 ở dưới, nếu ghép lại thì ta sẽ có chữ SẦU 愁 Cũng vừa hợp với chủ ý của bài thơ gốc của Thôi Hiệu:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị 日暮鄉関何處是
Yên ba giang thượng sử nhân SẦU 烟波江上使人愁
mà nhà thơ Tản Đà đã dịch rất xuất sắc là:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!....
Mặc dù không sử dụng vần "LÂU... SẦU" như Thôi Hiệu, nhưng âm hưởng của bài Đăng Hoàng Hạc Lâu của cụ Phan Thanh Giản vẫn tạo nên một nỗi niềm hoài cổ sâu xa man mác với hạc vàng mây trắng, với Anh Vũ Châu, với Tình Xuyên Các: Một kiến trúc được xây dựng nên và được đặt tên do câu thơ bất hủ của Thôi Hiệu "Tình xuyên lịch lịch Hán dương thọ." Bài thơ được kết thúc bằng lối chơi chữ chiết tự tài hoa của cụ Phan để hướng bài thơ về với mối sầu thiên cổ "Du du trần mộng thập thu tâm!" làm ta nhớ đến câu: "Ai đem thu cảnh họa cùng thu tâm!" của Nữ sĩ Tương Phố trong Thi Ca Tiền Chiến...
Bài thơ Đăng Hoàng Hoạc Lâu nầy của cụ PHAN đã được Thầy Trò Cựu học sinh PHAN THANH GIẢN & ĐOÀN THỊ ĐIỂM chúng tôi cùng "xúm nhau" diễn nôm, xem đây như là một hoài niệm, một chút lòng thành của đám hậu sinh tưởng nhớ về vị Tiến Sĩ đầu tiên của đất Nam Kì sinh sau đẻ muộn. Mời tất cả cùng đọc cho vui...
Trước tiên là bài DIỄN NÔM của Thầy PHAN HUY VIÊN với bút hiệu CHÂN DIỆN MỤC (Tây Đô Cuồng Sĩ) :
LÊN LẦU HOÀNG HẠC
Hạc đã bay đi tự thuở nào
Một người Nam muộn đến lầu cao
Bãi xa thơm cỏ xanh xanh mắt
Sông tạnh lầu mây trắng một mầu
Rèm hắt bóng tà vờn trên sóng
Nước buồn trôi lạnh một chiều sâu
Bồi hồi gửi mắt qua sương khói
Đem mộng ngàn năm ủ nỗi sầu
Một người Nam muộn đến lầu cao
Bãi xa thơm cỏ xanh xanh mắt
Sông tạnh lầu mây trắng một mầu
Rèm hắt bóng tà vờn trên sóng
Nước buồn trôi lạnh một chiều sâu
Bồi hồi gửi mắt qua sương khói
Đem mộng ngàn năm ủ nỗi sầu
CDM.
Lên Lầu Hoàng Hạc
Cô Phạm Thảo Nguyên
Chim hạc năm nao đã vút bay
Ngàn sau nam cực tới nơi đây
Cỏ non Anh Vũ xanh xanh ngắt
Lầu vắng lâng lâng trắng những mây
Trời lặn nửa rèm sông Hán rợn
Lạnh trôi một dải tự xưa nay
Bao la khói sóng bồi hồi dạ
Đời mộng lòng thu sầu góp đầy
PTN
Đăng Hoàng Hạc Lâu
Thầy Phạm Khắc Trí
Thuở nào xưa hạc đã cao bay,
Viễn khách trời đưa đẩy đến đây.
Anh Vũ cồn xanh ngàn cỏ biếc,
Tình Xuyên gác trắng một màu mây.
Nửa rèm kim cổ chiều sông lạnh,
Một dải giang hà vạt nắng phai.
Khói sóng mênh mang nao tấc dạ,
Mộng đời lãng đãng nỗi niềm tây.
PKT.
Thầy Phạm Khắc Trí
Thuở nào xưa hạc đã cao bay,
Viễn khách trời đưa đẩy đến đây.
Anh Vũ cồn xanh ngàn cỏ biếc,
Tình Xuyên gác trắng một màu mây.
Nửa rèm kim cổ chiều sông lạnh,
Một dải giang hà vạt nắng phai.
Khói sóng mênh mang nao tấc dạ,
Mộng đời lãng đãng nỗi niềm tây.
PKT.
Lên Lầu Hoàng Hạc
Trầm Vân
Hoàng hạc ngày nao đã vút bay
Hoàng hạc ngày nao đã vút bay
Cực Nam người đến ghé lầu này
Cỏ non Anh Vũ màu xanh mướt
Mây trắng Tình Xuyên gió biếc say
Ác lặn nửa rèm sương lãng đãng
Sông dài một dải nước khoan thai
Sông dài một dải nước khoan thai
Ngập trời khói sóng giăng sầu nhớ
Dằng dặc lòng thu nỗi cảm hoài
Bài thứ hai theo thể Lục Bát :
Trầm Vân
Ngày xưa hoàng hạc cao bay
Cực Nam người đến chốn này ngàn sau
Cỏ non Anh Vũ biếc màu
Tình Xuyên mây trắng bên lầu phiêu du
Nửa rèm ác lặn sương mờ
Sông dài một dải gió thơ thẫn luồn
Mênh mông khói sóng sầu buông
Nhớ quê dằng dặc gieo buồn thu tâm
Thầy Võ Văn Vạn.
Thầy Võ Văn Vạn.
LÊN LẦU HOÀNG HẠC
Song Quang
Song Quang
Hoàng Hạc ngày xưa đã vút bay
Người Nam đến viếng ở nơi nầy
Cỏ non Anh Vũ còn xanh thẩm
Mây trắng Tình Xuyên vẫn chẳng phai
Ác lặn nửa rèm chìm sông vắng
Nước dòng cuộn chảy tự xưa nay
Mênh mông khói sóng hồn giao động
Lối mộng thu tâm cảm kích hoài.
SQ.
LÊN LẦU HOÀNG HẠC
Đỗ Chiêu Đức
Đỗ Chiêu Đức
Ngàn xưa hoàng hạc đã cao bay,
Người đến ngàn sau, viếng chốn nầy
Người đến ngàn sau, viếng chốn nầy
Anh Vũ cỏ non màu vẫn biếc
Tình Xuyên mây trắng sắc chưa phai
Nửa rèm ác lặn chìm như nổi
Một dãi sông dài xưa đến nay
Khói sóng ngập trời nghe cảm khái
Thu tâm dằng dặc mộng trần ai !
Tình Xuyên mây trắng sắc chưa phai
Nửa rèm ác lặn chìm như nổi
Một dãi sông dài xưa đến nay
Khói sóng ngập trời nghe cảm khái
Thu tâm dằng dặc mộng trần ai !
Lục Bát:
Ngàn xưa hoàng hạc cao bay
Ngàn sau người đến bên trời cực Nam
Vũ Châu cỏ vẫn xanh non
Trên Tình Xuyên Các mây còn trắng bông
Nửa rèm ác lặn bên sông
Cổ kim thế sự theo dòng nước trôi
Mênh mông khói sóng tơi bời
Cỏi trần dằng dặc bồi hồi thu tâm!
Ngàn sau người đến bên trời cực Nam
Vũ Châu cỏ vẫn xanh non
Trên Tình Xuyên Các mây còn trắng bông
Nửa rèm ác lặn bên sông
Cổ kim thế sự theo dòng nước trôi
Mênh mông khói sóng tơi bời
Cỏi trần dằng dặc bồi hồi thu tâm!
Đỗ Chiêu Đức
ĐÍnh kèm theo bài viết nầy là tài liệu về ...
晴川阁 TÌNH XUYÊN CÁC
晴川阁是湖北省重点文物保护单位。位于武汉城内汉阳龟山东麓长江边的禹功矶上。晴川阁始建于明代嘉靖年间,其名取自唐代诗人崔颢诗句"晴川历历汉阳树"。有"楚四名楼"之誉。因与对岸黄鹤楼隔江对峙,相映生辉,被称为"三楚胜境"。
TÌNH XUYÊN CÁC là đơn vị trọng điểm bảo vệ những vật phẩm văn hóa. Vị trí nằm ở trên bờ đá Vũ Công Cơ của sông Trường Giang, phía đông của Quy Sơn thuộc địa phận Hán Dương ở trong thành Vũ Hán. Tình Xuyên Các được bắt đầu xây dựng từ năm Gia Tĩnh triều Minh. Tên lầu được đặt theo câu thơ "Tính xuyên lịch lịch Hán Dương thọ" của Thôi Hiệu đời Đường. TXC thuộc một trong bốn lầu các nổi tiếng của đất Sở (Sở tứ danh lâu), vì nằm đối diện với Hoàng Hạc Lâu ở bên kia sông, nên cùng soi rọi làm đẹp cho nhau, được xưng tụng là "tam Sở thắng cảnh" (một trong ba thắng cảnh của đất Sở).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét