BỔ TÚC MỘT SỐ SỬ LIỆU VỀ CHIẾN THẮNG ĐỐNG ĐA (5 tháng
Giêng Kỷ Dậu, 1789):
-Vua Quang Trung đã áp dụng chiến thuật gì để chiến
thắng trận Ngọc Hồi: dùng những bó rơm cuốn tròn lăn đi trước hay dùng những
tấm ván để đỡ đạn?
-Tại sao Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên (quyển 30) và
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (quyển 27) ghi chép khác nhau?
-Sử nhà Thanh và sử nhà Nguyễn: bên nào chính xác hơn?
(Bài của GS Nguyễn Lý-Tưởng)
Hình ảnh
vị anh hùng áo vải đất Tây Sơn đã đi vào sử sách như là một thiên tài quân sự.
Cứ mỗi lần Tết đến, chúng ta lại có dịp nhắc đến chiến công oai hùng của vua
Quang Trung qua trận chiến thắng Đống Đa ngày mùng 5 Tết Kỷ Dậu (30-01-1789).
Hôm nay, chào đón Xuân về, chúng tôi xin cống hiến quý vị bài nghiên cứu sau đây
dưới nhãn quan của một người nghiên cứu sử học, căn cứ vào những sử liệu hiện
có, với tinh thần khoa học, gạt ra ngoài những yếu tố tình cảm hay định kiến.
1. Hoàn cảnh lịch sử: Tây Sơn khởi nghĩa ở Quy Nhơn,
Tây Sơn hòa với Trịnh để rảnh tay diệt
Nguyễn ở Gia Định, Nguyễn Hữu Chỉnh vào Quy Nhơn dẫn đường cho Tây Sơn chiếm
Phú Xuân rồi thẳng ra Thăng Long phò Lê diệt Trịnh...
Nguyễn
Nhạc khởi nghĩa ở Tây Sơn năm 1772, chiếm được Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Quảng Nam
và trên đường tiến ra kinh đô Phú Xuân của chúa Nguyễn. Cuối năm Giáp Ngọ (đầu
năm 1775), tướng Trịnh là Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào chiếm Thuận Hóa, chúa
Nguyễn Phúc Thuần đem vợ, con gái và người cháu là Nguyễn Phúc Ánh chạy vào Gia
Định, để người con của Thế tử Hiệu là Nguyễn Phúc Dương ở lại Đà Nẵng... Tây Sơn
hòa với Trịnh và đem quân đánh chúa Nguyễn ở Gia Định.
Năm Mậu
Tuất (1778), chúa Nguyễn bị Tây Sơn giết ở Gia Định. Tại Quy NHơn, Nguyễn Nhạc
tự lập làm vua niên hiệu Thái Đức. Tại Bắc Hà, chúa Trịnh Sâm mất, các quan
chia làm hai phe: phe ủng hộ Trịnh Tông, con trưởng Trịnh Sâm và phe ủng hộ
Trịnh Cán, con của Đặng Thị Huệ lên ngôi chúa. Lính Tam Phủ (thường gọi là Kiêu
binh) nổi loạn, lật đổ Trịnh Cán, giết Hoàng Đình Bảo, người đứng đầu phe Đặng
Thị Huệ, rồi đưa Trịnh Tông lên ngôi... Nguyễn Hữu Chỉnh là đàn em của Hoàng Đình
Bảo chạy vào Quy Nhơn báo cáo tình hình Bắc Hà cho Nguyễn Nhạc biết và dẫn đường
cho quân Tây Sơn tiến ra Bắc đánh quân Trịnh.
Nguyễn
Nhạc cho em là Nguyễn Huệ đem quân đánh lấy Phú Xuân và thừa thắng, kéo quân
thẳng ra chiếm Thăng Long lấy danh nghĩa “phò Lê, diệt Trịnh”. Vua Lê gả con
gái là Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ để cậy nhờ thế lực của Tây Sơn, giữ ngai vàng.
Nguyễn Nhạc nghe tin Nguyễn Huệ ra Bắc liền đuổi theo Nguyễn Huệ, khuyên em nên
trả nước lại cho vua Lê, rồi kéo quân về.
Quân Tây
Sơn trở về Phú Xuân đem theo 60 thuyền của cải mà họ vơ vét được trong kho tàng
của vua Lê, chúa Trịnh. Nguyễn Huệ nắm quyền chủ động trong việc phân chia
chiến lợi phẩm nầy. Nguyễn Nhạc trở về Quy Nhơn bắt giam vợ con Nguyễn Huệ
không cho ra Phú Xuân. Nguyễn Huệ đem quân vào Quy Nhơn đánh Nguyễn Nhạc...
Sau khi
biết tin anh em Tây Sơn ban đêm âm thầm bỏ Thăng Long rút quân về Nam, Nguyễn
Hữu Chỉnh liền kéo quân chạy theo Tây Sơn. Nguyễn Nhạc bèn cho Nguyễn Hữu Chỉnh
ở lại giữ đất Nghệ An.
Quân Tây
Sơn và Nguyễn Hữu Chỉnh đi rồi thì con cháu họ Trịnh trở về Thăng Long áp bức
vua Lê. Vua Lê kêu cứu Nguyễn Hữu Chỉnh... Trong khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc đánh
nhau thì Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An đem quân ra Thăng Long phò Lê diệt Trịnh.
Phe ủng hộ chúa Trịnh bị Nguyễn Hữu Chỉnh đánh bại, chúa Trịnh bỏ chạy, vua Lê
Chiêu Thống bèn cho người đốt phủ chúa. Nguyễn Hữu Chỉnh đương nhiên thay thế
vai trò chúa Trịnh ngày trước ở Bắc Hà.
Được tin
Nguyễn Hữu Chỉnh đi khỏi Nghệ An, Nguyễn Huệ liền sai Võ Văn Nhậm từ Hà Tĩnh đem
quân ra chiếm Nghệ An và cho người theo dõi tình hình vua Lê ở Thăng Long. Từ
tháng 11, 1786 đến tháng 5, 1787, Nguyễn Hữu Chỉnh nắm hết mọi quyền hành không
coi vua Lê ra gì. Ông còn cho người mang thư vào Phú Xuân đòi Nguyễn Huệ trả
lại đất Nghệ An cho vua Lê.
2. Nguyễn Hữu Chỉnh thao túng Bắc Hà nên bị quân Tây
Sơn giết, Lê Chiêu Thống cầu viện nhà Thanh.
Nguyễn
Huệ được tin đó bèn sai Võ Văn Nhậm, con rể Nguyễn Nhạc, và hai tướng Ngô Văn
Sở, Phan Văn Lân đem quân từ Nghệ An ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Ngày 01
tháng 11 Đinh Mùi (09/12/1787) quân của Nhậm vào Thăng Long, Nguyễn Hữu Chỉnh
bị phanh thây. Vua Lê Chiêu Thống lẩn trốn trong dân chúng và lên tiếng kêu gọi
cần vương, chống lại quân Tây Sơn. Một phái đoàn do Lê Quýnh cùng Thái Hậu qua
Trung Hoa cầu viện nhà Thanh.
Trong khi
Nguyễn Huệ bận đối phó với Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn và Nguyễn Hữu Chỉnh ở Bắc Hà
thì Nguyễn Phúc Ánh từ Xiêm trở về Long Xuyên. Nhờ Nguyễn Văn Trương giúp,
Nguyễn Phúc Ánh đã xây dựng được một lực lượng mới và được Bá Đa Lộc cùng một
số người Pháp có tàu chiến giúp, đã chiếm lại toàn bộ đất Gia Định. Ngày 8
tháng 8 âm lịch năm Mậu Thân (tức 7 tháng 9, 1788) ông đã kéo quân vào Sài Gòn,
Nguyễn Lữ chạy về Quy Nhơn và chết ở đó.
3. Nguyễn Huệ giết Võ Văn Nhậm
Võ Văn
Nhậm thay Nguyễn Hữu Chỉnh cai trị đất Bắc Hà, ông cho lính đi lục xét từng nhà
dân chúng để tìm lại các báu vật trong cung vua bị mất trong thời gian loạn
lạc. Quân Tây Sơn tuy chiếm được Thăng Long nhưng lực lượng vua Lê chúa Trịnh
vẫn còn ở các tỉnh. Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Viết Tuyển vẫn còn đóng quân ở vùng
Hải Dương và Kinh Bắc (Bắc Ninh). Vì thế, ông phải huy động dân chúng ngày đêm
xây thành đắp lũy để phòng bị. Võ Văn Nhậm cũng tỏ ra hống hách khiến cho những
người ra cộng tác thì mất tin tưởng, những người chưa cộng tác thì lẫn tránh,
ẩn thân nơi quê nhà. Võ Văn Nhậm là con rể của Nguyễn Nhạc mà giữa Nguyễn Nhạc
và Nguyễn Huệ đã có mối hiềm khích từ khi ra Bắc trở về năm 1786. Do đó, mặc dù
Võ Văn Nhậm làm trấn thủ Bắc Hà, nhưng Nguyễn Huệ vẫn đặt Ngô Văn Sở theo dõi
hành vi của Nhậm để mật báo cho ông biết. Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí (trang
173) và Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên (quyển 30 trang 28, 30) thì Ngô Văn Sở
khuyên Võ Văn Nhậm nên đặt quan cai trị đất Bắc, đừng đặt Lê Duy Cẩn làm Giám
Quốc sau khi Lê Chiêu Thống bỏ trốn và đừng đóng quân ở trong thành. Nhưng Võ Văn
Nhậm không chịu, ông muốn đặt Lê Duy Cẩn để ông đứng đằng sau điều khiển việc nước
như Nguyễn Hữu Chỉnh trước đây. Lê Duy Cẩn là con của Lê Hiển Tông, anh của
Ngọc Hân, người mà trước đây công chúa đã muốn đưa lên làm vua sau khi Lê Hiển
Tông chết... nhưng hoàng gia lại muốn chọn cháu đích tôn của vua Lê là Lê Duy Kỳ
tức Lê Chiêu Thống, theo di chiếu. Võ Văn Nhậm ngồi một chỗ ở Thăng Long và sai
các tướng đi đánh dẹp các nơi. Thấy rõ tham vọng của Võ Văn Nhậm nên Ngô Văn Sở
đã viết tờ trình bắt Phan Văn Lân cùng ký vào để gởi cho Nguyễn Huệ.
Nhận được
thư của Ngô Văn Sở, Nguyễn Huệ đã tức tốc ra Bắc. Ông đến Thăng Long vào ban đêm,
không cho Võ Văn Nhậm biết, chỉ có Ngô Văn Sở ra đón. Nguyễn Huệ đến ngay dinh
của Võ Văn Nhậm, cho đọc bản án tuyên bố tội trạng, và sai một võ sĩ tên là
Hoàng Văn Lợi thi hành bản án, chém đầu Võ Văn Nhậm ngay trước mặt ông rồi đặt
Ngô Văn Sở lên thay. Nguyễn Huệ cũng thành lập ngay một Bộ Tham Mưu để giúp Ngô
Văn Sở đối phó với tình hình. Bộ Tham Mưu gồm có các tướng của Tây Sơn như Phan
Văn Lân, Nguyễn Văn Dũng, Nguyễn Văn Tuyết (cháu của Nguyễn Huệ)... và những người
của vua Lê chúa Trịnh theo Tây Sơn như Phan Huy Ích, Ngô Thời Nhiệm, Ninh Tốn,
Nguyễn Bá Lân... Những vị khoa bảng nhà Lê không theo Tây Sơn như Bùi Huy Bích
(giữ chức Tham Tụng, tương đương Thủ Tướng), Phạm Quý Thích, Nguyễn Huy Trạc,
Nguyễn Văn Hợp, v.v... đã bỏ về quê hoặc lánh mặt.
Nguyễn
Huệ cho phép Ngô Văn Sở được quyền giải quyết mọi công việc không cần phải hỏi
ý kiến của ông nhưng phải họp Bộ Tham Mưu bàn bạc, tính toán cho thật chu đáo.
Ông khuyên mọi người không được phân biệt cũ, mới, không được hiềm khích chia
rẽ.
Phải bắt
cho được Lê Chiêu Thống mới ổn định được tình hình ở Bắc Hà, vì thế khi nghe
tin Lê Chiêu Thống đang lẩn tránh tại làng Chí Linh tỉnh Hải Dương trong vùng Đinh
Tích Nhưỡng kiểm soát, Ngô Văn Sở liền cho một toán quân nhỏ đi bắt vua. Nhưng
toán quân nầy đã bị lực lượng của Trần Quang Chiêu ở địa phương giết sạch. Sở
liền cho đại binh đến, nhưng vua đã trốn qua trấn Sơn Nam ở trong nhà Trương Đăng
Quỹ và nhờ lực lượng của Hoàng Viết Tuyển bảo vệ. Ngô Văn Sở bắt cha mẹ, vợ con
Hoàng Viết Tuyển viết thư khuyên Tuyển ra hàng. Nhưng Tuyển từ chối. Sở bèn cho
cha mẹ vợ con của Tuyển ngồi thuyền đi trên sông bắc loa kêu gọi... Tuyển thấy
vậy bèn rút quân, nhưng bất ngờ bị bao vây, quân Tuyển tan rã, Tuyển bỏ trốn.
Vua được tin đó, cũng trốn vào vùng Thanh Hóa, Sở không tìm được.
4. Quân Thanh xâm lăng
Đoàn tùy
tùng do Thái Hậu, mẹ vua Lê Chiêu Thống gồm 64 người qua Trung Hoa cầu viện nhà
Thanh. Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị lợi dụng cơ hội đó đã tâu xin vua
Càn Long (tức Cao Tông nhà Thanh) mượn danh nghĩa phò Lê để đem quân chiếm nước
ta. Sách “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”, một bộ sử lớn nhất nước ta
do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn trong thế kỷ 19, quyển 47 trang 32-33
trích lại một đoạn trong tờ trình của Tôn Sĩ Nghị cho biết âm mưu thâm độc của
nhà Thanh như sau: “Kẻ kế vị nhà Lê phải lưu lạc, nghĩa nên cứu giúp, vả lại An
Nam là đất cũ của Trung Quốc, nên sau khi khôi phục nhà Lê, hãy dùng binh mà
chiếm lấy, làm như thế vừa bảo tồn được nhà Lê, vừa lấy được An Nam, một công
hai việc.”
Tháng 10
năm Mậu Thân (tức tháng 11, 1788) quân Thanh tuyển từ 4 trấn Quảng Đông, Quảng
Tây, Quý Châu và Vân Nam, chia làm hai đường tiến xuống nước ta:
-Tôn Sĩ Nghị, Tổng Đốc Lưỡng Quảng làm Tiết Chế và Đề
Đốc Hứa Thế Hanh làm Phó từ Quảng Tây đi vào Ải Nam Quan (Lạng Sơn)
-Ô Đại Kinh chỉ huy đạo quân từ Vân Nam xuống vào Đào
Giang tiến đến Tuyên Quang.
-Sầm Nghi Đống, Tri Phủ Điền Châu chỉ huy đạo quân
từ Điền Châu. (1)
-Thượng Duy Thanh, Tổng Binh Quảng Tây và Phó Tướng
Khánh Thành chỉ huy quân Quảng Tây.
-Trương Triều Long,(2) Tổng Binh Quảng Đông và Phó Tướng
Lý Hóa Long chỉ huy quân Quảng Đông.
Theo “Đại
Thanh Thông Sử” (sử của nhà Thanh) trang 137 thì quân Thanh tất cả khoảng vài
vạn: Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh có một vạn, để lại ở Vân Nam hai ngàn còn đem
vào nước ta tám ngàn. Quân của Ô Đại Kinh gồm tám ngàn. Ngoài ra, số người Hoa
buôn bán ở nước ta tập hợp được một vạn theo quân Thanh. Các sử gia căn cứ trên
các tài liệu về quân lương (lương thực tiếp tế cho lính khi hành quân) thì quân
chính quy của nhà Thanh khoảng hai vạn, cộng với quân mới tuyển chừng một vạn.
Quân nhà Lê ở các tỉnh khoảng mười vạn người. Tính chung tất cả quân Thanh và
quân của nhà Lê là mười ba vạn. Theo sử của ta thì quân Thanh có hai mươi vạn.
Sử nhà Thanh cũng nói rõ, khi Tôn Sĩ Nghị vào nước ta, đã ra một thông báo nói
là quân Thanh có năm mươi vạn, mục đích hư trương thanh thế, làm cho đối phương
mất tinh thần chiến đấu.
Tôn Sĩ
Nghị ban hành tám điều luật căn bản cho lính như sau:
1.Phải nghiêm chỉnh không được cướp bóc.
2.Phải cẩn thận kẻo bị mai phục.
3.Chỗ đóng quân phải vững chắc và phải đề phòng.
4.Phải có biện pháp hữu hiệu đánh với voi.
5.Dùng lá chắn bằng da trâu sống để chống hỏa hổ.
6.Phải làm cầu phao để qua sông, khi lội qua sông
cạn phải giữ thuốc súng để khỏi bị ướt.
7.Củi, than, rau phải mua, không được cướp; nếu đi
hái phải đề phòng; nước uống phải tránh nước độc.
8.Các quan phải coi xét việc hưu tuất (trợ cấp cho
lính), phu và lính phải tử tế với nhau.
Căn cứ
vào sử liệu nhà Thanh, chúng ta thấy Tôn Sĩ Nghị là người cẩn thận, không xem
thường quân Tây Sơn.
Trấn Thủ
Thăng Long là Ngô Văn Sở được tin, bèn họp các quan cũ nhà Lê bắt làm thư mang
lên Ải Nam Quan cho Tôn Sĩ Nghị nói rằng trong lúc vua Lê Chiêu Thống mất tích
tìm chưa ra, hào kiệt trong nước đã cử Lê Duy Cẩn (chú ruột của vua) lên làm
Giám Quốc, xin hứa sẽ triều cống Trung Hoa và sẽ rước Thái Hậu trở về... mục đích
để tìm kế hoãn binh. Nhưng Ngô Thời Nhiệm lại đề nghị rút quân cả thủy lẫn bộ
về núi Tam Điệp và Biện Sơn để bảo toàn lực lượng, tránh đụng độ lúc ban đầu, đợi
Nguyễn Huệ đem quân ra tăng cường, vừa để chờ xem thái độ quân Thanh và phản
ứng của dân chúng như thế nào.
Kế hoạch
nầy, về phương diện tâm lý chính trị đã làm cho địch trở nên kiêu căng, khinh
thường không đề phòng. Dân chúng cũng cần có thời gian để hiểu rõ bộ mặt thật
giả nhân giả nghĩa của quân Thanh và vai trò bù nhìn của vua Lê, từ đó mới ủng
hộ cuộc chiến đấu chống xâm lăng của Tây Sơn. Như chúng ta đã thấy, kế hoạch
nầy về sau quả thật linh nghiệm và Sở đã nghe theo lời của Ngô Thời Nhiệm.
Phái bộ
Nguyễn Quý Nho được phái mang thư đến Nam Quan cho Tôn Sĩ Nghị đã không liên
lạc được với quân Thanh vì cửa biên giới bị đóng và quân Thanh đã vào Đại Việt
rồi nên phải quay về Thăng Long. Riêng Phan Văn Lân không chịu thi hành lệnh
rút quân, ông đã đem quân đến sông Thọ Xương và đụng độ với đoàn quân Quảng Tây
của Thượng Duy Thanh, rồi đoàn quân Quảng Đông của Trương Triều Long. Quân ta
phải rút lui. Phan Văn Lân ra lệnh phá cầu phao. Địch kết bè qua sông.
Từ 13
tháng 11 năm Mậu Thân (1788) bắt đầu đụng độ với quân Thanh cho đến ngày 17,
quân ta phải rút lui nhiều đợt. Đêm 19, quân ta lại phản công, Hứa Thế Hanh đích
thân chỉ huy, cướp được một số thuyền nhỏ khoảng ba mươi chiếc và chở được hai
ngàn lính qua sông. Quân Thanh xông vào đốt trại Tây Sơn, quân ta bỏ chạy tán
loạn. Có người chạy vào các làng lân cận nhưng sáng hôm sau đều bị dân chúng
bắt nộp cho quân Thanh. Riêng Phan Văn Lân thì phi ngựa chạy về Thăng Long rồi
theo Ngô Văn Sở rút về Tam Điệp. Việc thất trận của Lân, Ngô Văn Sở dấu không
cho mọi người biết.
Ngày 20
tháng 11 âm lịch (Mậu Thân), quân Thanh vượt qua sông Hồng Hà. Lúc đó quân Tây
Sơn đã rút đi xa và ngày 21, đã tới Tam Điệp an toàn. Quân Thanh vào Thăng Long
như chỗ không người. Vì chiến thắng quá dễ dàng nên họ đã trở nên kiêu căng và
không còn nhớ đến tám điều quân lệnh của Tôn Sĩ Nghị nữa.
5. Dân chúng bất mãn về Lê Chiêu Thống và quân Thanh
Nghe tin
quân Thanh vào nước ta, Lê Chiêu Thống liền cho Lê Duy Đản mang thư lên tận
biên giới chào mừng và xin lỗi vì bị bệnh không đến được. Khi được tin quân Tây
Sơn đã rút khỏi Thăng Long, vua cho các tướng đem nghĩa quân đi đóng giữ các nơi và chỉ giữ một ngàn quân để làm cận vệ. Khi
quân Thanh vào Thăng Long thì vua từ Kinh Bắc cũng trở về theo sau quân Thanh.
Vua cho người mang trâu, rượu đến dâng cho quân Thanh để khao quân. Ngày 20-11
Mậu Thân (1788), quân Thanh vào Thăng Long, các cựu thần và hoàng tộc nhà Lê ra
đứng hai bên đường cùng dân chúng lạy tạ. Ngày 22 tháng 11 âm lịch, Tôn Sĩ Nghị
đọc tuyên chiếu của vua nhà Thanh phong cho Lê Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương.
Vua quỳ giữa sân điện Kính Thiên để nhận sắc phong. Vua thảo tờ biểu tạ ơn dâng
lên vua Thanh, hứa sẽ đích thân sang chúc thọ bát tuần của vua Càn Long (1790,
Canh Tuất)... Mỗi ngày vua phải thân hành đến dinh của Tôn Sĩ Nghị đợi lệnh. Cựu
thần nhà Lê lục tục kéo về, họp nhau lên án những người theo Tây Sơn hoặc không
hết lòng với vua khi vua lâm hoạn nạn. Họ cho như thế là đã yên thân rồi và
không ai nghĩ đến chuyện đánh Tây Sơn. Vua quan nhà Lê cũng như quân Thanh tha
hồ yến tiệc liên hoan. Bọn người Hoa sinh sống buôn bán ở nước ta tập hợp nhau
thành một đạo quân, chúng dẫn đường cho quân Thanh đi cướp bóc, hãm hiếp dân
lành. Hoàng Lê Nhất Thống Chí (ký sự lịch sử của Ngô Gia Văn Phái) viết
rằng: “Giữa đồng, giữa chợ, họ (quân Thanh) cũng cướp giật tiền bạc, hãm hiếp đàn
bà con gái không kiêng sợ gì.” Vua Lê cũng biết những chuyện đó nhưng không dám
kêu trách! Dân chúng và trí thức Bắc Hà chán nản, thất vọng, lòng người ly
tán... Trong tình thế đó, quân Tây Sơn trở lại, đánh đuổi quân Thanh, chắc chắn
sẽ được dân chúng ủng hộ.
Theo chỉ
thị của Càn Long gởi cho Tôn Sĩ Nghị thì quân Thanh chỉ đóng quân không đuổi
theo Tây Sơn. Chờ Tây Sơn đánh nhau với quân nhà Lê. Nếu Nguyễn Huệ thua thì đặt
nhà Lê lên, nếu Nguyễn Huệ thắng thì sẽ đánh Huệ, sau đó, chia nước làm hai. Từ
Nghệ An trở ra trao cho vua Lê, từ Nghệ An trở vào trao cho Nguyễn Huệ... Quân
Thanh chia ra đóng các đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi, Vân Điển và Khương Thượng, quân
nhà Lê đóng ở Giản Thủy. Theo kế hoạch thì quân Thanh nghỉ ngơi, ăn Tết xong
mới nói đến chuyện hành quân đi đánh Tây Sơn.
6. Nguyễn Huệ đối phó với quân Thanh
Ngô Văn
Sở cho Nguyễn Văn Tuyết (tức đô đốc Tuyết, cháu của Nguyễn Huệ) vào Phú Xuân
báo cáo tình hình Bắc Hà cho Nguyễn Huệ. Được tin quân Thanh đã vào nước ta,
Nguyễn Huệ thét lên: “Đồ chó má, sang đây để mà chết” (Theo Vãn Lê Dị Sử,
tr.66). Để cho danh chính ngôn thuận, Nguyễn Huệ đã quyết định lên ngôi hoàng đế,
ông đã đổi tên là Nguyễn Quang Bình và lấy niên hiệu là Quang Trung. Việc đó có
hai ý nghĩa:
-Thứ
nhất, từ đây ông không còn là Nguyễn Huệ, em của Nguyễn Nhạc;
-Thứ hai,
ông không còn là Bắc Bình Vương, tướng của Nguyễn Nhạc.
Không còn
liên hệ gì với Nguyễn Nhạc, có nghĩa là không còn phải tuân lệnh của Nguyễn
Nhạc, không còn chịu trách nhiệm về những việc làm sai trái, mất chính nghĩa
của Nguyễn Nhạc. Bây giờ, ông là một nhân vật mới của giai đoạn lịch sử mới.
Ông là Hoàng Đế của một giang sơn mới, có dân, có lãnh thổ, có triều đình và
quân đội riêng để có thể nhân danh đất nước của mình, nhân danh dân tộc của
mình mà hành động hợp với chính nghĩa bảo vệ tổ quốc, chống xâm lăng. Sử sách xưa
như Hoàng Lê Nhất Thống Chí hay là sử nhà Nguyễn thường gọi Nguyễn Huệ là
“Bình” khởi đi từ đó. Bình đây không phải là Bắc Bình Vương mà là Nguyễn Quang
Bình. Các con của ông cũng lấy tên Nguyễn Quang như Nguyễn Quang Toản, Nguyễn
Quang Thùy,v.v....
Ông cho
lập đàn, tế cáo trời đất và lên ngôi Hoàng Đế. Ngày 25 tháng 11 âm lịch năm Mậu
Thân (22-12-1788) một cuộc diễn binh được tổ chức dưới chân núi Ba Vành (phía
Nam Ngự Bình). Ông đọc tuyên cáo kêu gọi binh sĩ chiến đấu chống xâm lăng:
“...Quân
Thanh sang xâm lấn nước ta hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong
khoảng vũ trụ, trời nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng. Phương Nam, Phương
Bắc chia nhau mà cai trị... Từ đời Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước
ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng
muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại
Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ. Các ngài không nở
ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người dấy nghĩa binh, đều
chỉ đánh một trận là thắng và đuổi chúng về phương Bắc. Ở các thời kỳ ấy, Bắc
Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài... Nay người Thanh
lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy
đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng
về” (Hoàng Lê Nhất Thống Chí).
Ngày 29
tháng 11 Mậu Thân (1788), vua Quang Trung chỉ huy đạo quân Thuận Quảng lên đường
từ Huế ra Nghệ An. Đây là đạo quân tinh nhuệ đã giúp vua bách chiến bách thắng
trong các trận đánh bại quân Xiêm, quân Trịnh, và mới đây đánh Nguyễn Nhạc ở
Quy Nhơn. Trong đạo quân nầy có voi, ngựa, thuyền lớn v.v... Tới Nghệ An, ở lại đó
10 ngày để tuyển thêm quân, cứ ba người dân thì chọn một người khỏe mạnh cho
làm lính. Đất Nghệ An vốn là đất anh hùng, không thiếu gì hạng trai tráng khỏe
mạnh, biết võ nghệ, biết chiến đấu. Còn những người dân ở hai bên bờ sông Gianh
cũng đã từng quen chinh chiến hàng trăm năm rồi. Quang Trung chỉ cần huấn luyện
cấp tốc những điều căn bản là họ có thể chiến đấu. Tại đây ông cũng đã tiếp xúc
với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, một danh sĩ đương thời, ẩn dật không hợp tác
với họ Trịnh. Nguyễn Thiếp đã hiến kế và cho rằng kế hoạch của Ngô Thời Nhiệm đưa
ra là hợp lý.
Vua Quang
Trung có trong tay khoảng mười vạn quân và trên dưới hai trăm con voi (có tài
liệu nói hơn 100 voi). Lính Thuận Quảng làm tiền quân và lính Nghệ An làm trung
quân. Thời xưa chỉ có vua và tướng mới đi ngựa hay voi. Lính phải đi bộ. Vua ra
lệnh cứ ba người lính thì dùng một cái cáng, hai người gánh, một người nghỉ,
thay nhau đi suốt ngày đêm cho mau. Từ Huế ra đến Tam Điệp khoảng 500 cây số
chỉ đi trong 10 hôm (Nghỉ ở Nghệ An 10 hôm để tuyển thêm quân). Hơn 20 ngày
sau, tức 20 tháng Chạp, quân đến Tam Điệp. Vua gặp Ngô Văn Sở và Ngô Thời Nhiệm
khen kế hoạch Ngô Thời Nhiệm đưa ra. Vua cũng không trách phạt Ngô Văn Lân thua
trận. Sau khi bố trí kế hoạch hành quân, ngày 30 tháng Chạp trong khi cho lính ăn
Tết trước, vua Quang Trung tuyên bố: “Nay hãy ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến
sang Xuân, ngày mồng 7 vào thành Thăng
Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta xem có đúng không?” Lời
tuyên bố đầy tin tưởng, đầy quyết thắng ấy làm nức lòng binh sĩ, làm cho họ hăng
say chiến đấu và đã đem lại thắng lợi. Vua Quang Trung cũng gởi cho Tôn Sĩ Nghị
một bức thư chê Nghị là quan văn mà dám đem quân sang Đại Việt...
Theo kế
hoạch thì:
-Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân chỉ huy Tiền quân đi
tiên phong.
-Hô Hổ Hầu lãnh Hậu quân tiếp ứng cho Tiền quân.
-Đại Đô Đốc Lộc và Đô Đốc Tuyết chỉ huy Hữu quân
cùng Thủy quân đi đường biển vào sông Lục Đầu. Đô Đốc Tuyết sẽ kiểm soát vùng
Hải Dương, Đô Đốc Lộc kiểm soát vùng Lạng Giang, Phượng Nhãn, Yên Thế chặn đường
quân Thanh chạy về.
-Đô Đốc Bảo và Đô Đốc Mưu chỉ huy Tả quân và Tượng
quân đi đường núi xuống mặt phía Tây, vào Chương Đức, làng Nhân Mục, huyện
Thanh Trì đánh đạo quân Điền Châu. Đô Đốc Bảo chỉ huy đoàn voi theo đường huyện
Sơn Lãng ra Đại Áng tiếp ứng cho mặt tả.
-Vua Quang Trung chỉ huy Trung quân, vượt Sơn Nam,
tấn công vào Bộ Chỉ Huy của Tôn Sĩ Nghị.
Quân ta
lên đường vào 30 Tết, trong lúc quân Thanh còn đang vui chơi ăn Tết không hay
biết và cũng không đề phòng. Đến đồn Giản Thủy, tướng nhà Lê là Lê Phùng Nghĩa,
trấn thủ Sơn Nam đóng ở đó, không đánh mà bỏ chạy. Đêm 3 Tết, quân ta đến vây đồn
Hà Hồi, tiền đồn của Ngọc Hồi (huyện Thường Tín, Hà Đông), nửa đêm dùng loa hô
một tiếng, quân sĩ dạ vang. Địch sợ cuống quýt, xin hàng. Ta tịch thu nhiều
quân trang, khí giới. Trận nầy quân ta chiến thắng quá dễ dàng.
Tại đồn
Ngọc Hồi, quân Thanh bố trí phòng thủ kiên cố, có thành lũy chắc chắn, trên
thành có đặt đại bác, bên ngoài vòng rào có địa lôi. Vua Quang Trung ra lệnh
kết ba tấm ván thành một bức, bện rơm ướt cho 10 người khiêng đi trước, mang
theo đoản đao. Có 20 người theo sau với đầy đủ khí giới. Voi tiên phong mở đường
tiến vào.(3) Gần sáng mồng 5, quân ta đánh
đồn Ngọc Hồi. Trong đồn không liên lạc được với Hà Hồi nên không biết Hà Hồi đã
bị quân ta chiếm. Đạn trong đồn Ngọc Hồi bắn ra như mưa. Voi của ta xông vào
phá lũy, lính theo sau, gần giáp địch thì bỏ ván, nhảy ra đánh cận chiến, dùng đoản
đao rất lợi hại. Toán sau, với đầy đủ khí giới cũng xông vào. Quân Thanh bị
chết rất nhiều, trốn ra ngoài đạp trúng địa lôi của ta mai phục và bị voi của
ta chà đạp... Ngọc Hồi cách Thăng Long khoảng 14 cây số là một căn cứ chiến lược
quan trọng, do Hứa Thế Hanh là Phó Tướng của Tôn Sĩ Nghị chỉ huy. Các đồn Văn Điển,
Yên Quyết gần đó cũng bị quân ta chiếm. Các tướng Hứa Thế Hanh, Trương Triều
Long, Thượng Duy Thanh của nhà Thanh đều tử trận.
Tôn Sĩ
Nghị ở Thăng Long được tin báo liền cho Dương Hồng Nghiệp cùng 20 kỵ sĩ, có hai
người Việt Nam là Phạm Khải Đức và Lê Quang Châu theo để thăm dò tình hình. Nhưng
không kịp nữa rồi vì quân Tây Sơn đã đến Thăng Long với cờ dong, trống mở, đại
bác nổ rền trời. Tôn Sĩ Nghị không kịp mang áo giáp, thắng yên cương, lên ngựa
chạy về hướng Bắc, bỏ lại cả ấn tín và giấy tờ quan trọng. Tại Yên Phụ, thấy
lính của mình chạy qua cầu quá đông nên Tôn Sĩ Nghị ra lệnh cắt đứt cầu để chạy
cho nhanh và tránh quân Tây Sơn đuổi theo. Lính Thanh rơi xuống sông, chết rét,
chết đuối rất nhiều. Chạy đến Phượng Nhãn (Bắc Ninh) bị Đô Đốc Lộc đuổi, phải
chạy tiếp không nghỉ chân được. Thuật lại lời của một vị tướng dưới quyền của
Tôn Sĩ Nghị, sách “An Nam Quân Doanh Kỷ Yếu” của Trần Nguyên Nhiếp viết
rằng: “Tôi với Chế Hiếu (Tôn Sĩ Nghị) đói cơm, khát nước, không kiếm đâu ra được
ăn uống, cứ phải đi suốt bảy ngày, bảy đêm mới đến trấn Nam Quan.” Sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí viết rằng: “Tôn
Sĩ Nghị sợ vỡ mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn
lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhăm hướng Bắc mà chạy.” (bản
dịch của Nguyễn Đức Vân... sđd, trang 226). Theo Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên,
các sử gia nhà Nguyễn đã thuật lại hoàn
cảnh của quân Thanh sau trận Ngọc Hồi như sau “Đô đốc nước Thanh là Hứa Thế
Hanh, Tổng binh là Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng, Tri phủ Điền Châu là
Sầm Nghi Đống đều chết cả. Tôn Sĩ Nghị ở bãi cát nghe tin báo, một mình cỡi
ngựa chạy về Bắc, tướng sĩ tranh cầu để sang sông, cầu gãy ôm lấy nhau xô nhau
lăn xuống sông chết đuối kể đến hàng vạn, nứơc sông Nhị Hà vì thế chảy không được”
(ĐNLTCB, sđd, bản dịch, trang 519)
Đạo quân
Vân Nam và Quý Châu đóng ở vùng Phú Thọ, Vĩnh Yên nghe tin Tôn Sĩ Nghị đã bỏ
chạy, cũng rút quân chạy về. Vua Quang Trung ra lệnh cho quân ta đuổi theo cho đến
tận biên giới. Người Hoa ở gần Lạng Sơn thấy quân Thanh rút chạy vội vàng như
thế, nên cũng bỏ nhà cửa kéo nhau chạy theo, từ cửa ải về phía Bắc mấy trăm dặm
không có một bóng người: “Huệ sai quân đuổi theo đến cửa ải Lạng Sơn, nói phao
lên rằng quân qua cửa ải đánh giết không sót người nào, cốt tìm cho được chỗ
Chiêu Thống đế ở. Người nước Thanh cả sợ, từ cửa quan trở về mạn Bắc, người
già, trẻ con bồng bế nhau chạy, vài trăm dặm tuyệt không có người ở.” (Đại Nam
Liệt Truyện Chính Biên, sđd, tr.519).
Sầm Nghi Đống
ở gò Đống Đa (gần Thái Hà ấp, bên ngoài thành Thăng Long) vì không biết tình
hình nên chống cự lại quân ta. Hai bên đánh nhau từ sáng đến chiều, quân Thanh
không có viện binh, Sầm Nghi Đống lên đồi
thắt cổ tự tử. Chỗ đó gọi là Loa Sơn. Quân Thanh chết hàng ngàn, chôn chung một
ngôi mộ tại Gò Đống Đa.
Lê Chiêu
Thống cũng theo đám dân chạy loạn ra khỏi thành trốn qua Trung Hoa cùng đám cận
thần nhà Lê và một số gia đình họ. Trưa mồng 6, vua Lê đến Kinh Bắc, và sau đó
gặp Tôn Sĩ Nghị tại Ải Nam Quan: “Vua Lê trong điện, nghe tin có việc biến ấy,
vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa Thái Hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến bờ
sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè cũng không, bèn gấp rút chạy đến Nghi
Tàm, thình lình gặp được chiếc thuyền đánh cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ
Bắc. Trưa ngày mồng 6, vua Lê và những người tùy tùng chạy đến núi Tam Tằng,
nghe nói Tôn Sĩ Nghị đã đi khỏi đó.” (Hoàng Lê Nhất Thống Chí, bản dịch của
Nguyễn Đức Vân, sđd, trang 226)
Tôn Sĩ
Nghị ra lệnh thiêu hủy tất cả đạn dược dự trữ tại biên giới rồi về triều chịu
tội với nhà Thanh. Trong sách “Cao Tông Thực Lục” (sử nhà Thanh viết về vua Càn
Long) có ghi lại lời tâu của Tôn Sĩ Nghị gởi lên vua Càn Long (Cao Tông nhà
Thanh) như sau:
“Ngày 25
tháng Giêng (Kỷ Dậu) năm Cao Tông thứ 54
(19/2/1789) Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị tâu rằng: sau khi thành nhà
Lê (Thăng Long) được thu phục, vị trí dải đất về phía Nam thành tiếp giáp với đất
giặc (Tây Sơn). Theo lời Lê Duy Kỳ (Lê Chiêu Thống) báo, ngày mồng 2 tháng
Giêng năm nay quân lính của viên Quốc vương phòng thủ nơi này bị giặc đánh đuổi,
bọn chúng rêu rao rằng sẽ trả thù rửa hận. Thần sai quan binh đến tiểu trừ, đánh
bại bọn giặc. Rồi Lê Duy Kỳ nghe tin Nguyễn Huệ thân tới, sợ hãi gan mật tê
liệt, tay bế con nhỏ, cùng với mẹ chạy trốn qua sông Phú Lương, khiến dân tình
hoảng hốt, người người trong nước rần rần chạy loạn. Thần cùng Đề đốc Hứa Thế
Hanh lại đốc suất quan binh quyết tâm huyết chiến, nhưng không địch nổi, vì
giặc quá đông, vây kín đại binh bốn phía. Từ đó Thần và Đề đốc Hứa Thế Hanh
không thấy mặt nhau nữa. Thần phá vòng vây, tiến thẳng tới cầu nổi, ra lệnh
Tổng binh Lý Hóa Long qua sông để chiếm lấy bờ phía Bắc. Lý Hóa Long đi đến
giữa cầu, chẳng may trượt chân rơi xuống nước. Thần ra lệnh Phó tướng Khánh
Thành quay đầu bắn súng điểu thương chặn địch, rồi mang binh từ từ theo cầu nổi
tới bờ phía Bắc, đoạn rút về sông Thị Cầu trú đóng. Một mặt cho người chạy đến
vùng Lạng Sơn, ải Nam Quan tìm mẹ con Lê Duy Kỳ; tạm trú bọn họ tại quan ải.
Thần mang trọng trách không làm xong việc sớm, lần này lại bị giặc đánh chặn,
xin được cách chức trị tội về việc điều binh sai lầm để làm răn.” (Cao Tông
Thực Lục, quyển 1321 tờ 868, bản dịch, trích tài liệu của Hồ Bạch Thảo, đăng
trên đặc san Tây Sơn Bình Định, Xuân Bính Tuất 2006, trang 145-146)
Vua Quang
Trung vào thành Thăng Long hôm 5 Tết Kỷ Dậu (30-01-1789) , sớm hơn dự tính hai
hôm, chiến bào nhuộm đầy khói thuốc súng. Dân chúng kéo nhau ra đường chào mừng
đoàn quân chiến thắng.
7. Bổ túc về trận Ngọc Hồi: Quân Tây Sơn đã khiêng
những tấm ván lớn hay đã dùng những bó rơm lớn lăn tròn đi trước để đỡ đạn?
Trong
trận Ngọc Hồi có một số chi tiết mà các sử gia ghi chép khác nhau:
Quân Tây Sơn dùng ba tấm ván ghép lại có bện rơm
trộn đất ướt làm bình phong đỡ đạn và tiến theo hàng ngang hay dùng rơm bó
lại thành từng bó lớn tẩm nước và lăn đi
trước, lính núp đàng sau?
Theo
Trần Trọng Kim (Việt Nam Sử Lược) và Nguyễn Phương (Việt Nam Thời Bành Trướng:
Tây Sơn) thì Nguyễn Huệ ra lệnh cho quân Tây Sơn “ kết ba tấm ván thành một bức
bện rơm ướt cho 10 người khiêng đi trước, mang theo đoản đao. Có 20 người theo sau
với đầy đủ khí giới. Voi tiên phong mở đường tiến vào.” Sách Đại Nam Liệt
Truyện Chính Biên do Quốc Sử Quán Nhà Nguyễn biên soạn cũng chép:
“Mờ sáng mồng 5, tiến sát đến lũy Ngọc Hồi, trên lũy
đạn bắn xuống như mưa, Huệ sai chiến sĩ đội ván gỗ để xông vào trận, mà tự thúc
voi đốc đằng sau. Khi đã phá được cửa lũy, đều ném ván gỗ xuống đất, đem dao
ngắn chém bừa đi, quân nước Thanh chống chọi không được, tan vỡ chạy ra bốn mặt
gặp máy chôn ngầm, lại bị chấn địa lôi nổ ra, chết và bị thương rất nhiều” (Đại
Nam Liệt Truyện Chính Biên, quyển 30, bản dịch của Viện Sử Học Hà Nội, nhà xuất
bản Thuận Hóa 1993, trang 518). Hoàng Lê Nhất Thống Chí (Ngô Gia Văn Phái) cũng
diễn tả như vậy:
“Vua
Quang Trung lại truyền lấy 60 tấm ván, cứ ghép liền ba tấm thành một bức, bên
ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức. Đoạn kén loại lính khỏe mạnh,
cứ 10 khiêng một bức, lưng giắt dao ngắn. Hai mươi người khác đều cầm binh khí
theo sau, dàn thành trận chữ “nhất”; vua Quang Trung cưỡi ngựa voi đi đốc thúc,
mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra chẳng chết
người nào cả. Nhân có gió Bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra, khói
tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn. Không
ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió Nam, thành ra quân Thanh lại tự làm hại
mình.
Vua Quang
Trung liền sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên phía trước. Khi gươm
giáo hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém
bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân
Thanh chống không nổi bỏ chạy tán loạn, dày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái thú Điền
Châu Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết. Quân Tây Sơn thừa thế chém giết lung tung,
thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại.”
(Hoàng Lê Nhất Thống Chí, bản dịch của Nguyễn Đức
Vân và Kiều Thu Hoạch, trang 223-224)
Nhưng,
theo “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục” (do Quốc Sử Quán nhà Nguyễn biên
soạn) thì nói rằng Quân Tây Sơn “đã dùng những bó rơm to lớn che đỡ mà lăn xả
vào” chứ không dùng “ván gỗ che đỡ”...
Để hiểu
rõ diễn tiến tình hình chiến sự giữa quân Tây Sơn và quân nhà Thanh lúc đó,
chúng tôi xin trích lại toàn bộ đoạn văn trong sách “Khâm Định Việt Sử Thông
Giám Cương Mục” như sau:
“Kỷ Dậu năm
thứ 3 (1789) (Thanh, năm Càn Long thứ 54 ). Mồng 1 tháng Giêng... Mùa Xuân Quân
nhà Thanh đánh nhau với Nguyễn Văn Huệ ở địa phận hai huyện Thượng Phúc và
Thanh Trì, bị thua: bọn đề đốc Hứa Thế Hanh, tiền phong Trương Sĩ Long, tả dực
Thượng Duy Thăng và tri phủ Điền Châu Sầm Nghi Đống đều chết trận; Tôn Sĩ Nghị
phải chạy về Quảng Tây...
Sĩ Nghị
từ khi qua cửa ải, đến đâu được đấy, có ý khinh địch. Lấy được Thăng Long rồi,
Sĩ Nghị tự cho rằng thế là xong việc. Những hào kiệt ở các trấn đi ứng nghĩa đều
đua nhau đến cửa quân xin Sĩ Nghị tiến binh, nhưng đều bị bỏ qua, không được
hỏi đến. Kịp khi được thủ chiếu của vua Thanh ra lệnh cho Sĩ Nghị phải khôi
phục hết đất đai cho Lê vương, mới được rút quân về, Sĩ Nghị bấy giờ mới tính đến
mưu kế tiến hành.
Đến đây,
quân Văn Huệ kéo đến đèo Ba Dội (Tam Điệp Sơn), nhà vua được tin, lấy làm lo
sợ, hỏi Sĩ Nghị về mưu kế, Sĩ Nghị nói: "Ta cứ thế thong thả để chờ đợi ứng phó
với kẻ đang nhọc nhằn, cần chi phải hấp tấp đánh vội.” Thế rồi Sĩ Nghị dương dương
tự đắc, không để ý đến nữa.
Giặc ruổi
dài ra Bắc, không có lấy một người hay một quân kỵ nào chống lại cả. Khi giặc đến
Sơn Nam, Sĩ Nghị sai đề đốc Hưa Thế Hanh đem quân tứ dực đi trước, chia đóng ở
Hà Hồi và Ngọc Hồi để chống cự lại.
Ngày 4
tháng Giêng ấy, quân lưu động của giặc đến trước, hễ đánh trận nào thì thua
luôn trận ấy. Sĩ Nghị rất coi khinh.
Hồi trống
canh năm sớm hôm sau. Văn Huệ xắn tay áo đứng dậy, đốc thúc bản bộ lùa quân rầm
rộ tiến lên. Chính Văn Huệ tự mình đốc chiến, cho hơn trăm voi khỏe đi trước.
Tờ mờ sáng, quân Thanh lùa toán quân kỵ tinh nhuệ ồ ạt tiến. Chợt thấy bầy voi,
ngựa quân Thanh đều sợ hãi, hí lên, tế chạy, lồng lộn quay về, chà đạp lẫn
nhau. Giặc lại lùa voi xông đến: quân Thanh, trong cơn gấp rút, không cứu nhau được,
ai nấy rút vào trong lũy để cố thủ. Bốn mặt đồn lũy quân Thanh đều cắm chông
sắt, súng và tên bắn ra như mưa. Giặc (Tây Sơn) dùng những bó rơm to lớn để che
đỡ mà lăn xả vào, rồi quân tinh nhuệ tiến theo sau. Kẻ trước ngả, người sau
nối, thảy đều trổ sức liều chết mà chiến đấu. Các lũy quân Thanh đồng thời tan
vỡ và quân Thanh đều chạy. Giặc đuổi đến đồn Nam Đồng, thừa thắng, ập lại giết
chết. Quân Thanh bị chết và bị thương đến quá nửa. Thế Hanh, Tiên phong Trương
Sĩ Long (Trương Triều Long) và tả dực Thượng Duy Thăng đều chết trận. Sầm Nghi Đống
đóng đồn ở Loa Sơn (tục gọi Đống Đa), bị một tướng khác của giặc đánh. Quân cứu
không có, Nghi Đống phải tự thắt cổ chết. Toán thân binh của Nghi Đống cũng tự
ải chết theo đến vài trăm người.
Bấy giờ ở
nơi màn trướng, thình lình được tin quân giặc đã bức bách gần Thăng Long. Sĩ
Nghị không biết xoay xở ra sao, bèn nhổ đồn lũy, vượt qua sông, chạy. Cầu gãy,
người bị chết vô kể.”
(Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, quyển
XLVII, bản dịch của Viện Sử Học Hà Nội, 1998, tr.845- 847)
(Xin lưu ý: sử nhà Nguyễn thường gọi Tây Sơn là Giặc
hay Ngụy Tây).
“Thanh
Thông Giám” (sử nhà Thanh) cũng nói rằng quân Tây Sơn dùng những bó rơm lớn lăn
tròn để làm bia đỡ đạn... Xin đọc đoạn văn sau đây trích từ sử nhà Thanh để so
sánh:
“Ngày
mồng 5 tháng Giêng: Quân Thanh bị bại. Tôn Sĩ Nghị mang tàn quân chạy về Bắc.
Vào cuối
năm ngoái (Mậu Thân, 1788) quân của Nguyễn Huệ nước An Nam vượt sông Gián Thủy đánh
bại quân phòng thủ của Lê Duy Kỳ (Lê Chiêu Thống); lại bắt toán quân Thanh tuần
thám giết sạch. Ngày mồng hai, Tôn Sĩ Nghị được tin hoảng hốt ngự địch; ra lệnh
Tổng binh Trương Triều Long mang 3000 quân tăng cường cho các đồn Hà Hồi, Ngọc
Hồi để chống cự, lại ra lệnh cho Đề đốc Hứa Thế Hanh mang 1500 tên, tự đốc suất
1200 tên để tiếp ứng. Quân Nguyễn Huệ tiến tới đông như ong vây đồn 4 phía, đánh
nhau một ngày một đêm, quân Thanh bị đánh tan bèn bỏ chạy.
Vào canh
năm ngày này (mồng 5) Nguyễn Văn Huệ mang đại binh tiến đánh, thân tự đốc
chiến, dùng 100 thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh
nghênh địch. Vào giờ Ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng
rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh
theo sau, trước ngã sau tiến lên một lòng quyết chiến, tại các trại quân Thanh đồng
thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém giết, quân Thanh tử thương quá nửa.
Đề đốc
Hứa Thế Hanh thấy thế lực nhiều ít rõ ràng, bảo gia nhân đem ấn triện Đề Đốc
mang đi, rồi ra sức đánh, bị chết tại trận. Lúc này quân địch càng bị giết càng
nhiều, chia cắt quân Thanh từng nhóm rồi vây kín. Thống soái Tôn Sĩ Nghị mất
liên lạc với Hứa Thế Hanh và các đại viên Đề trấn, bèn ra lệnh Phó tướng Khánh
Thành, Đức Khắc Tinh Ngạch mang 300 quân đoạt vây chạy về phía Bắc. Khi tàn
quân của Tôn Sĩ Nghị chạy đến bờ sông, thì số quân Thanh 3000 tên trú đóng tại
bờ phía Nam đã được Tổng binh Thượng Duy Thanh mang đi tiếp ứng cho Hứa Thế
Hanh, bèn ra lệnh cho Tổng binh Lý Hóa Long vượt qua cầu nổi chiếm cứ bờ phía
Bắc, để tiện việc yểm hộ qua sông. Không ngờ Lý Hóa Long đi đến giữa cầu, trượt
chân rơi xuống nước chết, số quân mang đi kinh hãi không biết làm gì. Tôn Sĩ
Nghị ra lệnh Khánh Thành yểm hộ mặt sau bằng cách bắn súng điểu thương vào quân
Nguyễn Văn Huệ đang truy kích, riêng mình tự mang quân theo cầu nổi lui về bờ
phía Bắc; rồi lập tức cho chặt đứt cầu nổi, cùng với bọn Khánh Thành rút lui về
sông Thị Cầu.
Quân
Thanh tại phía Nam sông thấy cầu đã bị đứt chìm, không có đường về, bèn đánh
trở lại thành nhà Lê. Các Tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Phó tướng
Na Đôn Hành, Tham tướng Dương Hưng Long, Vương Tuyên, Anh Lâm đều tử trận. Tri
châu Điền Châu Sầm Nghi Đống không được viện binh đành tự tử, số thân binh tự
tử cũng đến hàng trăm. Quốc vương An Nam Lê Duy Kỳ vào lúc binh thua, tới dinh
Tôn Sĩ Nghị họp bàn, thấy Tôn Sĩ Nghị đã bỏ chạy, bèn hoảng hốt vượt sông chạy
lên phía Bắc, đến đây nhà Lê diệt vong.
Nguyễn Văn
Huệ xua quân tiến vào thành, chiến bào mặc trên người nhuốm đen, do bởi thuốc
súng. Đề đốc Ô Đại Kinh mang đạo quân Thanh tại Vân Nam xuất phát từ Mã Bạch
quan vào ngày 20 tháng 11 năm ngoái (Mậu Thân, 1788), đến Tuyên Quang vào ngày
21 tháng 12; khi đến sông Phú Lương thấy cầu nổi bằng tre đã bị chìm đứt, nhìn
sang bên kia bờ thấy lửa rực bốn phía, bèn triệt hồi Tuyên Quang, rồi lập tức
lui vào trong nước.”
(Thanh Thông Giám, quyển 146, trang 4565 – 4567,
trích dịch tài liệu của Hồ Bạch Thảo, đăng trong Đặc San Tây Sơn Bình Định,
Xuân Bính Tuất 2006, trang 145)
8. Nhận Định Tình Hình Và Chủ Trương Của Vua Càn
Long Sau Khi Vua Quang Trung Đại Thắng Quân Thanh
Nhận được
tờ tấu của Tôn Sĩ Nghị, để vớt vát thể diện cho danh tiếng của quân đội thiên
triều, một đại cường quốc tại Á Châu thời bấy giờ, vua Càn Long đã ra tờ dụ cho
các Quân Cơ Đại Thần với mục đích tìm kiếm hòa bình, không đem quân trả thù:
“Trẫm trước
kia đã cho rằng Lê Duy Kỳ mềm yếu không có khả năng, xem ra trời đã ghét họ Lê
nên không thể hỗ trợ được, mà dân tình An Nam lại phản phúc khó tin nên đã
giáng chỉ dụ lệnh Tôn Sĩ Nghị cấp tốc triệt binh. Nếu như Tôn Sĩ Nghị nhận được
chỉ dụ bèn lập tức triệt hồi, thì ngày hôm nay đại quân đã về đến cửa quan ải
rồi. Nay Nguyễn Huệ dám ra mặt chặn đánh, nguyên do là Tôn Sĩ Nghị hy vọng
Nguyễn Huệ sẽ hối lỗi đầu hàng để mọi việc được hoàn mỹ, nên chần chừ ngày giờ,
mới xảy ra như vậy. Hiện tại vào tiết mùa Xuân, tại nơi này mưa nhiều, lắm chướng
khí; nếu muốn cử đại binh cũng chưa phải lúc. Huống chi các tỉnh Quảng Đông,
Quảng Tây trước đây tiếp tục điều binh, thì đã ra lệnh đình chỉ; nay lại rầm rộ
truyền hịch điều động, thì cũng không đáp ứng được tình hình khẩn cấp, mà lại
khiến cho lòng người thêm kinh hãi. Nói tóm lại đem binh triệt hồi, vẹn toàn
quốc thể là điều cốt yếu” Cao Tông Thực Lục, sđd, quyển 1321, tờ 868, bản dịch
của Hồ Bạch Thảo, đăng trong Đặc San Tây Sơn Xuân Bính Tuất 2006 trang146-147
như trên).
Tiếp theo
lời dụ nầy, vua Càn Long đã nhận xét về hoàn cảnh của Tôn Sĩ Nghị như sau:
“Tôn Sĩ
Nghị là người thống suất toàn quân, không thể làm việc mạo hiểm; viên Tổng Đốc
phá vòng vây để ra, hành động này rất đúng. Thứ đến, Hứa Thế Hanh là viên chức
lớn với cấp bực Đề Đốc cũng rất quan hệ; hiện nay chưa có tin tức, đang hết sức
trông ngóng. Hai người phải lưu tâm thận trọng, đốc suất quan binh đến ải gấp.
Theo lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh thì Lê Duy Kỳ đến quan ải vào ngày 7 tháng
Giêng, (Kỷ Dậu, 1789) hiện cho trú tại Nam Ninh. Bàn về việc hành quân từ trước
tới nay không phải mỗi lần ra quân đều thuận lợi, như các cuộc hành quân tại
Tân Cương, Tây Lộ, cho đến Lưỡng Kim Xuyên đều có những tổn thất nhỏ rồi mới
thành công. Lần nầy Tôn Sĩ Nghị mang quân đến An Nam đánh giặc thành công quá
dễ, nay có sự tổn thất biết đâu đây chính là Nguyễn Huệ tự mang lấy mầm diệt
vong vây. Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh hãy mang quân ra cho vẹn toàn, đừng làm
tổn thương quốc thể; tương lai có liệu biện việc này hay không do chính Trẫm
thao túng, rồi sẽ từ từ quyết định. Còn việc Tôn Sĩ Nghị tâu xin cách chức trị
tội; thì việc tổn thương này ngoài ý muốn, không phải do viên Tổng Đốc lầm lỡ
mạo muội, tại sao lại tâu như vậy! Viên Tổng Đốc phải gia tăng trấn tĩnh để lo
liệu việc triệt thoái, chớ nên hoang mang ý loạn, đó là điều hết sức quan
trọng. Chắc bọn Nguyễn Huệ cũng không dám xâm phạm biên giới của Thiên
triều.” (Cao Tông Thực Lục, quyển 1321
tờ 868- 869, sđd, như trên)
Rồi nhà
vua chỉ thị đem quân đi tiếp ứng để phòng thủ biên giới:
“Tuy nhiên dọc theo quan ải cần dàn binh lực để làm
mạnh thanh thế và chuẩn bị việc tiếp ứng. Hiện theo lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh đã
điều một ngàn quân tiến trước hợp với quân phòng thủ gồm 3000 tên sẽ lo điều động
thêm. Nay dụ Tôn Vĩnh Thanh hãy tính toán kỹ, nếu số binh lính không đủ dùng,
thì có thể một mặt tiếp tục điều tại các doanh, một mặt tấu lên. Quân Quảng Tây
hiện đang triệt hồi, còn đạo quân Vân Nam do ngã Tuyên Quang An Biên cũng phải
triệt thoái gấp. Quân lính tại các doanh đồn trú tại Vân Nam tương đối nhiều,
nếu quân số dưới quyền của Phú Cương và Ô Đại Kinh hiện nay không đủ dùng, thì đừng
ngại lấy thêm quân từ các doanh để phòng thủ dọc biên giới, khiến cho thanh thế
càng thêm mạnh mẽ.”
(Cao Tông Thực Lục, quyển 1321 tờ 869, sđd như trên)
(Xin lưu
ý: Ông Hồ Bạch Thảo có nhận xét: Theo Thanh Thông Sử: số quân 3000 người mà Tôn
Vĩnh Thanh điều động cho công tác phòng thủ biên giới là sử nhà Thanh cố ý nói
bớt đi vì “ theo Thanh Thông Sử, lúc bấy giờ dân Trung Quốc tại vùng biên giới
Quảng Đông, Quảng Tây nghe tin quân Nguyễn Huệ sẽ sang trả thù rửa hận, nên đều
bỏ chạy để nhà cửa trống không; tình hình như vậy mà chỉ có vài ngàn quân phòng
thủ biên giới, thì chắc số lính này cũng không có gan ở lại để phòng thủ! Tham
khảo với các sách khác, về quân số nhà Thanh thường nói bớt khoảng mười
lần!”...)
Vua Lê
Chiêu Thống chạy qua Trung Quốc, gặp Tôn Sĩ Nghị. Đi theo vua có 8 người hầu là
Hoàng Ích Hiểu, Nguyễn Quốc Đống, Lê Hân, Phạm Như Tùng, Nguyễn Viết Triệu,
Phạm Đình Thiện, Lê Văn Chương và Lê Quý Thích (KĐVSTG Cương Mục, quyển 47, bản
dịch, tr.848). Tại trấn Nam Quan, khi chia tay với Tôn Sĩ Nghị, vua nói: “Tôi
không giữ nổi xã tắc, tự biết sỉ nhục phải phiền ngài đem quân sang cứu. Tôi
lấy làm cảm kích vô cùng. Nay ngài lại bỏ tôi mà đi, tôi không dám lại làm
phiền ngài nữa. Tôi xin trở về nước, lượm lặt quân và dân để toan tính cử sự
sau này.” Tôn Sĩ Nghị nói: “Đã tâu xin thêm quân rồi. Chẳng bao lâu đại quân sẽ đến.” Tôn Sĩ Nghị mời nhà vua vào thành Quế Lâm yên nghỉ, vua theo lời. (KĐVSTG Cương
Mục, sđd như trên, tr.848).
Sau khi
ra lệnh cho quân đội tăng cường phòng thủ biên giới, vua Càn Long cho Đại thần
là Phúc Khang An đến thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, tổ chức lại
binh mã 9 tỉnh phía Nam và chuẩn bị để đánh nước ta.
Chú thích:
(1) về chức vụ của Sầm Nghi Đống: sử nhà Thanh
(Thanh Thông Sử) viết Sầm Nghi Đống là Tri châu ở Điền Châu; -Khâm Định Việt Sử
Thông Giám Cương Mục và Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên viết Sầm Nghi Đống là
Tri phủ Điền Châu;-Hoàng Lê Nhất Thống Chí viết Sầm Nghi Đống là Thái thú Điền
Châu.
(2) Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục viết Tổng
binh Quảng Đông là Trương Sĩ Long;- Thanh Thông Sử và các tài liệu khác đều viết là Tổng binh
Quảng Đông là Trương Triều Long.
(3) Trong trận Ngọc Hồi, các sách Hoàng Lê Nhất
Thống Chí, Đại Nam Liệt Truyện Chính Biên, cũng như các sử gia Trần Trọng Kim,
Nguyễn Phương, nhóm sử gia CS ở Hà Nội trong các tài liệu nghiên cứu lịch sử đều
nói rằng Quân Tây Sơn đã dùng 3 tấm ván kết lại, 10 người khiêng đi trước để đỡ đạn,
có 20 người núp đàng sau dùng đoản đao, khi đến gần thì ném bỏ tấm ván đi mà đánh
cận chiến. Nhưng theo Thanh Thông Sử và Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục
thì quân Tây Sơn đã dùng những bó rơm lớn cuốn tròn để làm bia đỡ đạn?
Nguyễn Lý Tưởng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét