Cuối Cùng
Viết cho một người còn lại trong số những người đã mất
không mộ
Trời quá xế
trưa, nắng vẫn nóng gay nóng gắt, cuốc xe xích
lô dài chở chị bán hàng từ chợ trời Lăng
Cha Cả về ngã sáu Nguyễn Tri Phương vừa đủ làm cho Bình mệt lã, mồ hôi mồ kê thấm
ướt hết áo phần trên nửa người. Bỏ chị xuống đầu đường, vói tay lấy cái bình nhựa
đựng nước treo lủng lẳng ngay tay cầm, uống một hơi rồi Bình đẩy xe lên lề gạch
xi măng, tới một gốc cây cao su già, cao mà còm cõi, ngó qua chỗ bán nghêu luộc
xưa, vẫn còn có lưa thưa dăm ba bóng mát. Bình leo lên chỗ khách ngồi, kéo tấm vạt vải
làm mui xuống che khuất người, tạm nghỉ cho khỏe lại rồi đạp tiếp, một hai cuốc
nữa, gần hay xa không màng lắm, bất chợt đôi ba cơn gió nhẹ từ hướng trên chợ
cá Trần Quốc Toản lùa về ngang, hình như có vẻ trời sắp mưa, mang theo chút bụi
đường về chiều, không mát lắm nhưng cũng làm thiu thỉu. Bình duỗi người dài,
cái thân thể gầy còm còn lại sau mấy năm tù trong cái gọi là “trại học tập cải tạo”, không lấp trọn mấy
khung sắt bạc màu trốc nước sơn, nằm im, ngủ thiếp đi hồi nào không hay. Trên
đường người xe vẫn chen nhau qua lại, xuống lên ngả này hướng kia lơ láu, hối hả.
Kéo cái mui vải xếp sát lại thành tay cầm, có
chút mây xám xuống thấp phía miệt trên Bảy Hiền, nắng không còn như trưa nữa,
Bình đẩy xe xuống, không kịp giữ chặt, trờ ra tới ngoài, suýt đụng chiếc xe
jeep cảnh sát cũ chạy ngang qua. Hai ba người bộ đội trên xe, chỉ chỏ la hét,
Bình hất đầu nhìn theo cười trừ, lên xe thủng thẳng gồng chân đạp chầm chậm về
hướng Trần Quốc Toản. Bên kia đường có người con gái, áo bà ba màu bùn, đầu đội
nón lá che khuất mặt, tay xách cái túi vải lớn có vẻ nặng, vừa băng qua vừa vẫy
tay gọi “xích lô xích lô”. Bình ngừng
lại sát lề đường chờ. Bình xuống xe, đứng vịn thành tay cầm, cô gái để túi vải
xuống đường, sát bánh xe trước, thở một hơi, không ngước lên hỏi “đây về cổng trường đua ngựa Lê Đại Hành tính
bao nhiêu anh?” Bình vừa cười trả lời
“thường thì cô trả người ta bao nhiêu thì
trả cho tui như vậy mà” vừa chờ cô ta ngước lên. Cô thong thả đứng ngay người,
quay về phía Bình, lấy cái nón lá xuống gật đầu. Cả hai trố mắt nhìn nhau, ngờ
ngợ chết trân, cùng buột miệng một lượt, người thì “anh Bình hả”, người thì “Thắm
phải không?” Lặng thinh bất động một hồi lâu, Bình đẩy xe lên lề đường. Thắm
khệ nệ xách cái túi vải theo, hai người ngồi bệt trên bậc thềm nền gạch trước
hàng cửa sắt kéo khép kín của căn phố lầu im lìm, bụi bám nhện giăng dường như
vắng chủ, buồn hiu nhìn ra đường, sáu ngả đường lên xuống vẫn đông nghẹt người
và những chiếc xe đạp, nắng dịu dần, chiều lửng thửng bỏ ngày đi, chưa thấy
mưa, ngồi đó nhớ những ngày tháng cũ.
*
Bình
chơi thân với Thắm từ những ngày đầu mới vào trường tiểu học quận. Trường nằm
ngay trên quốc lộ 1 Sài Gòn - Tây Ninh, không xa ngã ba đường vô chợ bao nhiêu,
núp mình sau hàng cây phượng xum xuê xanh lá. Gia đình Thắm tương đối giàu, cô
là con một, có cái tiệm thuốc tây có lầu ngay dãy phố đầu ngã ba, cây trứng cá
cao trước nhà lúc nào cũng thấy trái. Ba Thắm làm công chức gì đó của văn phòng
quận. Nhà Bình nghèo, ba mất sớm vì tai nạn sông nước dưới Cái Bè, một mẹ một
con, nhà ở cuối góc chợ một con đường đất, căn nhà tôn vách ván nhỏ, sau lưng “Miếu Ông Cả.” Mẹ Bình làm nghề đan giỏ
đan thúng tre, hàng ngày mang ra ngồi bán ở một xéo góc khu bán nồi niêu chén
bát, có khi mang ra tới tận bến xe ngoài đường cái, tạm đủ ăn, đủ mặc, chưa đến
nổi rách rưới. Sáng ngày đi học, Bình ngang qua tiệm thuốc tây, đứng dưới gốc
cây trứng cá chờ Thắm cùng nhau tới trường. Tan trường cũng vậy, cũng hai đứa
bên nhau, trên đường về, cũng ngay gốc cây trứng cá, đứa nấn ná vô nhà đứa ngập
ngừng không muốn đi. Hàng năm tới ngày giỗ “Ông Cả”, miếu thờ đông nghẹt người
tới cúng viếng cầu xin, nhất là người dân làng An Tịnh, năm nào cũng vậy. Khi
theo ba mẹ tới miếu thì Thắm cũng tới nhà tìm Bình, rồi hai đứa dắt nhau bắt
chước người lớn, đứng chấp tay cúi đầu xá xá, miệng lâm râm thì thầm rồi nhìn
nhau cười khúc khích. Cuối năm lớp nhất, cả hai lên Tây Ninh, học trường trung
học công lập tỉnh. Bình ở trọ ở khu nam ký túc xá. Thắm thì được cha mẹ gởi tại
nhà một người dì bà con, hai vợ chồng làm thư ký trong tòa hành chánh tỉnh, nhà
ở bên đường dọc theo sông, gần chợ Cũ.
Không còn tay nắm tay, chân đuổi chân bên
nhau như những ngày học trường làng, lên trung học, lớn rồi, có nhớ thì đứng chờ
đâu đó ở cổng trường, rồi bẽn lẽn thẹn thùng, tiếng mất tiếng còn, không dám đi
sát nhau, theo Thắm trên đường về nhà giữa một trời áo trắng. Cuối tuần những
năm sau đó, tuần nào cũng mong cũng ngóng chuyến xe đò đi về Trãng Bàng, Tây
Ninh, ngồi bên nhau, không biết bao nhiêu chuyện mà kể và rồi theo ngày tháng lớn
dần, cả hai đã biết buồn biết thương từ đó. Hết hè năm đệ tam, tựu trường lại,
Thắm bỏ Tây Ninh xuống Sài Gòn, chuyển về học đệ nhị ở trường nữ trung học Lê
Văn Duyệt, cùng với mấy đứa em gái con ông bác, vừa hùn mở một tiệm thuốc tây ở
đường Nguyễn Duy Dương, ngay căn phố liền bên nhà ở. Hôm chia tay ở Trảng Bàng,
chia tay lần này chắc lâu lắm mời có lần gặp lại, không ai hỏi ai xa rồi sẽ còn
nhớ hay quên. Cũng còn ở cùng một quê đó nhưng khi nào người về người đi, không
biết trước, tiễn nhau ngay trước cửa nhà, dưới gốc cây trứng cá quen ngày nào,
cả hai buồn muốn khóc, chân không đành bỏ đi, nhìn nhau nói thầm “sẽ chờ”. Bình ở lại Tây Ninh, lên xuống
một mình, những con đường quen đi qua từ đó cứ rưng rức dài nỗi nhớ, nhớ bất chợt
nhớ vội vàng.
Sau tết Mậu
Thân, Bình rớt tú tài hai, vào lính, Thắm
vào Văn Khoa ban Sử Địa. Hôm tiễn Bình vào quân trường ở vườn Tao Ngộ trên
Quang Trung, cũng ngồi bên nhau, cũng như lần chia tay ở Trảng Bàng, dưới gốc
cây trứng cá, lần này, vừa nhìn những cặp người tình của lính quanh mình Thắm vừa
nói nhỏ, lập lại hai tiếng “sẽ chờ”. Chia
tay nhau, đứng bên trong vòng rào trại nhìn theo, chiếc xe đò từ Hốc Môn về Sài
Gòn chật cứng người, nắng chiều thoi thóp đổi màu phía bên kia đường. Hình như
có cái gì đó không như lòng mình muốn, Bình cười, giữ một nửa cho mình, một nửa
theo gió bay đi. Ra trường, Bình về Trảng Bàng thăm nhà trước khi ra đơn vị. Hôm trở
xuống Sài Gòn, đến nhà ở Nguyễn Duy Dương thì không gặp Thắm. Người nhà nói cô
nàng đi cắm trại với đám bạn nào đó ngoài Vũng Tàu, hai ba bữa mới về. Bình viết
lá thư ngắn, cho biết địa chỉ KBC nhờ trao lại, đêm bỏ Sài Gòn ra đi, không người
đưa người tiễn.
Chiến trận ngày càng ác liệt hơn. Từ đó qua năm này tháng kia, giày đinh, ba lô
súng trận trên người, Bình miệt mài đời lính chiến với rừng núi bạt ngàn, băng
đồng lội sông khắp miền xuôi mạn ngược, có những lần tạm dừng quân, chưa kịp nhớ
chuyện mình thì địch quân đã đuổi theo đâu đó. Nhận thư Thắm một hai lần, trễ
thật trễ, đọc vội đọc vàng, dưới hố cá nhân nằm chờ tiến quân, đọc tới đọc lui
nhiều lần vì chưa có lần nào đọc trọn, vẫn những lời đã nói mà không nói thêm
gì khác, rồi thư hồi âm cũng thưa thớt dần, thư gởi đi có mà thư về thì không. Năm
1972, trong trận đánh giải tỏa An Lộc, tiểu
đoàn 6 Dù của Bình, tuy bị đánh tan nát tháng tư ở đồi Gió nhưng sau khi được
tái bổ sung, đã càn quét, đẩy lui quân Bắc Việt cản đường, bắt tay với tiểu
đoàn 8 Dù đang ở phía nam, rồi gặp nhau trên đường tiến vào thị xã An Lộc dười
sự hổ trợ của quân sư đoàn 21 Bộ Binh, Bình được đặc cách thăng cấp Trung úy
khi quân VNCH chiếm lại toàn bộ những vị trí cố thủ của quân Bắc Việt ở phía bắc
An Lộc.
Rồi
thì chiến cuộc tăng thêm, xem chừng ác liệt hơn, quân VNCH đánh nhau với địch
quân một mất một còn, hết biên giới Phước Long Quảng Đức, tới cao nguyên Phú Bổn
Kontum, từ đồng bằng ra biển cả Đông Hà Quảng Trị, núi sông trùng trùng điệp điệp
Hạ Lào Tam Biên, nhưng bất ngờ theo lệnh trên, quân VNCH rút bỏ cao nguyên. Dân
ùn ùn kéo theo xuôi Nam, vùng một vùng hai rồi vùng ba mất vào tay quân Bắc Việt,
cuối cùng quân VNCH tập trung số còn lại, cùng với sự đoàn 18 lập phòng tuyến Xuân Lộc, nhất quyết giữ nửa phần
còn lại của miền Nam. Bắc Việt dốc toàn số quân có mặt, tung ra chiến dịch “tiến công tuyến phòng thủ Xuân Lộc” từ
ngày 9 cho tới ngày 20 tháng 4 năm 1975. Sáng ngày 21 tháng 4, tiểu đoàn của
Bình thiệt hại nặng nề, khi bị phục kích tại ấp Suối Cá, gần ranh giới Long
Khánh, may mà anh còn sống sót, và cũng ngày đó, các tuyến phòng thủ cuối cùng
của quân VNCH tại Xuân Lộc tan rã.
Quân Dù rã ngủ, buông súng, tan hàng khi trời
lưng lửng chưa sáng trọn buổi tại ngã tư Bảy Hiền, theo lệnh đầu hàng của ông tổng
thống một ngày Dương văn Minh. Lác đác từng nhóm năm ba, mấy người lính Dù, lặng
lẽ chia tay nhau, nhìn lại cái trại mang tên Hoàng Hoa Thám lần cuối cùng, khóc
thầm, khóc tức tưởi rồi mất hút đâu đó giữa đoàn người, đoàn xe ngơ ngác, hớt
hãi chen nhau đi xuôi về ngược, cuồn cuộn như nước lũ. Theo một người lính cùng
đại đội, Bình tấp vào cái quán ăn nhỏ quen bên đường, trút bỏ quân phục hoa dù
và cái lon trung úy, thay bộ đồ thường áo thung đen màu ngà quần ka ki xanh
dương cũ, rách nhiều chỗ, không dài không ngắn, chen lên chuyến xe hàng, đầy
nhóc đồ đạc quá giang về Trảng Bàng. Mấy năm dài đăng đẳng, gặp lại hai mẹ con
cứ ôm nhau, nghẹn ngào khóc, ở nhà được vài tuần, bất chợt nhớ Thắm, nhưng nhớ
để mà nhớ chứ không mong gì hơn. Đôi ba lần đi qua ngang nhà Thắm, cây trứng cá
cũng vậy nhưng căn nhà giờ là trụ sở của công an, cờ đỏ sao vàng phất phơ trên
nóc như hàng chục lá cờ khác trong chợ quận. Bình ra quận trình diện đi tù vào
buổi sáng trời âm u thiếu nắng, sau khi mấy tên công an đến nhà thăm, gọi là “làm việc.” Họ dùng mấy chiếc xe GMC của
quân VNCH chở Bình cùng một số đông người khác lên Trãng Lớn, Tây Ninh, rồi ra
Bắc. Mẹ con một lần nữa tiễn nhau cũng khóc, không biết chừng nào gặp lại, Bình
vắng tin và không về từ ngày đó.
Được thả, cầm tờ “giấy ra trại” đi hết xe lửa tới xe đò, xe hàng, mấy ngày đêm về tới
Trảng Bàng. Mẹ Bình già yếu đi nhiều, một thân đơn độc, căn nhà vốn đã xiêu xiêu
giờ càng xiêu xiêu hơn trước. Bà bị yếu phổi, ho nhiều từ hơn năm nay, không tiền
nên chỉ trông vào ba mớ lá thuốc nam mà kéo dài chờ con. Bình trình giấy tờ cho
công an khu phố, rồi xin vào làm công cho hợp tác xã đan thúng rỗ tre ngoài đầu
chợ quận, tiền kiếm được gom hết chạy lo thuốc thang cho mẹ nhưng chừng vài ba
tháng sau, kiếp người đã mãn, bà qua đời. Sau khi chôn cất bà ở cái nghĩa địa của
xóm đạo Tha La đâu đó xong, công an cứ hạch hỏi đủ điều, liệu khó ở, Bình bán
căn nhà, rồi bỏ xuống Sài Gòn.
Lang thang, ngủ bờ ngủ bụi, khi bến xe, lúc
góc chợ vài ngày. Một sáng trời còn sương, thả bộ dọc theo đường đi tới chợ
Trương Minh Giảng, chợ cũng vừa mới nhóm, bạn hàng đông nghẹt, hối hả lên xuống,
vừa tới ngang đầu chợ, hai người đàn ông đạp xích lô, lôi kéo nhau, cãi vã, chỉ
chỏ ai đó phía trong chợ, xem ra thiếu điều định đánh nhau, Bình bước vội tới
can, đẩy hai anh xa ra. Cả hai ngưng cãi, giỡ nón nhìn lên, người mặc cái áo
lính dù cũ bạc màu nước vôi buột miệng “ông
thầy”, người kia lầm bầm đẩy xe của mình ra đường, đạp đi không nhìn lại.
Trái đất tròn thiệt, không ngờ lại gặp nhau đây, sau ngày chia tay ở ngã tư Bảy
Hiền, bó tay làm người thua cuộc, binh nhất Điền bỏ xe, ôm lấy Bình khóc. Bình
cũng ứa nước mắt khóc theo. Binh nhất Điền là người mang máy truyền tin, cho đại
đội, ít khi thấy buồn, cười nhiều hơn mếu. Chuyện tiếu lâm vẫn kể dưới hố cá
nhân dù cho trên đầu đội mưa pháo địch. Đẩy xe qua bên kia đường, ngồi nói chuyện
cũ, chuyện lỡ vận đời, cạn ly cà phê sáng, Điền chở Bình về nhà, cái mái hiên
sau, mấy tấm liếp che hờ, nửa kín nửa hở của một cái chùa nhỏ, lụp sụp rong rêu
với bà sư cô già ốm yếu ở cuối ngỏ con đường đất đỏ, bên này ngã tư Hàng Xanh, qua
khỏi cư xá Thanh Đa một khoảng khá xa, chẳng có anh công an, ông cán bộ nào
thèm tới ngó, Bình theo Điền đạp xích lô từ những ngày sau đó.
Năm
1970, Vào học năm thứ nhất Văn Khoa không bao lâu, Thắm theo một số cô bạn
cùng lớp cũng có, lớp trên cũng có, người từ Bến Tre, Trà Vinh lên, người từ Quảng
Nam, Bình Định, Nha Trang xuống, tham gia “Phong
Trào Phụ Nữ Đòi Quyền Sống” của bà Ngô Bá Thành, tổ chức cho học sinh sinh
viên biểu tình xuống đường trên nhiều đường phố ở Sài Gòn, chống chính phủ VNCH
dữ dội, bạo động xô xát với cảnh sát dã chiến và quân đội. Sau lần Thắm cùng
hàng trăm người, phần lớn là sinh viên học sinh, tràn vào giựt súng, dùi cui,
kéo dây hàng rào kẻm gai, giải vây cho một nhóm sinh viên thiên tả đang họp
hành gì đó trong trụ sở sinh viên đường Hồng Bàng, ngó qua nhà thờ ngã Sáu, cảnh
sát dã chiến, bao vây kín bên ngoài, trước sự hùng hỗ, gầm thét của đám người,
được lệnh rút lui, nhưng một số người dẫn đầu, hò hét trong đó có Thắm bị bắt,
giải về trụ sở tổng nha cảnh sát ở góc đường Cộng Hòa- Petrus Ký. Họ được thả
ra sau đó mấy ngày. Thắm về lại trường, tụ nhau lại với đám trong nhóm lăng
xăng, chạy lên chạy xuống họp hành gì đó. Rồi không lâu, Thắm về Trảng Bàng
thăm gia đình vài ngày, cười nói bình thường, trở xuống Sài Gòn, cô theo một
toán sinh viên thân cộng bỏ Sài Gòn vào bưng, theo đường Củ Chi, Trảng Bàng,
băng sông Vàm Cỏ Đông vào khu Mỏ Vẹt, rồi cục R, mật khu của quân Bắc Việt. Bà
con bên dì bên bác buồn hết sức, không biết nói gì. Ba mẹ Thắm đóng cửa không
bán không buôn hết mấy ngày, vào ra, lên xuống Trảng bàng - Sài Gòn trông trông
ngóng ngóng, ngày qua ngày Thắm vẫn biệt vô âm tín.
Giữa năm 1974, những ngày mưa dầm sớm, Thắm
cùng hai ba người khác, cũng là sinh viên cũ, trốn bỏ mật khu về hồi chánh với
chính quyền tỉnh Sa Đéc. Ở đây vài ngày, nhóm Thắm được đưa về trung tâm chiêu
hồi Vĩnh Long, trên đường Nguyễn Thái Học, nơi cũng đã có chừng hơn một trăm
người hồi chánh trước đó đang học nghề, học việc. Nhận được thư báo tin, ba mẹ
Thắm trên Trảng Bàng và gia đình ông bác ở Sài Gòn mừng muốn khóc, đưa nhau hết
xuống Vĩnh Long. Gặp nhau, không ai nói nên lời, cứ ôm Thắm mà khóc sướt mướt. Hôm
30 tháng 4, ngày miền Nam mất, quân Bắc Việt vào chiếm Vĩnh Long, họ bắt giữ tất
cả những người hồi chánh viên ở trung tâm chiêu hồi mà gọi là “bọn phản bội”, điều tra, phân loại thành
phần, xét xử. Một số người bị xếp vào loại chờ ra tòa án nhân dân, số còn lại
được “nhà nước” khoan hồng, trong đó
có Thắm, bị giải lên một trại tập trung cải tạo giữa trời nước mênh mông trên
miệt Kiến Tường Mộc Hóa, để có dịp “ăn
năn sám hối”.
Ba mẹ Thắm theo xe đò xuống Vĩnh Long nhưng
trung tâm chiêu hồi giờ thành trại lính bộ đội, ngẫn ngơ, hỏi người ở bên kia
đường, họ cho biết những người trong đó đã bị đưa đi “cải
tạo” hết rồi, không biết là đi đâu. Hai ông bà chết trân, ngậm ngùi trở về
Sài Gòn và rồi từ đó, lên xuống chạy ngược chạy xuôi, tìm đến mấy cơ quan trong
tỉnh mới biết Thắm đã bị đưa đi tập trung cải tạo trên Mộc Hóa nhưng chưa được
phép đi thăm, chờ chỉ thị của cấp trên, khi đó sẽ thông báo cho biết. Ông bà chỉ
còn nước ráng chờ, nhưng hết ngày rồi tới tháng, hết tháng rồi tới năm, vẫn
không có tin gì của Thắm, ở bao lâu và chừng nào được về. Nước mắt già nua chừng
như đã cạn, muốn khóc cũng không còn đâu nữa mà khóc. Cái gì đến rồi cũng đến, công
an quận tới đọc lệnh Thành Ủy tịch thu nhà, tiệm thuốc tây về tội “vừa tư sản mại bản vừa tàng trữ thuốc men, lợi
dụng thời cơ bán lậu trái phép chưa kể
tới việc ba của Thắm là nhân viên của bọn “ngụy quyền.” Thi hành chủ trương
khoan hồng của nhà nước, họ cho ông bà thời gian một tháng để chuẩn bị chấp hành
cho nghiêm chỉnh. Cả nhà gom góp chút vốn liếng còn có, bỏ lại tất cả, chia
tay. Ông bác dẫn gia đình về Tuy Hòa, ba mẹ Thắm về quê ngoại chợ Bún, Bình
Dương. Chừng bảy tám tháng sau, bệnh chai gan tái phát, vừa buồn nhớ con vừa
đau cái đau mất mát, nặng hơn trước kia, thêm phần thiếu thuốc men, mẹ Thắm mất. Chôn cất xong, cũng buồn cái buồn quặn thắt như vợ, ba Thắm vào tu ở ngôi chùa
nhỏ, ven bờ con rạch cuối làng, từ đó, còn lại một mình mòn mỏi chờ tin con.
Ra tù hôm về thăm nhà, sau mấy năm “đồng chua nước mặn” từ Trảng Bàng xuống,
nhà cửa trên đó đã bị tịch thu, người quen cạnh bên, cho hay ba mẹ cô có nói là
về Sài Gòn, bỏ tất cả không đi vùng kinh tế mới. Dưới này căn nhà ở đường Nguyễn
Duy Dương, cất cái trước cái sau liền nhau, chung một “tờ khai gia đình” với gia đình ông bác nên vẫn còn, coi là có tên
trong tờ “hộ khẩu” mới. Thắm trở xuống Sài
Gòn, qua bên Nguyễn Duy Dương thì không còn ai ở đó nữa, giờ là văn phòng của Ủy Ban Nhân Dân Phường. Bà chủ quán hủ tiếu cà phê góc đường, nhận ra nhau, nói lại
cả gia đình cô đã về quê, hình như là trên Bình Dương, cả năm nay rồi. Thắm nghe mà chết
lặng, nghẹn lòng đau nhói. Lang thang ra đường, Thắm lội bộ đến tìm nhà cô bạn
cũng ở tù chung dưới Mộc Hóa nhưng được thả ra trước chừng mươi ngày, hy vọng
còn có chỗ tá túc vài ngày rồi tính, ở trong cư xá Lê Đại Hành, nhưng nhà lạ hoắc
vì gia đình cô đã bán lại cho một “ông
cán bộ” nào đó rồi về Đà Lạt từ cả năm nay. Đứng sớ rớ, ngoài ngã ba, buồn
lo chưa biết tính sao đây, thì bà cụ Chân bưng rỗ bắp nướng đi ngang, thấy Thắm
lớ ngớ ngó mông ngó mênh, chắc tìm đường, bà tới gần, hỏi qua nói lại, rồi Thắm
bưng rỗ bắp, hai người đi về phía cái hẽm nhà của bà cụ, trời giữa trưa, nắng
chang chang đổ.
Tạm yên, nhớ lời bà chủ quán cà phê ở nhà
cũ Nguyễn Duy Dương, Thắm đón xe đi Bình Dương, về quê ngoại chợ Bún, bà dì Tư
dẫn ra chùa. Dưới cái chái hiên nhỏ bên hông chùa, hai cha con ôm nhau mà khóc,
bà dì quay mặt đi cũng khóc. Buông con ra, ông quỳ đại xuống đất, ngó vào trong
chánh điện, trời ngã bóng về chiều, chút nắng muộn hắt ngang đầu, mớ tóc bạc từ
lâu không đổi màu, ông lâm râm “cám ơn Phật
trời, đã cho cha con còn thấy được nhau.” Ra thăm mộ mẹ, một lần nữa cũng
nước mắt ràn rụa, Thắm thờ thẩn ôm nấm đất khô giữa bóng chiều bỏ đi để lại một
góc trời hoàng hôn tím ngắt. Thắm ở lại, quanh quẩn hai cha con vài hôm rồi xuống
lại Sài Gòn, dưới đó còn có cách kiếm sống, chứ ở đây có muốn ở thì cũng bằng
không. Ông vui để Thắm đi, cô cũng yên lòng từ giã dù ai cũng buồn như nhau. Phụ
bà bán bắp một thời gian, Thắm quen chị Hạnh cạnh bên nhà, chồng là sĩ quan sư
đoàn 25, tử trận ở Hậu Nghĩa năm 1973, trước làm thư ký tại văn phòng của một
phường ở quận 10, theo chị buôn bán chợ trời, từ Lăng Cha Cả, xuống Nguyễn
Thông, ra Hàm Nghi vào Tổng Đốc Phương, đủ mọi thứ, thượng vàng hạ cám, mang
cái nhọc nhằn lam lũ đó, cụ bà Chân, chị Hạnh, Thắm nương nhau mà sống.
*
Chiều
hờ hững xuống, đèn đường chập chững lên, vàng vỏ một màu u ẩn, con đường
Nguyễn Tri Phương bất chợt vắng người, lưa thưa đâu đó hai ba anh bộ đội gầy
còm, mệt mỏi cúi người trên xe đạp, những cái xe đạp cũng gầy còm không thua gì
họ. Ở phía bên đầu đường Trần Quốc Toản, tiếng chuông lễ chiều của nhà thờ Đồng
Tiến kéo dài từng hồi một, lạnh người và quặn thắt. Thắm đứng dậy, bỏ đi tới
cái sạp bán đồ ăn bên kia đường, mua đem về hai ổ bánh mì. Bình ngồi yên chờ cô
nàng trở lại. Hai người ngồi ăn ngon lành, giờ đã có chút gì vui hơn là lúc nãy
mới gặp. Bình đạp xe chở Thắm về cổng trường đua, nơi Thắm ở trọ từ ngày ra tù,
trên cái gác lửng chấp nối bằng gỗ, miếng nhặt miếng thưa của bà cụ Chân, người
Bắc di cư năm 1954, bán bắp nướng, không chồng không con cái trong cái hẽm nhỏ,
hơn cả chục năm nay, sát bên hông ngỏ vào cư xá Lê Đại Hành. Bình ở chơi chút
xíu, làm quen, hỏi han bà cụ Chân đôi ba chuyện, rồi từ giã. Thắm theo ra tới
ngoài đường, mặt buồn thiu. Bình đạp xe đi một khoảng xa, cô nàng vẫn còn đứng
đó. Đường vắng thật vắng, bóng đêm kéo dài theo bóng người, Bình mang theo niềm
vui bất chợt trên đường về. Rồi từ đó, Bình có người khách ruột của những cuốc
xe “thôi hết buồn” giữa đường phố ngã
nghiêng thế sự mất tên, sáng đưa chiều đợi từ cổng trường đua Phú Thọ tới hết
Lăng Cha Cả, Trương Minh Giảng qua góc chợ Hàm Nghi, người khách mà “tên gọi tên mình đưa nhau đi” nhưng có
đi được hết trọn những tháng ngày còn lại không, thôi thì cứ làm kiếp “sông vẫn chảy đời sông, suối cứ trôi đời suối”,
chuyện ngày mai chỉ có trời đất biết.
*
Chiếc
ghe chở hàng đi đường sông cũ kỹ, ọp ẹp mang theo hơn ba mươi mấy người, phần
đông ở Sài Gòn xuống, có Bình, Thắm, binh nhất Điền, và chị Hạnh, ra khơi trong
một đêm mưa giông gió lớn, nước biển thăm thẳm sâu, trời đen nghịt như tối ba
mươi. Từ bãi biển Tân Thành, Gò Công ra khơi chưa tới hai ngày, thình lình cơn
bảo lớn kéo theo nhiều đợt cuồng phong cuồn cuộn, tiếng gió hú kinh hồn. Chiếc ghe bị sức gió đánh bể làm hai, tách đôi, nhấp nhô trôi theo hai hướng
khác biệt. Bình bên này, Thắm bên kia, cũng như mấy người khác, hớt hãi, chỉ
còn kịp gọi tên nhau, rồi xa khuất dần, mất hút đâu đó, mù mờ trên đầu những ngọn
sóng dữ. Chừng hơn ngày sau một mảng sáu bảy tấm ván sườn ghe còn dính liền
nhau giạt vào bải biển Vĩnh Châu, Bạc Liêu. Cũng có một số ván nữa, còn thấy lờ
mờ con số đăng bộ ghe, tấp vào kẹt đám san hô dưới nước, chòng chành nghiêng qua
nghiêng lại không xa ngoài bờ Côn Sơn. Người dân đánh cá miền biển biết chắc là
của mấy chiếc tàu hay ghe vượt biên nào đó bị nạn chìm ngoài khơi, cho đến nhiều
ngày sau, không thấy xác người.
Thuyên Huy
Toowoomba, giữa phố lạ thưa người lưng chừng đông 2017
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét