Vài bài thơ thiền của Huyền Quang
Huyền Quang (1254-1344 ) tên thật là Lý đạo Tái người châu Nam Sách. Từ nhỏ , ông có khiếu văn chương, năm 21 tuổi đỗ đầu kỳ thi Hương , được bổ làm quan ở Hàn Lâm Viện và nhận mệnh vua tiếp sứ Trung Quốc . Khi ông theo vua Trần Anh Tông đến chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Phượng Nhãn để nghe sư Pháp loa giảng kinh , liền có ý muốn xuất gia . Sau đó mấy lần ông xin từ chức để đi tu , được vua Trần Anh Tông chấp nhận và giao cho sư Pháp Loa hướng dẫn . Ông trở thành vị tổ thứ ba của dòng thiền Trúc Lâm .
Mailoc
Xuân nhật tức sự
Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả liên vô hạn thương xuân ý,
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
Dịch nghĩa
Người đẹp tuổi vừa đôi tám, ngồi thêu gấm chậm rãi,
Dưới lùm hoa tử kính đang nở, líu lo tiếng chim oanh vàng.
Thương biết bao nhiêu cái ý thương xuân của nàng,
Cùng dồn lại ở một giây phút, đứng kim và im phắc .
Dịch Thơ
Tức cảnh ngày xuân
Nhẹ tay thêu gấm gái xinh xinh
Hoa rợp chuyền cành ríu rít oanh .
Thương quá ý xuân thương biết mấy ,
Khi nàng dừng chỉ bặt âm thanh .
Mailoc
Phiếm Chu
Tiểu đỉnh thừa phong phiếm diểu mang ,
Sơn thanh , thủy lục hựu thu quang .
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngọai ,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn thiên .
Huyền Quang
Dịch Nghĩa :
Chiếc thuyền con lướt gió trên dòng sông bát ngát
Non xanh nước biếc lại thêm mùa thu
Vài tiếng sáo làng chài ngoài khóm lau
Trăng rơi đáy sóng , mặt sông sương đầy
Dịch thơ
Đi Thuyền
Theo gió thuyền con nước lững-lờ,
Non xanh nước biếc nắng thu mơ ,
Thuyền chài tiếng sáo vờn lau-lách ,
Trăng rụng sương giăng sóng nước mờ .
Mailoc
THẠCH THẤT
Bán gian thạch thất hóa vân trụ ,
Nhất lĩnh xôi y kinh tuế hàn .
Tăng tại sàng kinh tại án ,
Lô tàn cốt đột nhật tam can .
Huyền Quang
Nghiã :
Nửa gian nhà đá ở trong mây
Trải qua mùa đông lạnh-lẽo với một áo xồi
Sư ở giường thiền ,kinh ở trên bàn
Bếp tàn tro lạnh , mặt trời đã ba trượng .
Dịch thơ :
NHÀ ĐÁ
Nhà đá mây mờ phủ nửa gian ,
Áo thô chống chọi với đông hàn .
Thiền sàng tăng tọa , kinh trên án ,
Bếp lạnh tro tàn , đã sáng choang .
Mailoc
********************************
I- Phỏng dịch bài XUÂN NHẬT TỨC SỰ:
NGÀY XUÂN CẢM TÁC
Người đẹp trăng tròn chăm chỉ thêu
Dưới vòm hoa nở, tiếng oanh kêu
Thương xuân, bất chợt dừng kim chỉ
Giây phút càm hoài sao đáng yêu !
II-Phỏng dịch bài PHIẾM CHU
DẠO CHƠI
Trên sông bát ngát, gió đưa thuyền
Thu đến, non xanh nước biếc thêm
Tiếng sáo làng chài sau bãi sậy
Trăng chìm đáy nước phủ sương đêm
III-- Phỏng dịch bài THẠCH THẤT
Nửa gian nhà đá ẩn trong mây
Một chiếc áo thô giữa tuyết dày
Sư tọa giường thiền, kinh án sách
Tro tàn bếp lạnh giữa ban ngày.
Phương Hà phỏng dịch
******************************************
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần : Bản Tiếng Hán Cổ, Chú Thích và Diễn nôm mỗi bài thơ của Thiền sư Huyền Quang (1254-1344 ) đời vua Trần Anh Tông như sau đây :
春日即事
二八佳人刺繡持,
紫荊花下轉黃鸝。
可憐無限傷春意,
盡在停針不語時。
Xuân nhật tức sự
Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả liên vô hạn thương xuân ý,
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
CHÚ THÍCH :
TRÌ 持 : Có Bộ THỦ bên phải, nên có nghĩa là Cầm, Giữ, Nắm, Bắt... Khác với chữ TRÌ 遲 : Có Bộ Xước là Bước đi, có nghĩa là Chậm, Hưỡn, Trì Trệ... Nên Câu đầu có nghĩa :
" Người đẹp chừng đôi tám đang CẦM (cái bàn căng) để thêu thùa." Đây chỉ là cách nói theo Ý thơ của tiếng Hán cổ mà thôi. Ta phải hiểu Ý của câu thơ "Nhị bát giai nhân thích Tú trì" là:
"Người đẹp chừng đôi tám đang ngồi thêu" thế thôi!
Câu 2: Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
TỬ KINH HOA: là Loại Hoa màu Tím có nhiều Gai. CHUYỄN:là UYỂN CHUYỂN, ta nói là Líu Lo. HOÀNG LY: là Một tên gọi khác của chim HOÀNG OANH. Nên Câu thơ có nghĩa :
" Dưới khóm hoa Tử Kinh, chim hoàng oanh đang hót líu lo ".
Câu 3: Khả liên vô hạn thương xuân ý,
KHẢ LIÊN hay KHẢ LÂN cũng thế : Có nghĩa là Tội Nghiệp, là Đáng Thương. VÔ HẠN: là Vô Cùng,là Biết Bao ! THƯƠNG XUÂN Ý: là Cái Ý thương cảm cho mùa Xuân sẽ chóng qua, chóng tàn. Nên câu 3 có nghĩa :
" Thương thay cái lòng thương cảm cho mùa Xuân của nàng biết bao nhiêu, khi..."
Câu 4: Tận tại đình châm bất ngữ thì.
TẬN TẠI... THÌ: có nghĩa: Tất cả đều ở Cái lúc... ĐÌNH CHÂM: là Ngừng Kim thêu lại. BẤT NGỮ là Không nói, là Trầm Ngâm nên Câu thơ có nghĩa :
" Khi... Tất cả (lòng thương Xuân của nàng) đều diễn ra trong cái giây phút (Cái Lúc) mà nàng trầm ngâm khi ngừng mũi kim thêu lại!
DIỄN NÔM :
TỨC CẢNH NGÀY XUÂN
Đôi tám giai nhân thêu dưới hoa,
Hoàng oanh ríu rít líu lo ca.
Thương Xuân vô hạn lòng ngơ ngẩn,
Trong lúc dừng kim dạ xót xa!
Đỗ Chiêu Đức.
Ý THIỀN của Bài thơ :
Giai nhân rồi sẽ Xấu đi, tuổi đôi tám rồi sẽ già nua, Hoa nở rồi sẽ tàn, Oanh hót rồi cũng ngưng, Xuân thắm rồi cùng tàn phai... Trong một sát-na dừng đường kim mũi chỉ người đẹp chợt chạnh lòng thương cảm cho mùa Xuân chóng tàn mà cũng là để thương cảm cho sắc đẹp à tuỏi trẻ của mình rồi cũng sẽ qua mau!...
"Cuộc sống của người đời cũng có khác chi đâu?!"
泛舟
小艇乘風泛渺汒,
山青水綠又秋光。
數聲漁笛蘆花外,
月落波心江滿霜。
Phiếm chu
Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang,
Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
CHÚ THÍCH :
PHIẾM CHU 泛舟 : PHIẾM có 3 chấm thủy một bên, nên có nghĩa là TRÔI NỔI. CHU là Ghe Xuồng. PHIẾM CHU là Để mặc cho chiếc Thuyền trôi nổi trên sông. Trong bài TIỀN XÍCH BÍCH PHÚ mở đầu bằng câu : "Nhâm Tuất chi thu, thất nguyệt kí vọng, Tô Tử dữ khách PHIẾM CHU..." là chữ PHIẾM CHU nầy đó.
CÂU 1 : Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang.
TIỂU ĐĨNH: là Chiếc Thuyền nhỏ. THỪA PHONG: là Cởi gió, là Đón gió. PHIẾM là Trôi nổi. DIỂU MANG: là Mênh mông Vô tận. Câu 1 có nghĩa :
"Chiếc thuyền con trôi nổi theo chiều gió trên dòng nước mênh mông vô tận."
CÂU 2 : Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang.
SƠN THANH: là Núi Xanh. THỦY LỤC: là Nước Xanh. HỰU là Lại. THU QUANG: là Quang cảnh Mùa Thu. Câu 2 có nghĩa:
"Lại cũng quang cảnh của mùa thu với núi xanh nước biếc."
CÂU 3: Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
SỔ THANH: SỔ là Một Vài. SỔ THANH là Một vài âm thanh, là Một vài tiếng. NGƯ 漁 nầy có 3 chấm Thủy, có nghĩa : Thuộc Về Cá, nên NGƯ ĐỊCH: là Tiếng Sáo của những người đánh cá. LÔ HOA: là Hoa Lau Hoa Sậy. NGOẠI: là bên ngoài, phía ngoài. Câu 3 có nghĩa:
"Ngoài xa của đám hoa lau là tiếng sáo vẳng đưa của các dân chài." (Tiếng sáo không thể đếm được, nên không thể nói là MỘT VÀI tiếng sáo. Vì tiếng sáo trên sông vẳng đưa theo gió nên nghe khi được khi mất. Chớ không phải có NHIỀU NGƯỜI thổi sáo! Chữ SỔ được thoáng dịch là Văng Vẳng là vì thế!).
CÂU 4 : Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
NGUYỆT LẠC : là Trăng lặn. BA TÂM: là Giữa lòng sóng. GIANG MÃN SƯƠNG: là Sông đầy cả sương. Câu 4 có nghĩa:
"Khi trăng lặn xuống giữa lòng sóng nhấp nhô (ở tận chân trời) thì sương cũng xuống tràn ngập cả dòng sông.
DIỄN NÔM :
THẢ THUYỀN
Thuyền con trôi nổi gió xuôi dòng,
Nước biếc núi xanh thu mênh mông.
Tiếng sáo vẳng đưa bờ lau sậy,
Sóng dìm trăng lặn móc đầy sông !
Đỗ Chiêu Đức
石室
半間石室和雲住,
一領毳衣經歲寒。
僧在禪床經在案,
爐殘榾柮日三竿。
Thạch thất
Bán gian thạch thất hoà vân trụ,
Nhất lĩnh tuyệt y kinh tuế hàn.
Tăng tại thiền sàng kinh tại án,
Lô tàn cốt nột nhật tam can.
CHÚ THÍCH :
THẠCH THẤT: là Nhà hoặc Phòng được xây bằng đá.
CÂU 1: Bán gian thạch thất hoà vân trụ,
BÁN GIAN: là Nửa Gian Nhà hoặc Nửa Căn Phòng. HÒA là Cùng Với. VÂN TRỤ: là Cột bằng Mây. Câu 1 có nghĩa:
" Nửa gian phòng bằng đá cùng với những cây cột bằng mây. " Ý chỉ ở trong hang đá có mây vần vũ trông như những cây cột bằng mây.
CÂU 2: Nhất lĩnh tuyệt y kinh tuế hàn.
NHẤT LĨNH: là Mạo từ, có nghĩa là Một Chiếc, một cái. TUYỆT Y: là Áo được kết bằng lông Vịt, lông chim... mặc cho ấm và cho đừng ướt. KINH : là Trải qua, kinh qua. TUẾ HÀN: là Cuối năm lạnh lẽo. Câu 2 có nghĩa:
" Chỉ với một chiếc áo tơi kết bằng lông chim mặc cho qua năm tàn lạnh lẽo."
CÂU 3 : Tăng tại thiền sàng kinh tại án,
THIỀN SÀNG: là Cái giường để ngồi thiền. KINH: là Kinh Sách. ÁN: là Án Thư, là Cái bàn để để sách. Câu 3 có nghĩa:
" Nhà sư thì ngồi trên cái giừong dùng để ngồi thiền còn kinh sách thì để trên bàn."
CÂU 4: Lô tàn cốt nột nhật tam can.
LÔ TÀN: là Lò lửa đã tàn. CỐT NỘT : là Những mẩu gỗ đã cháy tàn. NHẬT TAM CAN: CAN là Cây sào, nên NHẬT TAM CAN là Mặt trời đã lên 3 sào rồi. Câu 4 có nghĩa:
" Lò đã tắt, củi đã tàn, có nghĩa là đêm đã sáng và mặt trời đã mọc lên 3 sào rồi !".
DIỄN NÔM :
PHÒNG ĐÁ
Nửa gian phòng đá cột là mây.
Một chiếc áo tơi với tháng ngày.
Thiền tịnh trên giừong kinh trên án,
Tro tàn lò tắt mặt trời đầy!
Đỗ Chiêu Đức
***********************************
Bài 1. NGÀY XUÂN
Mùa xuân mười tám ngồi khâu áo
Chim nhỏ hoàng oanh hót líu lo
Chạnh lòng giây phút xuân thương cảm
Ngưng bặt đường kim mối chỉ vò.
Bài 2. THUYỀN TRÔI
Sông lặng thuyền con theo gió cuốn
Núi xanh nước biếc cảnh sang thu
Lau sậy làng chài vang tiếng sáo
Trăng chìm giữa sóng sương giăng mù.
Bài 3. NHÀ ĐÁ
Nhà đá nửa gian mây khép cột
Áo lông một mảnh tháng năm bền
Thiền tịnh tại giường kinh tại án
Củi tàn lửa tắt mặt trời lên.
Nguyễn Đắc Thắng
20140324
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét