Đất Cũng Biết Đau
Sau mùa nước lớn, năm thằng Chuẩn chưa
tròn tuổi rưỡi, ba nó bỏ Thới Trị đi, mang theo người, dăm ba bộ quần áo cũ,
vài thứ lặt vặt, trong một sáng mưa tầm mưa tả, mù mờ phủ trắng mấy đám ruộng
một màu bùn lầy lội, không từ giã tiếng nào và không về từ ngày đó. Mẹ và chị
nó, Trâm đã lên ba, khóc ròng rã cả mấy ngày đầu, người quen trong ấp, nhà cách
nhau lưa thưa, khoảng hai ba con đê, thương tâm qua lại, ủi an thăm hỏi, trách
đất trách trời “tại sao anh Tân nở đan
tâm đành lòng như vậy cho được.” Sáng chờ, đêm ngóng, ngày qua ngày riết
rồi cũng đành buông xuôi, đau buồn không xiết nhưng biết làm gì hơn, đêm chong
đèn, ru con ngủ, nước mắt dầm dề giữa màn đêm tối đen, ngoài sân trời nổi gió. Căn
nhà cất ở một xẻo góc, miếng đất không mấy cao, lẻ loi giữa miếng ruộng, nước
lấp xấp hai mùa, vốn xiêu vẹo từ trước, giờ càng thêm xiêu vẹo hơn, tấm liếp
che cửa ghép bằng lá dừa, bắt đầu khô đét và nhiều chỗ hở, gió mặc gió lùa, mưa
mặc mưa hắt, may mà chưa bị ướt vì dột.
Hai vợ chồng,
không bà con thân thích, cũng không nói là sinh quán ở đâu, tuổi trạc dưới hai
mươi, từ miền xa đâu đó, trôi giạt về tới Thới Trị, Mộc Hóa, kiếm kế sinh nhai,
gặp nhau trong một buổi sáng ở chợ xã Thới Trị, đầu mùa gặt, khi chờ theo mấy
người chủ ruộng về nhà, ở tạm, chờ ngày đi cấy lúa sớm cho mấy đám ruộng lớn
chung quanh và trên miệt Nhơn Bình, Nhơn
Ninh của quận Kiến Bình. Họ bẽn lẽn hỏi tên, nhìn nhau làm quen, khi cùng đến
mua mấy củ khoai lang tím tại một sạp bán rau cải nhỏ, món ăn cho bữa cơm giữa
trưa, dưới mái thiếc, chợ xã nóng hâm hấp từ lúc mặt trời chưa lên khỏi hàng
cây bên kia sông. Ngoài đường lộ, chỗ đá chỗ đất lồi lõm, chiếc xe lam chỡ
khách về miệt Bình Hòa Thôn, Tuyên Thạnh không có mấy người chờ, hai người ngồi
đại xuống cái nền xi măng ngay hông chợ, có chút bóng mát, che ngang từ hai ba
cây trứng cá già, mùa này chưa thấy trái, vừa ăn vừa hỏi nhau tiếng mất tiếng
còn rồi họ mến nhau từ đó. Mùa cấy xong, hai người quyết định lấy nhau nhưng chưa
biết tính sẽ ăn ở sao đây. Thấy hai người siêng năng, nói năng nhỏ nhẹ và bà
con trong ấp trong xã ai cũng mến cũng thương, gặp nhau đầu đường làng hay cuối
bờ đê ruộng, ai nấy cũng “một con Bương
hai thằng Tân”, cười cười hỏi ghẹo “chừng
nào có tin vui.” Vợ chồng bác ba Thọ, chủ đất, cho họ mướn miếng ruộng nhỏ,
ở một góc của đám ruộng dư nhà mình, cuối đường đất ra hướng bờ sông lớn
với giá rẽ, để hai vợ chồng cấy cày sinh sống. Tân, tuy có tật chân thấp chân
cao nhưng trông còn khỏe khoắn, cũng may, chính quyền xã ấp, thông cảm, cho tạm
trú đàng hoàng, không làm khó làm dễ. Bà con, người giúp bó tranh, người góp
cột kèo, phụ dựng cái nhà nhỏ vách đất trên khoảnh gò cao chính giữa, tạm cho
hai vợ chồng gọi là nhà sau những năm tháng lầm lũi, lang thang tha phương cầu
thực.
Hai vợ
chồng, chăm chỉ, đầu hôm sớm mai, không ngại nắng mưa, cuốc cày đầu tắt mặt
tối, tạo dựng đời người trong mồ hôi nước mắt. Tân kéo lưới cắm câu, Bương
trồng bầu trồng bí, tay xách tay mang, đem ra chợ xã bán ngày qua ngày lại, ăn
uống tiền tặn, quần áo cũ xì, vui lòng với phần số. Đến mùa cấy, vợ chồng Tân,
không quên qua phụ lo cho xong mấy đám ruộng của vợ chồng bác ba Thọ trước như
những ngày còn đi làm mướn rồi mới về lại miếng ruộng mình, may mà trời
đất còn thương nên, mùa gặt năm đầu cũng
có được số lúa kha khá, hai vợ chồng hì hục, đong đủ số, mang đem trả thay tiền
mướn đất cho vợ chồng bác ba Thọ ngay, trước ngày Tết đến; nhưng hai người không
nhận, bảo đem về cất để dành, vài năm nữa, chừng nào khá hơn thì mới tính
chuyện nợ chuyện nần. Hai vợ chồng cám ơn không biết bao nhiêu mà nói, ngó nhau
mừng muốn rơi nước mắt. Năm sau chị Bương sinh đứa con gái đầu lòng, con Trâm,
tròn trịa và bụ bẫm mặc dù mẹ cha quanh năm cơm khô cá mặn.
Chiến
tranh bắt đầu tăng dần, tiếng đạn đại bác, súng máy, tiếng máy bay gầm gừ trên
trời, tiếng máy tàu tuần trên sông của quân lính VNCH nghe lanh lảnh trong đêm
lạnh. Quân cộng sản từ bên phía biên giới Miên tràn qua Mộc Hóa, đánh nhau từng
trận một, đôi khi kéo dài cả hai ba ngày, không giống như trước đây vài năm,
lâu lâu mới có chuyện du kích Việt cộng kéo về ấp, bắn năm ba tiếng súng lẻ tẻ,
với nghĩa quân xã, nổi lửa đốt chợ đốt nhà, thỉnh thoảng mò ra từ rừng sâu,
truông rạch nào đó gài mìn, đấp mô, chặn xe cộ lại qua vậy thôi. Dân chúng
hoảng hốt, đường xá vắng tanh, ai nấy phập phồng, đêm ít khi ngủ trọn giấc, lính
của xã ấp đi tuần đi canh từng nhóm, không còn thấy đi lác đác một hai người
như trước. Qua mùa gặt năm sau, Bương sinh thêm thằng con trai, thằng Chuẩn,
thêm một miệng ăn nhưng bù lại, cả nhà lúc nào cũng rộn ra rộn rịp tiếng cười
tiếng nói. Hai vợ chồng đổ thêm gần đầy bồ lúa bên hiên nhà sau, đặt cẩn thận
trên cái giàn cây cao, cho đừng bị ngập trong mùa nước lớn và mái che được anh
Tân cặm cụi, đan từng bó tranh dầy, chặc kín. Nhà có thể bị dột nhưng nhứt định
cái bồ lúa phải giữ khô ráo. Vợ chồng bác ba Thọ, có một người con gái một, lại
lấy chồng đi xa, ở tận mãi đâu đó dưới Rạch Sỏi, Rạch Giá nhưng không may, đã
bị chết vì tai nạn xe đò lật, hai ba năm trước, thương Bương như con, nên thấy
hai đứa nhỏ cũng mến tay mến chân, bỏ qua chuyện mướn đất, quyết định cho
không, để hai vợ chồng chị làm của. Những ngày rãnh rỗi, vợ chồng lội bộ, chồng
dắt vợ bồng, hai đứa nhỏ đi dọc theo con đường làng, qua ở chơi với họ cả buổi
trời. Bà con quanh ấp cũng chạy tới chạy lui, hỏi thăm nhau năm lần bảy lượt
mỗi khi nghe tiếng thằng Chuẩn khóc hoài, không nín.
Mùa cấy tới, sau ngày Tân bỏ đi, bác ba
gái mất vì bệnh đứng tim. Một mình còn lại, không còn có người thân nào ở Thới
Trị nữa, sớm hôm ra vào một mình thui thủi, vài tháng sau, bác trai bán lại đám
ruộng, miếng vườn, căn nhà và đàn trâu cho một người quen từ dưới Thuận Nghĩa
Hòa lên, rồi từ giã chòm xóm láng giềng, trở về quê cũ Bạc Liêu, nơi có mồ
mã của đứa con gái và bác gái được chôn tại cái nghĩa địa của giòng họ và có gia
đình người chị lớn đang sinh sống. Miếng ruộng nhà, không còn Tân nữa, Bương
cũng không màng lo tới, nước có lên có xuống cũng mặc đất trời, số lúa trong bồ
ngày cạn dần, nhưng chưa đến nổi đói.
Trong làng giờ, lâu lâu cũng có một vài anh bỏ đi mất biệt, không ai biết đi đâu, hỏi ra thì họ đã tới tuổi đi quân dịch. Những anh còn lại, đã vào lính nghĩa quân xã, tay súng tay gươm giữ làng đuổi địch. Xong mùa gặt, qua Tết, sau ngày quân cộng sản từ biên giới Miên, tràn xuống tấn công xã Thới Trị đông như kiến, đánh nhau, chận đường hành quân của lính sư đoàn 7 VNCH. Nhà cửa trong ấp trúng đạn pháo kích, cháy sụp khá nhiều, đồng ruộng trơ gốc rạ, lưa thưa đâu đó mấy cái hố bom lớn, như vũng trâu nằm, đen màu khói súng còn thấy rõ ràng, Bương quyết định bỏ Thới Trị sau mấy năm dằng dặc đau buồn với “cảnh cũ người đâu”, người chủ mới của đất bác ba Thọ, vui vẻ nhận lời mua lại miếng ruộng còi và tặng thêm Bương một chút tiền, gọi là làm quà cho hai đứa nhỏ.
Trong làng giờ, lâu lâu cũng có một vài anh bỏ đi mất biệt, không ai biết đi đâu, hỏi ra thì họ đã tới tuổi đi quân dịch. Những anh còn lại, đã vào lính nghĩa quân xã, tay súng tay gươm giữ làng đuổi địch. Xong mùa gặt, qua Tết, sau ngày quân cộng sản từ biên giới Miên, tràn xuống tấn công xã Thới Trị đông như kiến, đánh nhau, chận đường hành quân của lính sư đoàn 7 VNCH. Nhà cửa trong ấp trúng đạn pháo kích, cháy sụp khá nhiều, đồng ruộng trơ gốc rạ, lưa thưa đâu đó mấy cái hố bom lớn, như vũng trâu nằm, đen màu khói súng còn thấy rõ ràng, Bương quyết định bỏ Thới Trị sau mấy năm dằng dặc đau buồn với “cảnh cũ người đâu”, người chủ mới của đất bác ba Thọ, vui vẻ nhận lời mua lại miếng ruộng còi và tặng thêm Bương một chút tiền, gọi là làm quà cho hai đứa nhỏ.
Qua người
bạn gái quen cùng đi cấy mướn từ Bến Đá, Tuyên Nhơn, Bương dắt hai đứa nhỏ về ở
tạm tại căn nhà ngói xưa cũ, lup sụp của bà hai Thơm, tuổi ngoài bảy mươi, không
chồng con, tu tại gia, kinh kệ nhang đèn, bên bờ sông, cách chợ Thủ Thừa không
bao xa, có cái cầu cây bắt ra ngoài dòng, ngang đường tàu đò chuyến lên chuyến
về Long An - Mộc Hóa. Thấy tội nghiệp cho tình cảnh mẹ chiếc con côi, bà hai
Thơm, thương tình lo cho hai đứa nhỏ như con cháu ruột, Bương giờ thay cho bà,
làm cái nghề chèo đò đưa đón người bên xóm trong, qua lại đi chợ Thủ Thừa mỗi ngày,
ăn nói dịu dàng, nói cười luôn miệng, tính tình hiền hậu nên lúc nào đò cũng có
đông người lên xuống. Mùa tựu trường năm đó, con Trâm tròn sáu tuổi, Bương mừng
vui đưa con đi học, trường tiểu học nằm sát bên kia hông chợ, không xa bến đò,
ghe xuồng tấp nập, nên cũng tiện việc đón đưa. Chiều không còn mấy người đi,
Bương thả xuồng dọc theo bờ, kéo lưới bắt cá, sau khi đón con Trâm tan trường
về. Con Trâm giờ cũng lăng xăng, biết phụ mẹ đút cơm cho em ăn, nấu cơm rữa
chén, phụ bà bưng nhang bưng đèn, ê a tiếng mất tiếng còn theo nhịp câu kinh lúc
trầm lúc bỗng.
Thỉnh
thoảng, một hai lần, Bương dắt con, đi tàu đò từ Thủ Thừa ra chợ tỉnh Long An,
mua sắm cho con hai ba bộ quần áo mới, mấy thứ lặt vặt cần dùng trong nhà, nếu
không có bán ở chợ này. Bên sông, trước sân, thấy con ngây thơ, chạy nhảy chơi
đùa, dưới nắng chiều thoi thóp xuống từ phía trời xa, Bương thấy lòng mừng vô
hạn, quên cả buồn cho mình. Tân giờ chỉ còn là bóng chim tăm cá, biệt vô âm
tính. Những đêm dài trằn trọc, những ngày tháng đơn côi, nhớ nhung khóc thầm,
đã qua rồi, nguôi ngoai từ lâu và yêu thương dường như cũng đã trở thành nguội
lạnh dù tuổi đời vẫn còn quá trẻ. Năm con Trâm lên lớp ba thì thằng Chuẩn cũng
theo chị đến trường vào lớp năm, Bương mua hai cái cặp đựng tập vở bằng ni
lông, có hình chim cò xanh đỏ, cái mới cho thằng Chuẩn, cái khác thay cho cái
túi đan bằng tre mà con Trâm mang từ ngày mới đi học. Bà hai Thơm, ngày hai
buổi chuông mõ kệ kinh, câu cuối cùng, luôn luôn là câu “cầu xin ơn trên Phật tổ thương tình phù hộ, độ trì cho mẹ con Bương bình
an may mắn”, ngày hai buổi, bà cũng thấy vui lây, cái vui hết sức bình
thường, mà từ lâu rồi bà chưa hề nghĩ tới là mình sẽ có. Hè về, bãi trường,
không phải đưa con đi học, Bương thường chèo xuồng dọc theo hai bên bờ, kéo
lưới bắt cá bắt tôm từ lúc tờ mờ sáng, khi mặt trời chưa lên, rồi mới quay về,
lo cho con, trước khi chèo đò ra bến chợ đón khách.
Mấy hỗm rày, trên miệt Mộc Hóa, ngày
nào cũng có đụng trận lớn giữa hai bên, tiếng súng tiếng bom nghe văng vẳng từ
xa, đôi khi tàu đò lớn từ Long An lên không thấy chạy hai ba hôm. Cũng như
thường ngày, Bương đốt mấy cây nhang cắm trên bàn thờ Phật, xá mấy xá, có tiếng
bà hai Thơm ho khan bên giường trong. Bương kéo cái mền bông đắp ngang hai đứa
nhỏ, còn ngái ngủ, chậm rãi vừa nhìn vừa lấy nón lá đội lên, nhè nhẹ đi ra sân
sau, quàng cái lưới ngang vai, bước nhanh về chỗ cột cái xuồng ngay bờ con rạch
cùn, rồi chầm chậm chèo ra ngã nhánh sông lớn. Trời vẫn còn tối mù, dòng nước
đục màu sương, gió không lớn nhưng có phần lành lạnh. Lưa thưa lác đác bờ bên
kia, hai ba chiếc ghe đi câu đêm về, lững lờ thả xuôi xuống hướng chợ Long An,
bên trong đèn dầu treo lắc lư chưa tắt. Vừa có chút mặt trời hé lên ở phía cuối
ngã ba sông, khỏi khu nhà dân ở khá xa, trời chưa sáng lắm nhưng đã có thể nhìn
thấy được, ở trên dòng, nhiều mảng lục bình lớn và dầy đặc, chậm chậm trôi
thành một hàng dài, xen kẻ nhau trên sóng nước.
Bương
quày xuồng trở lại, quăng cái lưới xuống lần nữa trước khi trở lại nhà, sóng
từng đợt lờ đờ lúc lên lúc xuống, đập nhè nhẹ bên hông xuồng chòng chành, cái
lưới mắc kẹt vào rể đám lục bình lớn đầy bông tím trôi sau cùng. Khi Bương chưa
kịp tắt ngang qua, cái xuồng khựng lại, không nhúc nhích, Bương gát cây dầm lên
phía sau xuồng, loay hoay, vươn người ra, lựa thế ngồi, ráng sức, vừa lắc vừa
kéo cái lưới, nhưng không tài nào gỡ ra. Chị bỏ xuồng, lần mò bước dẫm lên mảng
lục bình, mìn do du kích Việt Cộng gài, từ đêm hôm qua để chận phá tàu hải quân
VNCH từ Long An lên, nổ tung. Nước, bùn và xác lục bình bắn tung tóe lên cao cả
một khoảng sông, xác Bương ngã xuống, nằm chết lấp xấp nửa người theo nhịp sóng
trên cái lưới cá rách nhiều chỗ, bên cạnh cái xuồng lắc lư quanh đó. Ở phía
trên miệt chợ Long An, tiếng máy của đoàn tàu hải quân VNCH, chở quân tiếp viện
cho Mộc Hóa, nghe rõ từ sáng sớm nhưng vẫn chưa chạy đi. Người nhà ở hai bên
bờ, gần chỗ mìn nổ, gọi nhau ơi ới, chèo ghe chèo xuồng chạy ra. Đám lục bình
còn lại, tiếp tục trôi theo dòng lặng lẽ dưới ánh nắng vừa lên trên sông. Người
này kéo cái xuồng, người kia đở xác Bương lên, đem về nhà. Bà hai Thơm ôm hai
đứa nhỏ vừa thức giấc chưa bao lâu, khóc ròng ròng, con Trâm thằng Chuẩn, không
biết gì, cũng sướt mướt khóc theo gọi má hởi má ơi, mấy củ khoai lang nguội vẫn
còn nằm trên cái ghế nhựa nhỏ màu đỏ, bạc màu, ngay đầu giường.
Sau ngày
chôn cất Bương không lâu, từ Thủ Thừa, bà hai Thơm, theo lời mấy bác trong hội
thánh Cao Đài Long An, dẫn con Trâm, thằng Chuẩn, đón xe đò đi Tây Ninh, mang
theo quần áo, giày dép lên cô nhi viện tòa thánh. Sáng sớm, mấy chiếc xe đò về
Tây Ninh, chạy vừa ra tới ngã tư Bảy Hiền thì kẹt, phải ngừng lại cùng với các
xe về Củ Chi, Hậu Nghĩa và xe hàng lớn nhỏ, nối đuôi chờ, vì trên đầu trên,
đoàn GMC chở đầy quân sư đoàn 25 của VNCH, mấy chục chiếc, súng ống đầy trời,
bụi đường áo trận, đang rục rịch, rần rộ di chuyển trước, nhưng rồi lại ngưng,
không ai biết chờ gì, nên họ để cho đám xe đò chờ từ sáng qua trước, tài xế, lơ
xe, hành khách gọi nhau vang rân cả một khoảng đường dài.
Hai chiếc
xe đò lớn về Tây Ninh, chạy nối đuôi nhau trước sau, bị trúng mìn, vì bốn năm
cái mô đất ruộng, cao khoảng tới nửa người, chắn ngang gần hết bề ngang đường,
cùng với mấy khúc thân cây, đầy nhánh lớn, do Việt cộng gài, khi cố lách để qua,
tại khoảng vừa khỏi ấp Đồng Dù, cách Củ Chi khá xa. Tiếng nổ long trời, đất bụi
mù mịt, xe bị hất tung lên cao, bể tan tành thành mấy khúc, rớt xuống bên này
đám ruộng, hơn mấy chục hành khách chết, người còn lại, không thương tích, bơ
phờ hớt hãi nhưng cũng ráng phụ nhau, khiêng xác chết để nằm ngay ngắn, thành
một hàng dài, trong đó có xác con Trâm thằng Chuẩn, dọc theo bên lề đường bám
đầy vết máu. Bà hai Thơm bị thương ở ống chân trái, được một chị gái, áo quần
đầu tóc dính đầy bùn đất, kèm một bên tay, đở bước ráng lê lết lên trên đường,
không nặng lắm nhưng ra nhiều máu, nhăn nhó vì đau, bà cứ luôn miệng hỏi “cháu tôi đâu cháu tôi đâu.” Chị gái dìu
bà tới bên chỗ để xác, bà ngồi quỵ xuống, hai bàn tay già khô đét, run lên
từng chập, rờ tời rờ lui mặt mũi hai đứa nhỏ rồi tức tối, đập từng cái mạnh
dưới đường, nức nở than khóc “trời ơi
trời ơi.” Nước mắt bà tuôn chảy, rớt thành từng giọt dài trên mặt trên môi của
hai đứa bé, mắt nhắm nghiền, chừng như đang nằm yên ngủ. Người còn sống, người
bị thương, kẻ đứng người ngồi, lờ mờ trong màn sương sớm chưa tan, thở dài, lặng
thinh cùng nhìn về phía rừng già xa xa. Ở cuối đường, dưới miệt Củ Chi, tiếng máy
nổ của đoàn quân xa chở lính sư đoàn 25 nghe rõ dần và càng lúc càng gần hơn,
trời vẫn chưa chịu có nắng.
Tân dẫn đầu toán quân du kích Việt cộng,
khoảng vài chục người, sau một đêm đấp mô gài mìn, phục kích, băng đồng ngược lại
hướng khu rừng già rậm rạp và dầy đặc, về tới nơi họ đã xuất quân và chọn làm
chổ an toàn, để chờ rút về mật khu Hố Bò trước khi trời sáng, vì đoàn quân xa
VNCH đã không chạy ngang qua sớm hôm nay, như tin họ có được. Họ xúm ngồi
quanh, lấy thuốc ra đốt hút, người sửa lại súng đạn, người phủi sương ướt trên
áo, Tân chấp tay sau lưng đi qua đi lại, chân thấp chân cao, cây súng lục K54
lủng lẳng bên hông, nhìn về phía ngoài xa đường lộ, không thấy được bóng người. Anh du kích mang túi vải đựng vật dụng cứu thương, hít một hơi thuốc dài rồi
đứng lên, đi theo bên cạnh, nói vừa đủ nghe “hai
chiếc xe đò hư hết, chết vài chục mạng, trong đó có hai đứa nhỏ, một gái một
trai chừng năm sáu tuổi, mất toi mấy trái mìn”, Tân khẻ nhếch miệng, cười
nhạt, vỗ vai anh ta:
-Thôi vậy
cũng tốt, đạt yêu cầu rồi, trước sau gì cũng chết mà.
Thuyên Huy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét