(Truyện
ngắn Triệu Dương NLT)
Người
ta gọi hắn là “Anh Đồ” ví hắn là người gốc Quảng Nam là nơi có truyền thống Nho
học, đất “Ngũ Phụng Tề Phi”, nhiều người đỗ đạt thời vua chúa, thời Nho học cực
thịnh ở nước ta trong thế kỷ 19 nhất là dưới các triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự
Đức... Trước năm 1954, hắn bị kẹt trong vùng kháng chiến, không có trường học
như ở các thành phố, nên hắn vừa học chữ quốc ngữ vừa học chữ Hán với người
trong nhà. Sau 1954, hắn mới thi đậu tiểu học rồi Trung học. Ngày hắn bước chân
vô Đại Học thì tuổi đã gần 30 và đã có vợ con khi còn ở quê nhà rồi.
Hắn
ghi tên học ban Việt Hán, vị Giáo Sư trẻ biết hắn nên mỗi lần có bài mới, ông thường
nhờ hắn viết lên bảng màu đen cả bài văn chữ Hán bằng phấn trắng. Nét chữ của hắn
ngay ngắn, thẳng hàng, có hoa tay, chững chạc chẳng khác chi thầy đồ viết câu đối
thuê cho người ta vào dịp tết. Vì thế, anh chị em trong lớp thường gọi hắn là
“Anh Đồ”.
Trong
lớp có ba nàng tôn nữ, lúc nào cũng ngồi hàng ghế trước, đối diện với bàn của Thầy.
Cô thứ nhất tên Tôn Nữ Kim Lan, cô thứ hai là Tôn Nữ Chi Lan và cô thứ ba là
Tôn Nữ Diệu Lan... còn lại là đều là con trai. Hôm nào lớp đông nhất cũng khoảng
mươi người, những ngày khác chỉ còn lèo tèo năm, bảy cậu sinh viên mà thôi. Người
xứ Huế đọc Lan thành ra “Lang” (thêm chữ “g”). Khi nói chuyện với nhau thì mấy
cậu thường dùng tiếng lóng “ba cô” hay “tam lang”. Trong ba cô đó, có một cô má
lúm đồng tiền rất có duyên. Anh Đồ si mê nhất cô đó... Ngồi hàng sau, anh thường
khe khẻ ngâm :
-Một
thương má lúm đồng tiền...
Anh
kia đáp lại:
-Tam
lang ơi hỡi tam lang...
rồi
có anh chọc quê mấy cô:
-Lang
Chi?
-Lang
cẳng.
-Cẳng
chi?
-Cẳng
giò.
-Giò
chi?
-Giò
heo.
-Heo
chi?
-Heo
lang.
-Lang
chi?
-Lang
cẳng.
....
Lúc
đầu mấy cô im lặng... Nhưng về sau, mấy cô giận quá, đáp lại:
-Đồ
mất dạy!
Lại
có tiếng cười khúc khích...
-Một
thương má lúm đồng tiền...
Ra
khỏi lớp, trên đường trở về nhà, Anh Đồ nhớ lại một kỷ niệm xưa.
Mấy
năm trước đây, khi anh chưa bước chân vào Đại Học, trong xóm anh có một cô gái
đang học lớp Đệ Ngũ, Đệ Tứ gì đó (bây giờ là lớp 8, lớp 9), nhỏ người nhưng rất
xinh. Mỗi ngày đi đi, về về, ngang qua nhà cô gái, có khi gặp nhau, anh nói:
-Chào
cô em.
-Chào
chú.
Rồi
đường ai nấy đi.
Có
một đêm trăng, mùa Hè nóng nực, nghe tiếng bọn trẻ con trong xóm nô đùa trước
sân banh bên cạnh trường học, anh cũng xếp sách lại để ra ngoài hóng gió. Anh nằm
trên ghế đá, nhìn lên bầu trời trăng sao. Có tiếng chân người đi qua, anh vẫn nằm
im lặng, không lên tiếng, giọng nói của mấy cô học trò trong xóm nghe quen quen.
Anh nhận ra giọng của cô kia... Cô đến gần bên ghế đá công viên...
-Chú
cũng có mặt ở đây à?
-Trời
nóng quá.
-Mùa
Hè mà... tất cả học trò trường em đã nghỉ
rồi... ai về nhà nấy
-Tôi
chưa về được, thi cử xong, mới về.
-Rứa
à?
* * *
Anh
Đồ dựa lưng vào bức tường gỗ ở phía trong nhà trọ, mấy đứa nhỏ đứng bên ngoài:
-Chú
ơi, tụi cháu nhổ tóc bạc cho chú nghe... chú cho tiền...
-Được
rồi... Đừng làm ồn... nhổ tóc bạc đi...
Anh
Đồ cẩn thận, lấy tấm kính soi mặt để trên trang sách... Anh vừa đọc sách vừa xem
chừng chúng nó làm gì. Một đứa, rồi hai đứa thò tay qua song cửa, nắm đầu anh để
tìm tóc bạc... Anh chưa tới 30, tóc đã bạc
đâu! Nhưng thỉnh thoảng chúng vẫn tìm ra được một sợi tóc quăn mà chúng gọi là
tóc sâu. Chúng nói vọng vào:
-Tóc
sâu đây! Ngứa lắm! Nhỗ được sợi tóc này còn hơn tóc bạc nữa đó!
-Ừ,
nhổ đi, sẽ có tiền thưởng...
Mắt
Anh Đồ vẫn chăm chú nhìn vào trang sách, mấy hôm nữa, anh sẽ lều chõng đi
thi... Thi đậu rồi, phải trở về quê với vợ, đâu còn cơ hội làm anh học trò trong
Quảng ra thi nữa. Bỗng anh cảm thấy có một mùi hương thoảng thoảng, có vẻ như
là mùi hoa bưởi, cũng có thể là mùi hoa hồng. Anh nhìn vào tấm gương soi, một
khuôn mặt mới xuất hiện. Không phải là hai đứa bé kia, mà là một cô gái, một cô
học sinh đã lớn rồi. Cô tự nhiên vạch tóc anh, tìm tóc sâu, tóc bạc như mấy đứa
kia. Cô nhổ một sợi tóc bạc. Đúng là tóc bạc thật rồi! Cô trao cho hai đứa kia
để chúng được lãnh thưởng.
Qua
tấm gương soi, anh Đồ quan sát gương mặt của cô, anh khám phá ra cô có hai má
lúm đồng tiền rất có duyên... Một lát sau, cô kia lặng lẽ ra về, không nói một lời.
Trò chơi đã kết thúc.
Anh
Đồ bàng hoàng như đã đánh mất một vật gì quý giá. Anh Đồ tuy lớn tuổi, đã có vợ, nhưng trong xóm người ta vẫn nghĩ rằng anh là học trò ở tỉnh xa đến trọ học,
trông anh bề ngoài rất trẻ, cao trung bình, da trắng có vẻ đang tuổi học trò.
Anh Đồ có cảm tình với cô gái nhưng nghĩ mình cũng xuất thân từ một gia đình
gia giáo, Nho học, cũng được làng xóm kính trọng. Học trò trong Quảng ra thi,
không lẽ bây giờ mình cũng đang ở vào hoàn cảnh đó? Trước mắt là phải thi đậu để
thi vào Đại Học, phải đạt được chút công danh với đời, tối thiểu là làm giáo sư
Trung Học, có lương tiền nuôi bản thân và được một cuộc sống an nhàn... Có tiền
rồi, muốn gì chẳng được.
Người
vợ ở nhà quê của anh, tuổi xấp xỉ chồng, đã có con, chỉ lo chăn nuôi, trồng trọt,
phụng dưỡng cha mẹ già để cho anh được rảnh tay mà ra Huế lập công danh. Dù
nàng không đẹp bằng mấy cô gái Huế, nhưng siêng năng và đức hạnh thì không ai bằng!
Anh
ghi tên học Đại Học và xin được một chỗ trong cư xá sinh viên, lại gặp được ba
cô Tôn Nữ học cùng lớp. Anh rời bỏ xóm cũ và cũng quên cô học trò trung học
kia. Hết niên học, ba cô Tôn Nữ ghi tên học lớp khác, anh lại thi vào Sư Phạm,
vừa dạy trường tư, có học bỗng, có lương dạy giờ, anh mua xe gắn máy, sắm bộ đồ
vét (veste)... Anh giao thiệp với nhiều cô giáo, thầy giáo và cả những học sinh Đệ Nhị Cấp, ban Tú Tài... Chiếc xe vespa của anh nay ghé nhà này, mai ghé nhà
khác... đến đâu cũng được ân cần mời mọc.
Trải
qua biến cố Tết Mậu Thân (1968), bạn bè nhiều người chết, nhà cửa tan nát,
riêng anh vẫn bình yên. Một hôm, anh chạy xe ngang qua trước cổng sân nhà thờ
Công Giáo, thấy người vô ra tấp nập. Thánh lễ vừa xong, một cô gái từ trong sân
nhà thờ đi ra. Đúng là cô học trò má lúm đồng tiền ngày xưa. Anh chưa kịp mở lời
thì cô đã lên tiếng:
-Chào
chú, lâu ngày mới gặp lại.
-Chào
em, em khỏe không, nay làm gì?
Cô
chỉ mỉm cười không nói gì thêm. Đường ai nấy đi.
Thế
rồi, anh bôn ba theo công việc của mình, vẫn đi dạy học kiếm tiền. Lấy lý do cha mẹ già không người săn sóc, anh
vẫn để cho vợ và mấy đứa con đã lớn ở với ông bà nội; còn anh vẫn độc thân. Ngồi
trên xe vespa, anh nhớ lại một câu thơ của thi sĩ Nguyễn Du trong truyện Kiều,
rồi anh khe khẻ ngâm : “Bụi hồng lẻo đẻo đi về một thân” . Có lần anh hỏi một học
sinh trong lớp:
-Hai
chữ “bụi hồng” ở trong câu thơ này là cái gì?
-Thưa
đầy, đó là “cụm hoa hồng” người ta trồng ở trong vườn cạnh đường đi.
-Không
phải. “Bụi hồng” là “cát bụi” bay lên dưới chân khi Kim Trọng cô đơn trên đường
trở về nhà .
Hoàn
cảnh của Anh Đồ bây giờ cũng như Kim Trọng, sống một thân một mình xa cách người
yêu. Ai cũng biết Vương Thúy Kiều là người yêu của Kim Trọng, còn người yêu của
anh là ai ? Anh tự đặt ra câu hỏi và không biết trả lời sao cho đúng. Anh quen
biết nhiều cô còn độc thân: giáo viên tiểu học, giáo sư trung học, học sinh ban
Tú Tài,v.v... cô nào cũng trẻ, đẹp. Nhưng anh chưa dám tỏ tình với ai vì còn kẹt
bà vợ ở nhà đang thay anh để phụng dưỡng cha mẹ chồng.
Năm
1975, đang giữa mùa Xuân, tình hình chiến
sự bỗng sôi động, Việt Cộng chiếm đóng thành phố Ban Mê Thuộc, toàn bộ Quân
Đoàn II ở Pleiku di tản (đúng hơn là bỏ chạy) đồng bào chạy theo lính, bị Việt
Cộng chận đánh dọc đường, bị pháo kích, chết sấp chết ngả. Vùng địa dầu giới
tuyến: mất Quảng Trị, mất Huế rồi Quân Đoàn I ở Đà Nẵng cũng rút đi luôn. Dân
chúng hoảng hốt, lo tìm đường chạy vô Nam. Anh Đồ cũng bị động theo hoàn cảnh
lúc đó, không biết tính làm sao, nên cũng xách valise nhảy lên một chiếc ghe
đánh cá của dân làng di cư Thanh Bồ-Đức Lợi dọc bờ biển Đà Nẵng để chạy vô Vũng
Tàu.
Trải
qua mấy ngày chết đói, chết khát với những trận mưa ngoài biển mang theo khí lạnh,
cuối cùng anh về tới biển Long Hải (Bà Rịa). Anh đã chứng kiến cảnh một gia
đình từ miền Trung vào bằng tàu nhỏ, bị chìm, đàn bà con nít rơi xuống biển chết
hết, chỉ một mình người chồng còn sống, thất thểu bước đi trên bãi cát dưới ánh
nắng mặt trời thiêu đốt của Miền Nam. Thấy người ta trong cảnh hoạn nạn như vậy,
anh cũng mũi lòng. Nhìn lại mình, cũng bơ vơ trong cảnh loạn lạc. Dân Bắc di cư
từ sau Hiệp định Genève vốn đã có kinh nghiệm, nghe Cộng Sảm tới thì tìm đường
chạy trước. Anh có người bạn, cũng là dân Bắc Kỳ Công Giáo di cư, hễ thấy anh
ta đi đâu, vào nhà nào thì anh cứ chạy theo, không cần suy nghĩ gì hết.
Gia
đình người bạn đã thuê được một chiếc ghe đánh cá, tính chuyện vượt biển. Anh
liền xin chung góp một phần tiền để được đi theo họ. Tin tức từ một xứ đạo của
người Bắc di cư cho biết có chiếc tàu chở hàng của Mỹ đang đậu ngoài khơi và
hàng ngàn người đang đợi ở Phước Tĩnh để lên tàu đó. Tất cả mọi người trong gia
đình lên ghe đánh cá trực chỉ hướng chiếc tàu kia. Khi đến gần, quả thật đã có
hàng ngàn người đang lần lượt leo lên tàu lớn. Nhóm của anh cũng nhập vào đoàn
người kia để lên tàu.
Từ
mặt nước lên đến mũi tàu khoảng 15 mét. Trên tàu đã thả xuống một thang dây để
cho mọi người leo lên. Cảnh những bà mẹ tay bồng con dại leo lên tàu trông thật
rợn người, nếu lỡ truột tay, rớt xuống biển thì ôi thôi rồi... làm mồi cho cá mập!
Cuối cùng thì anh và cả gia đình người bạn cũng đã có mặt ở dưới hầm tàu.
Lính
Mỹ bắt đầu phát thực phẩm khô và nước uống cho mọi người. Anh ngồi thu mình trong
góc của căn hầm, mỗi khoang cũng có cả ngàn người, chen chúc nhau. Người anh
như đã kiệt sức, mắt hoa, tai kêu ù ù, đầu choáng váng . Ngay trước mặt anh,
phía góc bên kia, lờ mờ hiện ra hình ảnh một thiếu phụ đang ngồi với mấy đứa
con, đứa nhỏ nhất đang nằm trên tay mẹ, miệng ngậm bình sữa. Người mẹ có vẻ
quen quen, tuồng như đã gặp ở đâu rồi? Nhưng anh đang ở trong hoàn cảnh khủng
hoảng tột độ nên không còn can đảm đứng lên để hỏi thăm. Anh cố định thần để
nhìn về hướng đó... Một hồi lâu, anh mới nhớ ra, người thiếu phụ còn non trẻ đó
chính là cô gái má lúm đồng tiền trong xóm ngày xưa mà anh đã nhiều lần gặp. Mấy năm trước đây, anh nghe tin cô gái đã có
chồng, có con... có lẽ bây giờ chồng cô đang chiến đấu ngoài mặt trận... hay đã
chết rồi! Anh lặng người đi một lúc và âm thầm cầu nguyện...
Chiếc
tàu đó đã không đưa anh đến bến bờ tự do mà chỉ đưa anh thoát ra khỏi Saigon
trước ngày 30/4/1975. Gần mười ngàn người trên tàu được đưa đến đảo Phú Quốc và
ngay khi tất cả mọi người vừa xuống bờ thì các đài ngoại quốc và cả đài phát
thanh Saigon, đài Hà Nội,v.v. đều loan báo: Tân Tổng Thống Dương Văn Minh đã
tuyên bố đầu hàng! Quân Bắc Việt đã kiểm soát toàn bộ Miền Nam Việt Nam! Một trận
mưa lớn đã đổ xuống ào ạt trên đảo Phú Quốc và Vịnh Thái Lan. Mùa mưa đã đến sớm!
NLT
9/9/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét