Đông Triều Tảo Phát
Thái Thuận
Thần kê do vị báo,
Khách trạo khởi giang tâm.
Nguyệt đạm sơn tà thuý,
Triều hàm thuỷ dược câm (kim).
Sa âu phong lãnh lãnh,
Ngư phố thụ âm âm.
Thuỳ vịnh Thương Lang khúc,
Tiền thôn kinh thuỵ cầm.
Khách trạo khởi giang tâm.
Nguyệt đạm sơn tà thuý,
Triều hàm thuỷ dược câm (kim).
Sa âu phong lãnh lãnh,
Ngư phố thụ âm âm.
Thuỳ vịnh Thương Lang khúc,
Tiền thôn kinh thuỵ cầm.
Dịch nghĩa:
Sớm Ra Đông Triều
Gà sáng chưa báo tin,
Chèo khách đã động lòng sông.
Ánh nguyệt nhuộm lợt ngàn non xế biếc,
Thủy triều ngậm tràn làn nước nhẫy vàng.
Gió lành lạnh thổi đoàn sa âu,
Cây rậm rậm nơi bến đánh cá.
Ai hát khúc Thương Lang,
Khiến bầy chim đang ngủ ở trước thôn giật mình
Chèo khách đã động lòng sông.
Ánh nguyệt nhuộm lợt ngàn non xế biếc,
Thủy triều ngậm tràn làn nước nhẫy vàng.
Gió lành lạnh thổi đoàn sa âu,
Cây rậm rậm nơi bến đánh cá.
Ai hát khúc Thương Lang,
Khiến bầy chim đang ngủ ở trước thôn giật mình
Dịch Thơ :
(1)
Gà sớm chưa xao xác
Khách chèo đã khuấy sông.
Núi nhuộm trăng tà nhạt
Vàng ngấn triều mênh mông
Gió lạnh cò phiêu bạt
Bến cá cổ thụ lồng
Khúc Thương Lan ai hát?
Chim muông tỉnh giấc nồng.
(2)
Còn tinh mơ gà thôn chưa gáy,
Khách thuyền sông khua mái trên dòng.
Trăng tà núi nhạt mông lung
Vàng gieo sóng biếc mênh mông nước triều.
Gió sớm lạnh phiêu phiêu cò trắng,
Cổ thụ lồng im ắng chài thôn.
Thương Lan giọng hát ai buồn,
Giật mình ríu rít chim muông gọi bầy.
Mailoc
01-18-18
Sơ Xuân
Tam đông quá liễu nhất xuân quy,
Tác noãn đông phong phóng phóng xuy.
Băng tuyết đống ngân phô thuỷ diện,
Kiền khôn sinh ý thượng lâm chi.
Liễu hoàn cựu lục oanh do tĩnh,
Đào thí tân hồng điệp vị tri.
Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,
Thảo tâm du tử bất thăng bi.
Tác noãn đông phong phóng phóng xuy.
Băng tuyết đống ngân phô thuỷ diện,
Kiền khôn sinh ý thượng lâm chi.
Liễu hoàn cựu lục oanh do tĩnh,
Đào thí tân hồng điệp vị tri.
Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,
Thảo tâm du tử bất thăng bi.
Sơ Xuân
Đông qua, Xuân lại trở về đây,
Trãi ấm từng cơn gió nhẹ bay.
Ngấn tuyết băng lưa dờn dợn sóng,
Đức kiền khôn rãi đượm đà cây.
Xanh xưa nhuộm liễu oanh còn nín,
Hồng mới tô đào bướm chửa hay.
Ngoảnh lại quê hương trời xẩm tối,
Ngậm ngùi tấc cỏ dễ mà khuây!
Trãi ấm từng cơn gió nhẹ bay.
Ngấn tuyết băng lưa dờn dợn sóng,
Đức kiền khôn rãi đượm đà cây.
Xanh xưa nhuộm liễu oanh còn nín,
Hồng mới tô đào bướm chửa hay.
Ngoảnh lại quê hương trời xẩm tối,
Ngậm ngùi tấc cỏ dễ mà khuây!
Quách Tấn
Hoạ với Quách Tấn:
Xuân Sớm
Đông đã tàn, Xuân trở lại đây
Chan hoà khí ấm gió bay bay.
Tuyết phô băng giá vờn vờn nước
Mầm ẩn Đất Trời trổi trổi cây.
Tơ liễu non xanh oanh chửa hót,
Đào hồng hàm tiếu bướm chưa hay.
Ngoảnh nhìn quê cũ hoàng hôn xuống,
Tấc cỏ hương lòng dạ khó khuây.
Mailoc
01-26-18
Xuân Sớm
Đông đã tàn Xuân về lấp ló,
Ấm chan hoà quyện gió hây hây.
Tuyết băng sóng gợn lớp dầy,
Đất Trời mầm sống trổi đầy rừng xanh.
Liễu non tơ yến oanh chưa hót,
He hé đào bướm biếng chưa hay.
Chiều nhìn quê cũ xa xăm
Niềm thương tấc cỏ lệ đằm khôn khuây.
Mailoc
01-26-18
Thái Thuận (1440?) tự là Nghiã Hoà, hiệu là Lục Khê, người làng Liễu Lâm,
tỉnh Bắc Ninh, đậu tiến sĩ năm 1475( niên hiệu Hồng Đức thứ 6). Ông làm quan ở Nội Các Viện hơn 20 năm, sau được bổ làm Tham Chính tỉnh Hải Dương, đặc cách giử chức phó nguyên súy hội Tao Đàn
*****
Đỗ Chiêu Đức tham gia với các phần sau đây:
1. Bản chữ Hán cổ của bài thơ Đông Triều Tảo Phát :
東潮早發 ĐÔNG TRIỀU TẢO PHÁT
晨雞猶未报, Thần kê do vị báo,
客棹起江心。 Khách trạo khởi giang tâm.
月淡山斜翠, Nguyệt đạm sơn tà thúy,
潮鹹水躍金。 Triều hàm thuỷ diệu câm(kim).
沙鷗風冷冷, Sa âu phong lãnh lãnh,
漁浦樹陰陰。 Ngư phố thọ âm âm.
誰詠滄浪曲, Thùy vịnh Thương Lang khúc ?
前村驚睡禽。 Tiền thôn kinh thụy cầm.
晨雞猶未报, Thần kê do vị báo,
客棹起江心。 Khách trạo khởi giang tâm.
月淡山斜翠, Nguyệt đạm sơn tà thúy,
潮鹹水躍金。 Triều hàm thuỷ diệu câm(kim).
沙鷗風冷冷, Sa âu phong lãnh lãnh,
漁浦樹陰陰。 Ngư phố thọ âm âm.
誰詠滄浪曲, Thùy vịnh Thương Lang khúc ?
前村驚睡禽。 Tiền thôn kinh thụy cầm.
2. Chú thích:
TẢO PHÁT : là Khởi hành xuất phát sớm.
THẦN KÊ : là Gà buổi sáng.
TRIỀU HÀM THỦY DIỆU KIM : Nước mặn nên gợn sóng lắp lánh như những gợn vàng.
NGƯ PHỐ : là Bến cá. Ở đây chỉ bến câu của các thuyền câu thường đậu.
THƯƠNG LANG KHÚC : là Khúc hát Thương Lang, tên của một khúc hát của các Ngư phủ trong sách Khuất Nguyên nước Sở xưa.
KINH : là Sợ. Ở đây có nghĩa là Giật mình.
3. Dịch nghĩa:
Khởi hành sáng sớm ở Đông Triều
Tiếng gà buổi sáng còn chưa kịp gáy thì mái chèo của khách đã quẩy động lòng sông rồi. Ánh trăng nhàn nhạt chiếu lên triền núi nghiêng nghiêng xanh biếc và làm dậy lên những dợt sóng do nước mặn lắp lánh tựa những gợn vàng lăn tăn. Gió sớm thổi lành lạnh trên bãi cát của chim hải âu và trên bến của các ngư ông hàng cây còn âm u im lìm đứng lặng. Văng vẳng xa đưa tiếng của ai đang hát khúc Thương Lang làm cho các con chim đang ngủ ở xóm trên giật mình thức giấc.
Khởi hành sáng sớm ở Đông Triều
Tiếng gà buổi sáng còn chưa kịp gáy thì mái chèo của khách đã quẩy động lòng sông rồi. Ánh trăng nhàn nhạt chiếu lên triền núi nghiêng nghiêng xanh biếc và làm dậy lên những dợt sóng do nước mặn lắp lánh tựa những gợn vàng lăn tăn. Gió sớm thổi lành lạnh trên bãi cát của chim hải âu và trên bến của các ngư ông hàng cây còn âm u im lìm đứng lặng. Văng vẳng xa đưa tiếng của ai đang hát khúc Thương Lang làm cho các con chim đang ngủ ở xóm trên giật mình thức giấc.
4. Diễn nôm:
Gà còn chưa gáy sáng,
Chèo khách đã khua vang.
Trăng mờ non xa biếc,
Nước xanh sóng gợn vàng.
Gió lạnh bờ cát vắng,
Cây mờ bến cá ngang.
Ai hát Thương Lang khúc,
Giật mình chim đầu làng.
Lục bát :
Tiếng gà sáng chửa gáy vang,
Mái chèo khách đã sẵn sàng bến sông.
Núi xanh trăng chiếu mênh mông,
Nước xanh gợn sóng lăn tăn ánh vàng.
Lạnh lùng gió sớm thổi sang,
Âm u cây bến mơ màng ngư ông.
Thương Lang ai hát giữa dòng,
Giật mình chim bến bên sông thôn ngoài.
Gà còn chưa gáy sáng,
Chèo khách đã khua vang.
Trăng mờ non xa biếc,
Nước xanh sóng gợn vàng.
Gió lạnh bờ cát vắng,
Cây mờ bến cá ngang.
Ai hát Thương Lang khúc,
Giật mình chim đầu làng.
Lục bát :
Tiếng gà sáng chửa gáy vang,
Mái chèo khách đã sẵn sàng bến sông.
Núi xanh trăng chiếu mênh mông,
Nước xanh gợn sóng lăn tăn ánh vàng.
Lạnh lùng gió sớm thổi sang,
Âm u cây bến mơ màng ngư ông.
Thương Lang ai hát giữa dòng,
Giật mình chim bến bên sông thôn ngoài.
Đỗ Chiêu Đức
1. Bản chữ Hán cổ bài thơ SƠ XUÂN của THÁI THUẬN :
初春 SƠ XUÂN
三冬過了一春歸, Tam đông qúa liễu nhất xuân qui,
乍暖東風放放吹。 Sạ noãn đông phong phóng phóng xuy.
冰雪凍痕鋪水面, Băng tuyết đống ngân phô thủy diện,
乾坤生意上林枝。 Càn khôn sanh ý thượng lâm chi.
柳還舊綠鶯猶靜, Liễu hoàn cựu lục oanh do tĩnh,
桃試新紅蝶未知。 Đào thí tân hồng điệp vị tri.
日暮鄉關迴首望, Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,
草心遊子不塍悲。 Thảo tâm du tử bất thăng bi !
蔡順 Thái Thuận
2. Chú thích:
SƠ XUÂN : Mới bắt đầu mùa xuân, là Chớm Xuân, là Đầu Xuân.
TAM ĐÔNG : Chỉ 3 tháng của mùa đông.
SẠ NOÃN : SẠ 乍 là Bất chợt, Bỗng nhiên, Mới vừa. SẠ NOÃN là Chợt ấm lên
NGÂN 痕 : là Vết sẹo, là Dấu vết.
SANH Ý 生意 : là Cái ý sống, cái ý sinh tồn. Sau dùng rộng ra chỉ Sự làm ăn buôn bán của con người để kiếm sống.
THẢO TÂM : Nỗi lòng của tấc cỏ.
3. Nghĩa bài thơ:
CHỚM XUÂN
Mùa xuân vừa mới trở về sau ba tháng của mùa đông đã qua đi rồi. Trời chợt ấm lại nên gió xuân từ hướng đông đã hay hẩy thổi đến. Dấu ấn của băng tuyết còn sót lại bày ra trên mặt nước, và ý sống của đất trời đã nẩy mầm trên các cành ngọn của cây rừng. Liễu thì vẫn xanh tốt như xưa, và đào thì đã trổ màu hồng mới nhưng bướm vẫn còn chưa hay biết. Trời chiều quay đầu trông ngóng về phía quê xa, tấc lòng của người con du tử không tránh khỏi nỗi xót xa !
Bài thơ Sơ Xuân của Thái Thuận đọc lên nghe như có âm vang hơi hám của thuở Thịnh Đường, ngay từ câu đầu tiên :
三冬過了一春歸 Tam đông qúa liễu nhất xuân quy.
Từ " Tam đông " làm ta nhớ đến từ " Tam xuân " trong 2 câu trong bài " Du Tử Ngâm " của Mạnh Giao đời Đường là :
誰言寸草心, Thuỳ ngôn thốn thảo tâm,
報得三春暉. Báo đắc Tam Xuân huy.
mà cụ Nguyễn Du đã thoát dịch rất hay là :
"Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân"
Ta thấy từ "Thảo Tâm Du Tử" : Tấc lòng của người con du tử, lại được Thái Thuận sử dung ở câu cuối:
草心遊子不塍悲。 Thảo tâm du tử bất thăng bi ! (Tấm lòng như tấc cỏ của người con du tử không tránh khỏi buồn thương ray rức )...
và nhất là câu:
日暮鄉關迴首望, Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,
lại làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu là:
日暮鄉關何處是? Nhật mộ hương quan hà xứ thị
煙波江上使人愁。 Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!
4. Diễn nôm:
CHỚM XUÂN
Ba tháng đông qua xuân lại thay,
Gió xuân hây hẩy ấm lòng ai.
Dấu tàn băng tuyết in dòng nước,
Chồi mới đất trời biếc ngọn cây.
Liễu đã xanh om oanh vắng tiếng,
Đào đà đỏ nụ bướm chưa hay.
Quay nhìn quê cũ khi chiều xuống,
Du tử bồi hồi mắt lệ cay !
Lục bát :
Đông qua nay lại chớm xuân,
Khí trời chợt ấm gió đông lào xào.
Nước trôi băng tuyết dạo nào,
Rừng cây nẩy lộc chồi cao xanh cành.
Liễu buồn oanh hãy vắng tanh,
Đào buồn vắng bướm cành xanh ửng hồng.
Trời chiều quê cũ vời trông,
Bồi hồi du tử chạnh lòng xót xa !
Đỗ Chiêu Đức
SƠ XUÂN : Mới bắt đầu mùa xuân, là Chớm Xuân, là Đầu Xuân.
TAM ĐÔNG : Chỉ 3 tháng của mùa đông.
SẠ NOÃN : SẠ 乍 là Bất chợt, Bỗng nhiên, Mới vừa. SẠ NOÃN là Chợt ấm lên
NGÂN 痕 : là Vết sẹo, là Dấu vết.
SANH Ý 生意 : là Cái ý sống, cái ý sinh tồn. Sau dùng rộng ra chỉ Sự làm ăn buôn bán của con người để kiếm sống.
THẢO TÂM : Nỗi lòng của tấc cỏ.
3. Nghĩa bài thơ:
CHỚM XUÂN
Mùa xuân vừa mới trở về sau ba tháng của mùa đông đã qua đi rồi. Trời chợt ấm lại nên gió xuân từ hướng đông đã hay hẩy thổi đến. Dấu ấn của băng tuyết còn sót lại bày ra trên mặt nước, và ý sống của đất trời đã nẩy mầm trên các cành ngọn của cây rừng. Liễu thì vẫn xanh tốt như xưa, và đào thì đã trổ màu hồng mới nhưng bướm vẫn còn chưa hay biết. Trời chiều quay đầu trông ngóng về phía quê xa, tấc lòng của người con du tử không tránh khỏi nỗi xót xa !
Bài thơ Sơ Xuân của Thái Thuận đọc lên nghe như có âm vang hơi hám của thuở Thịnh Đường, ngay từ câu đầu tiên :
三冬過了一春歸 Tam đông qúa liễu nhất xuân quy.
Từ " Tam đông " làm ta nhớ đến từ " Tam xuân " trong 2 câu trong bài " Du Tử Ngâm " của Mạnh Giao đời Đường là :
誰言寸草心, Thuỳ ngôn thốn thảo tâm,
報得三春暉. Báo đắc Tam Xuân huy.
mà cụ Nguyễn Du đã thoát dịch rất hay là :
"Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân"
Ta thấy từ "Thảo Tâm Du Tử" : Tấc lòng của người con du tử, lại được Thái Thuận sử dung ở câu cuối:
草心遊子不塍悲。 Thảo tâm du tử bất thăng bi ! (Tấm lòng như tấc cỏ của người con du tử không tránh khỏi buồn thương ray rức )...
và nhất là câu:
日暮鄉關迴首望, Nhật mộ hương quan hồi thủ vọng,
lại làm cho ta nhớ đến 2 câu thơ của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu là:
日暮鄉關何處是? Nhật mộ hương quan hà xứ thị
煙波江上使人愁。 Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
... mà Tản Đà đã dịch rất hay là :
Quê hương khuất bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!
CHỚM XUÂN
Ba tháng đông qua xuân lại thay,
Gió xuân hây hẩy ấm lòng ai.
Dấu tàn băng tuyết in dòng nước,
Chồi mới đất trời biếc ngọn cây.
Liễu đã xanh om oanh vắng tiếng,
Đào đà đỏ nụ bướm chưa hay.
Quay nhìn quê cũ khi chiều xuống,
Du tử bồi hồi mắt lệ cay !
Lục bát :
Đông qua nay lại chớm xuân,
Khí trời chợt ấm gió đông lào xào.
Nước trôi băng tuyết dạo nào,
Rừng cây nẩy lộc chồi cao xanh cành.
Liễu buồn oanh hãy vắng tanh,
Đào buồn vắng bướm cành xanh ửng hồng.
Trời chiều quê cũ vời trông,
Bồi hồi du tử chạnh lòng xót xa !
Đỗ Chiêu Đức
Sớm Ra Đông Triều
Gà thức khuya chưa gáy
Khách chèo khuấy nước sông
Xế bóng ánh trăng nhạt
Vàng gợn lăn tăn dòng
Gió thổi chim cò lạnh
Cổ thụ bến cá lồng
Hát ngâm Thương lan khúc
Chim muông tĩnh thức không
Mai Xuân Thanh
Ngày 26 tháng 01 năm 2018
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét