Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2015

Phiếm về: Nhàn - Vô - Bất - Không (Đỗ Chiêu Đức)

      Phiềm về: 
                      Nhàn - Vô - Bất - Không
                                    Đỗ Chiêu Đức

          Bài viết nầy cũng là một phiếm luận. Phiếm vì bàn đến những điều mình chỉ hiểu lơ mơ. Hồi nào tới giờ tôi chỉ biết và có khái niệm về Phật Giáo qua văn học mà thôi. Đại khái như: Qua Truyện Kiều với các câu :
                          Cho hay giọt nước cành dương,
                          Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên.

          Hay như :
                          Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
                          Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương

          Hoặc :
                          Sự đời đã tắt lửa lòng,
                          Còn chen vào chốn bụi hồng mà chi?
 
          Hoặc như trong Thơ Mới của Jean Leiba :

                           Phù thế còn nhiều duyên nghiệp quá,
                           Lệ lòng mong cạn chốn am không.
                           Cửa Thiền một đóng duyên trần dứt,
                           Quên hết người quen chốn bụi hồng!


              Nhưng... trước khi phiếm, tôi xin được giải thích các từ đã nêu lên, theo sự hiểu biết của tôi, dĩ nhiên là có sự hỗ thợ của các Từ Điển Trung Việt, Hoa Việt, Từ Hội của Đài Loan...
             1. Về chữ NHÀN:
                        Ngoài chữ NHÀN 嫻 có bộ Nữ, có nghĩa là đẹp một cách văn nhã, hiền thục của phái nữ ra, 2 chữ NHÀN còn lại đều có nghĩa là NHÀN HẠ, RẢNH RANG, KHÔNG BẬN BỊU. Như:
              Nguyệt lai môn hạ NHÀN 閒.  Đây là chữ NHÀN của ngày nay, chữ NHÀN của ngày xưa thì chữ NGUYỆT bên trong được viết xeo xéo nghiêng về phía bên phải tượng trưng cho Bóng trăng chênh chếch trước cửa Ban Đêm, càng gợi ý nhàn tản thảnh thơi hơn.
       Và...
               Mộc tại môn tiền dã thị NHÀN 閑 (Cây ngay trước cửa cũng là NHÀN). Phía trước cửa có một cây cho bóng mát và đón gió muôn phương. Ban Ngày ngồi dưới cây cũng nhàn nhã lắm chứ bộ.

               Một chữ NHÀN 閑 chỉ Ban Ngày, và một chữ NHÀN 閒 chỉ Ban Đêm.

      Thưa quý độc giả,        
                    Trên đây, tôi chỉ giải thích 2 chữ NHÀN theo kiểu Phiếm. Thật sự thì trong tất cả các Từ Điển đã nêu trên, đều giải thích 2 chữ NHÀN trên có nghĩa như nhau, và chúng ta có thể tự do chọn lựa mà xài.

            2. Về 3 từ VÔ, BẤT và KHÔNG:
               Theo nghĩa thông thường, nhưng... chắc cũng không khác bao nhiêu so với ý nghĩa trong Kinh Phật.
            * VÔ 無 là Không có, từ Giản thể của nó là 无. Trái với HỮU là Có, là Trợ từ khi đứng trước Danh từ như Vô Ngã, Vô Thường, Vô Biên....; là Phó từ khi đứng trước Động từ, có nghĩa là Đừng, như Vô Tác Nghiệp, Vô Vi, Vô Luận....

            * BẤT 不 là Không, Phó Từ chỉ sự Phủ Định, theo sau nó thường là một Động từ. Ví dụ: Bất lai Bất khứ, Bất tận Bất tuyệt... Khi đi với chữ THỊ 是 thành BẤT THỊ: Có nghĩa là Không Phải, như: Sắc BẤT THỊ không, Không BẤT THỊ sắc....

           * KHÔNG 空 là Trống không, Hình Dung Từ (Tính Từ) khi đứng trước Danh Từ như: Không Tâm (Lòng trống), Không phòng (Phòng trống), Không Môn là cửa Không là Cửa nhà Phật, Không Không là trống lỏng không có gì hết!  Khi đứng trước Động Từ thì nó trở thành Phó Từ (Trạng Từ). Ví dụ: Không Ngôn là Lời nói suông (Ngôn là Danh từ), Không Ngôn là Không nói lời nào (Ngôn là Động từ). Không Tưởng là nghĩ đến những điều không có thật.

          Ta thấy, ba chữ VÔ, BẤT và KHÔNG nếu đứng trước Động từ đều trở thành PHÓ TỪ (Trạng Từ) và NGHĨA của nó sẽ thay đổi tùy theo Động Từ mà nó bổ nghĩa, cái khó của nó là ở chỗ nầy.... Chỉ có nước là sử dụng thường xuyên mới phân biệt được Nghĩa Lý của nó một cách chính xác mà thôi! Nên....

           3. Theo tôi: Một nhà sư muốn thuyết giảng Phật pháp cho tinh tường, không nhất thiết phải là một nhà Ngôn Ngữ học, nhưng, nếu Kinh Phật bằng chữ Hán cổ, thì ít ra trình độ Hán Văn của nhà sư cũng phải khá, thì mới mong nắm bắt và "ngộ" được những tinh hoa của Phật pháp, và... Không cần phải là một Nhà Sử Học, nhưng cũng phải am tường về Lịch sử. Ví dụ: Nói về Lịch sử TQ thì phải biết sơ về các đời Tần Hán Đường Tống Nguyên Minh Thanh... Về Lịch sử VN thì phải biết qua các đời Ngô, Đinh, Lê (Tiền), Lý, Trần, Lê (Hậu), Nguyễn....
            Đòi hỏi cao quá không ai với tới được, còn thấp quá, trình độ hiểu biết kém quá thì... lấy gì mà giảng?

          4. Bây giờ thì tôi sẽ "phiếm" về câu: "Vô minh thực tánh tức Phật tánh."  Theo tôi thì....

            VÔ MINH: là KHÔNG SÁNG, tức CHƯA ĐƯỢC SOI SÁNG.
            THỰC TÁNH: là Cái Tánh thực sự, nghĩa là cái tánh vốn có của con người khi được sinh ra. Giống như câu "Nhân chi sơ, Tánh bản thiện" của Nho Giáo vậy. Nên câu trên có nghĩa:
            Cái tánh thuần nhất vốn có của con người, khi chưa được giáo hóa hay ảnh hưởng ngoại vi gì, cái tánh THUẦN KHIẾT, TRONG SÁNG đó, tức là PHẬT TÁNH vậy.  Con người ta lớn lên trong gia đình, trong xã hội, nhiễm đủ thứ lục dục thất tình, tham sân si... nên phải TU làm sao cho trở về được với cái tánh Thuần Khiết Trong Sáng của lúc ban đầu thì là Nhập NIẾT BÀN, là thành PHẬT!
             "Vô minh thực tánh tức Phật tánh" hiểu theo nghĩa của từng mặt chữ là như thế, còn nếu có gì huyền vi ở trong nữa thì Đỗ Chiêu Đức chịu thua!
           
                                      Đỗ Chiêu Đức


Không có nhận xét nào: