***
4. GIẢI TÁN
Biến cố Phật giáo 1963
Từ tháng 5/1963, phong trào Phật giáo đấu tranh với chính quyền, đòi bình đẳng tôn giáo đã nổ ra sau sự kiện ngay trước ngày lễ Phật đản, chính quyền có lệnh cấm treo cờ tôn giáo bên ngoài khuôn viên cơ sở tôn giáo. Phong trào bắt đầu từ Huế, lan ra khắp MNVN, cuốn theo nhiều tầng lớp trong xã hội, từ giới tăng sĩ đến công chức, thanh niên, sinh viên tham gia biểu tình, rồi trở thành vấn đề quan tâm của thế giới. (2) Tháng 8/1963, Linh mục Cao Văn Luận bị chính quyền buộc thôi chức Viện trưởng VĐH Huế, và tất nhiên là cả chức Giám đốc VHH, vì đã không có giải pháp cứng rắn để ngăn sinh viên VĐH Huế biểu tình chống chính quyền.(3). Ngày 18/8/1963, Khoa trưởng các Đại học nhánh thuộc VĐH Huế và nhiều GS cùng ra thông cáo đồng loạt xin từ chức để phản đối chính quyền đàn áp Phật giáo, cũng như phản đối “sự thay thế Linh-mục Cao-văn-Luận Viện-trưởng Huế trước tình-trạng trầm-trọng này”.(1) Ngày 17/8/1963, toàn bộ giảng viên của VHH cũng ra Tuyên cáo tán đồng quan điểm của các vị khoa trưởng, “bất bình về sự bãi chức Viện-trưởng viện đại-học Huế kiêm nhiệm Giám-đốc Viện hán-học của Linh-mục Cao-Văn-Luận một cách đột ngột, làm mất phần thể-thống và uy-tín cho Đại-học Huế gây xúc động cho giáo-giới và sinh-viên trong tình-thế không ổn hiện tại. Toàn-thể chúng tôi tuyên-bố tự ý nghỉ việc giảng dạy kể từ hôm nay”.(2) Phong trào đấu tranh Phật giáo lên đếncao trào bằng việc các nhóm sĩ quan quân đội cao cấp, với sự hậu thuẫn của Mĩ, đã đảo chính lật đổ chính quyền của Tổng thống Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963, Ngô Đình Diệm bị giết chết một ngày sau đó, cùng với em ruột là Ngô Đình Nhu, cố vấn của Tổng thống. Nền Đệ nhất Cộng hoà kết thúc sau 9 năm (1955-1963). (3)
VHH thành lập một phần lớn là nhờ chủ trương tôn sùng Nho giáo của Tổng thống Ngô Đình Diệm, cho nên sau khi nền Đệ nhất Cộng hoà (1955-1963) bị lật đổ ngày 1/11/1963, chính quyền chuyển sang bàn tay lãnh đạo của các tướng lĩnh quân đội trong thời kì Quân Quản (1963-1967) với liên tục các cuộc đảo chính quân sự, thì VHH không được quan tâm nữa, nhất là khi các chính phủ mới đều biết Viện là “con đẻ” của vị Tổng thống vừa bị họ lật đổ.
____________________________
(1). Về số sinh viên khoá 1 tốt nghiệp, xem “Danh-sách sinh-viên tốt-nghiệp viện Hánhọc khoá ngày 8-6-1964 – Niên-học 1963-1964”, in trong CBVNCH, 18/7/1964, tr. 2539. Danh sách này ghi danh 19 người tốt nghiệp có xếp hạng, lần lượt là: Vương Hữu Lễ, Dương Trọng Khương, Phan Thuận An, Ngô Khôn Liêu, Trần Bá Nhẫn, Nguyễn Hữu Tuân, Ngô Hữu Kỉnh, Trần Văn Hoành, Hoàng Xuân Minh, Nguyễn Thị Kim Chi, Nguyễn Đức Đô, Phan Thị Hồng Hạnh, La Cảnh Hùng, Trần Duy Lộc, Hoàng Công Phu, Hồ Văn Ngữ, Lê Nhất, Hồ Thị Lài, Nguyễn Đăng Phú. Danh sách được kí duyệt ngày 16/6/1964 bởi Chủ sự Văn phòng Viện Hán học Phạm Ngọc Hương, và duyệt y bởi Viện trưởng VĐH Huế Cao Văn Luận.
___________________________
(1). Lý Văn Nghiên 2009: 229.
(2). Vấn đề Phật giáo MNVN được đưa ra Đại hội đồng Liên hiệp quốc ngày 4/9/1963. Cuối tháng 10/1963, Phái đoàn điều tra của Liên hiệp quốc gồm 16 thành viên đại diện cho 7 quốc gia đã sang Việt Nam để tiến hành điều tra. Báo cáo điều tra của Phái đoàn có bản tiếng Anh và tiếng Pháp, dịch giả Võ Đình Cường đã dịch ra tiếng Việt từ bản tiếng Pháp, lấy nhan đề Vi phạm nhân quyền tại Miền Nam Việt Nam, Saigon: Hùng Khanh xuất bản, 1966. Xem bản tiếng Anh: Report of United Nations Fact-Finding Mission to South Viet-Nam, Document A/5630, Washington DC: US Government Printing Office, 1964.
(3). Hồi kí của Cao Văn Luận viết: “Khoảng giữa tháng 8, Đức cha Ngô Đình Thục vào Saigon đề nghị với ông Diệm bãi chức Viện trưởng [Viện] Đại Học [Huế] của tôi và bổ nhiệm viện trường [trưởng] mới. Đức Cha có lẽ đã nghĩ rằng tôi không tích cực trong việc vận động sinh viêu [viên] phật tử, hoặc ít ra im lặng để cho sinh viên phật tử tham gia các cuộc đấu tranh Phật giáo”. Sau biến cố đảo chính 1/11/1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Cao Văn Luận được mời về tái nhiệm chức Viện trưởng Viện Đại
học Huế từ cuối tháng 11/1963, đến tháng 9/1964 thì ông bị nhóm GS Lê Tuyên và Lê Khắc Quyến ép phải từ chức, mà từ 2 tháng trước đó ông cũng đã tự có ý định từ chức, nên nhân cơ hội đó, ông rời Huế để trở vào Saigon. Xem: Cao Văn Luận, Bên giòng lịch sử 1940-1965, Saigon: Trí Dũng, 1972, tr. 352, 397, 428-429. Trong hồi kí, Cao Văn Luận dành nhiều dung lượng (rải rác các tr. 277-429) nói đến sự thành lập và hoạt động của Viện Đại học Huế cũng như các đơn vị thành viên trực thuộc, nhưng không nói đến Viện Hán học.
__________________________
(1). Xem toàn văn bản Thông cáo của các vị Khoa trưởng tại: Quốc Tuệ, Công cuộc tranh-đấu của Phật-giáo Việt-Nam từ Phật-đản đến Cách-mạng 1963, in năm 1964 (không ghi nhà xuất bản và nơi xuất bản), tr. 364-365.
(2). Xem toàn văn bản Tuyên cáo của Viện Hán học tại: Quốc Tuệ, 1964, tr. 365-366. In
nghiêng trong nguyên bản.
(3). Về diễn biến của biến cố Phật giáo 1963, xem các tài liệu sau: Vi phạm nhân quyền tại Miền Nam Việt Nam(báo cáo của Phái đoàn điều tra Liên hiệp quốc về vụ đàn áp Phật giáo 1963), Võ Đình Cường dịch, Saigon: Hùng Khanh xuất bản, 1966; Lê Cung, Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, Hà Nội:Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003; Edward Miller, Misalliance: Ngo Dinh Diem, the United States, and the Fate of South Vietnam, Cambridge, MA: Harvard University Press, 2013, p. 260-326; Chính Đạo, Tôn giáo và chính trị: Phật giáo 1963-1967, Houston: Văn hoá, 1994.
Bị cuốn trôi theo sự thay đổi của thời cuộc chính trị, VĐH Huế từ tháng 8/1963 đến tháng 9/1964, tức chỉ trong 13 tháng, đã có 4 lần thay Viện trưởng,(1) cơ quan quản lí giáo dục cấp trung ương cũng liên tục thay đổi nhân sự và phương thức quản lí, thay cả tên gọi từ “Bộ Quốc gia Giáo dục” thành “Bộ Văn hoá Giáo dục”. Những điều này gây ảnh hưởng lớn đến việc đào tạo tại VĐH Huế nói chung, và VHH nói riêng. Khi Bùi Tường Huân thay thế chức Viện trưởng VĐH Huế của Cao Văn Luận, từ tháng 9/1964, thì VHH bị đối xử bằng một thái độ lạnh nhạt. Mặc dù nhiều cán bộ của Viện, như Võ Như Nguyện và Trần Điền, đã rất nỗ lực tìm lối thoát cho cả thầy và trò, nhưng không được sự hưởng ứng củacả Bộ cũng như VĐH Huế. Thầy và trò VHH phải đối mặt với muôn vàn khó khăn của thời cuộc để có
thể duy trì một cơ quan đào tạo và nghiên cứu văn hoá truyền thống của dân tộc. Ngày 1/10/1964, trong một buổi họp của VĐH Huế do GS Bùi Tường Huân làm chủ toạ, GS Dương Đình Khôi (Đại học Văn khoa, thuộc VĐH Huế) đã đề nghị Bộ sáp nhập VHH vào Đại học Văn khoa vì 2 lí do: một là VHH khi ấy không có Giám đốc, hai là giảng dạy giống như ở Đại học Văn khoa. Hai ngày sau, 3/10/1964, VHH có điện văn gửi Bộ phản đối ý định sáp nhập, “vì tôn chỉ, phương pháp và chương trình của VHH hoàn toàn khác biệt với Đại học Văn khoa”.(2) Kết quả là việc sáp nhập đã không xảy ra. Tháng 2/1965, GS Trần Điền vừa nhậm chức Xử lí thường vụ Giám đốc Viện (tức quyền Giám đốc), ông đã nhận thấy cần
cấp tốc giải quyết hai vấn đề là “bổ dụng sinh viên tốt nghiệp” và “quy chế đào tạo” thì mới có thể duy trì VHH. Một buổi họp hội đồng giáo sư đã được tổ chức cấp tốc, đề nghị lên Bộ một quy chế đào tạo mới, với tổng thời gian học 7 năm, chia làm 3 cấp: (1) Tú tài Hán học (3 năm), nhằm đào tạo sinh viên có bằng Tú tài cổ ngữ Hán văn trong khi chờ đợi Ban cổ ngữ được mở trong các trường Trung học. (2) Cao đẳng Hán học (2 năm) nhằm đào tạo Giáo sư Hán văn Trung học Đệ nhất cấp hoặc chuyên viên sứ quán Đông Nam Á. (3) Đại học Hán học (2 năm) nhằm đào tạo Giáo sư Việt Hán Trung học Đệ nhị cấp, hoặc chuyên viên các sứ quán, nhà nghiên cứu. (4) Ngành nghiên cứu của Viện sẽ được thiết lập sau khi có sinh viên tốt nghiệp Đại học Hán học. Về vấn đề bổ dụng sinh viên tốt nghiệp, tháng 3/1965, Hội đồng cũng gửi các tờ trình lên VĐH Huế trình bày tâm nguyện bảo tồn giá trị truyền thống dân tộc của phụ huynh và học sinh, đồng thời nêu các giải phápcho vấn đề bổ dụng.(1) Dù cho các giải pháp như trên của Hội đồng Giáo sư không được thực hiện trong thực tế lịch sử, nhưng nó cũng cho thấy những nỗ lực nghiêm túc của các nhà quản lí giáo dục cũng như các nhà giáo Hán học. Trong khi Hội đồng Giáo sư đang tích cực đấu tranh nhằm giữ lại VHH, thì các sinh viên lại ngả theo khuynh hướng thoả hiệp để giải quyết vấn đề quyền lợi trước mắt của họ. Hội nghị sinh viên của Viện đã tự bầu ra một phái đoàn gồm 7 người, dẫn đầu là Lý Văn Nghiên, từ Huế đi Sài Gòn 2 chuyến, tới Văn phòng Bộ để đề nghị giải quyết vấn đề tuyển dụng cho các sinh viên đã ra trường cũng như vấn đề quyền lợi của sinh viên đang học. Cuối cùng nhóm sinh viên nhận được văn bản của Bộ đề ra hướng giải quyết: các sinh viên đã tốt nghiệp hoặc sắp tốt nghiệp sẽ được tuyển dụng làm Giáo sư Trung học Đệ nhất cấp, còn các sinh viên đang học sẽ chuyển sang Đại học Sư phạm Huế và Quy Nhơn, Viện sẽ bị giải tán.(2)
Đến ngày 16/4/1965, Viện nhận được công điện của Bộ về việc giải tán Viện theo tinh thần của văn bản mà Bộ đã thông báo cho sinh viên. Hội đồng Giáo sư của Viện đã họp và gửi điện văn kiến nghị tới Tổng trưởng Văn hoá Giáo dục, đề nghị xem xét lại việc giải tán Viện:
______________________
(1). Cao Văn Luận (1957-8/1963), Trần Hữu Thế (8/1963-10/1963), Trương Văn Chôm (10/1963-11/1963), Cao Văn Luận (11/1963-9/1964), Bùi Tường Huân (9/1964-1966). Về các văn bản thay đổi Viện trưởng, xem: Sắc lệnh số 123-GD ngày 9/10/1963 cử ông Trương Văn Chôm giữ chức Viện trưởng (CBVNCH, 19/10/1963, tr. 2762); Sắc lệnh số 4-GD ngày 8/11/1963 tái cử Cao Văn Luận giữ chức Viện trưởng (CBVNCH, 7/12/1963, tr. 84).
(2). Lý Văn Nghiên 2009: 236-237
_________________________
(1). Lý Văn Nghiên 2009: 242-243.
(2). Lý Văn Nghiên 2009: 230-232.
“Hội đồng giáo sư Viện hán học sau khi nghe, đọc công điện của Bộ quyết định giải tán các lớp, trân trọng tỏ lòng buồn nản trước một giải pháp đột ngột như thế. Các Nghị định thành lập và tổ chức Viện
Hán học chưa được bãi bỏ, nay quý Bộ đã căn cứ trên yêu sách của sinh viên mà giải quyết là đặt nhẹ vấn đề kỉ cương. Vì căn bản dân tộc của nền Văn hoá Quốc gia, thành khẩn yêu cầu quý Bộ xét lại vấn đề sau khi tham khảo ý kiến của các cơ quan hữu trách đúng theo tinh thần Đại học và dân chủ. Tinh thần công điện đã mặc nhiên chấm dứt nhiệm vụ, các giảng viên sau khi được cáo tri đã xin đình chỉ giảng dạy bắt đầu từ hôm nay. Toàn thể giáo viên tỏ lòng tin tưởng nơi tinh thần cách mạng của ông Tổng trưởng”.(1)
Ngoài ra còn có kiến nghị của các phụ huynh, nhân sĩ, các nhà khoa bảng cựu học gửi lên Quốc trưởng, Thủ tướng, Hội đồng lập pháp, Hội đồng QGGD, Tổng trưởng Văn hoá Giáo dục để phản đối quyết định trên. Ví dụ, hai bản điện văn của phụ huynh sinh viên và của các vị khoa bảng lần lượt viết:
“Chúng tôi phụ huynh sinh viên kinh ngạc về quyết định giải tán các lớp Viện hán học Huế dựa trên quyết định nông nổi và thiếu tư cách pháp lí của sinh viên, thành khẩn yêu cầu Quốc trưởng và Chủ tịch dùng mọi biện pháp thích nghi cứu vãn cơ quan văn hoá cổ truyền duy nhất. Rất đau đớn thấy con em chúng tôi bơ vơ sau bao năm giao phó cho Viện hán học”.
“Chúng tôi khoa bảng Cố đô được tin các lớp Viện Hán học phân tán: 1/ Thực dân Pháp đã bỏ Hán học để đào tạo một lớp trí thức vong bản. 2/ Sự liên hệ bất khả phân giữa Hán tự và quốc văn. 3/ Phần đông các nước Âu, Mĩ nay đã lấy Hán tự làm sinh ngữ ở các lớp Trung học.
4/ Vị trí địa dư chính trị Việt Nam bắt buộc chúng ta phải biết Hán tự.
5/ Cần đề cao luân lí Hán học để áp đảo thuyết tam vô ngoại lai. Thỉnh cầu Thủ tướng và Tổng trưởng xét lại vấn đề Viện Hán học, chỉ thị các cấp thi hành nghiêm chỉnh chương trình trung học 1958, giao các giờ Hán văn cho các sinh viên tốt nghiệp đảm nhiệm. Rất tin tưởng vào tinh thần cách mạng của Thủ tướng và Tổng trưởng thuộc dòng thế phiệt Nho gia”.(2)
Dư luận báo chí
Khi dự định giải tán VHH của Bộ được nhiều người biết đến, tức là khoảng nửa cuối tháng 4/1965, thì nhiều người đã thông qua phương tiện báo chí để thể hiện quan điểm phản đối dự định ấy, ủng hộ việc duy trì một thiết chế nghiên cứu Hán học cổ điển tại MNVN. Trên một tờ nhật báo rất thu hút độc giả thời đó, tờ Chính luậnở Sài Gòn, đã đăng một loạt 4 bài viết nằm trong mục “Ý kiến”. Các tác giả bàn tới Hán học từ rất nhiều góc độ: khái niệm Hán học, lịch sử Hán học tại Việt Nam, vai trò của Hán học đối với văn hoá truyền thống Việt Nam, phân tích những quan điểm sai lầm của Bộ Văn hoá Giáo dục khi quyết
định giải tán VHH, và đề xuất một số giải pháp để giải quyết vấn đề khó khăn trong việc duy trì VHH. Tác giả các bài viết nhiều lần mô tả Nhật Bản như một mẫu hình đáng học hỏi về việc duy trì nền Hán học, để phục vụ phát triển quốc gia.
Mở đầu là bài viết của Hoàng Bồng, khen ngợi việc chính quyền Ngô Đình Diệm thành lập VHH là đã “hiểu được nhu cầu của Hán học đối với văn hoá nước nhà” (dù đó là thời điểm người ta vẫn còn tập trung phê phán chế độ Ngô Đình Diệm, sau ngày đảo chính 1/11/1963). Tác giả chỉ ra nguy cơ đứt gãy văn hoá truyền thống và hỗn loạn ngôn ngữ trong quá trình chuyển đổi đột ngột từ Hán học sang Âu học tại Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX. Khi chỉ trích cách nhìn nhận sai lầm của Bộ về việc đào tạo Hán học tại VHH, tác giả cho rằng nếu việc đào tạo chưa đạt hiệu quả như mong muốn thì cần phải cải cách chương trình đào tạo, chứ không phải giải tán đơn vị đào tạo. Từ đó tác giả nhấn mạnh: “trong khi ngôn-ngữ, văn-từ Việt-Nam đương bị ‘ác hoá’ [trở nên tồi tệ, xấu đi - NTC] vì dốt chữ Hán, kho tàng tác phẩm văn hoá của tổ-tiên để lại không có người đọc, Việt-Nam cần có môn học cổ-điển bên cạnh các môn học chuyên môn”.(1)
_________________
(1). Lý Văn Nghiên 2009: 233-234.
(2). Lý Văn Nghiên 2009: 241.
Hưởng ứng bài viết của Hoàng Bồng là một bài viết khác của Đặng Bình, đại diện cho “các nhà khoa bảng đất cố đô và phụ huynh sinh viên Viện Hán học”. Tác giả cho rằng “Hán học là một nền văn minh Á Đông mà ông bà chúng ta đã dựa vào để xây dựng nền quốc gia Việt Nam di truyền lại cho chúng ta”, “ông bà ta trước kia dùng chữ Hán, coi chữ Hán là một thứ chữ của nước mình”, nhưng do thời đó ít người hiểu về chữ Hán nên dùng từ ngữ thường sai lệch, tạo ra những “quái vật” ngôn ngữ, mà môn Hán học là để “bóp chết những quái vật” đó. Tác giả Đặng Bình phản đối 2 lí do giải tán VHH mà Bộ đưa ra. Về lí do thứ nhất, “sinh viên Hán học không học được mấy chữ Hán”, Đặng Bình biện luận rằng đây
_________________________
(1). Hoàng Bồng, “Vì sao Chánh phủ bãi bỏ viện Hán học?”, Chính luậnsố 331, ngày
1/5/1965, tr. 4.
là một lí do “kì cục”, bởi trong 5 năm học, mỗi tuần học 11 giờ, tổng cộng hơn 1.500 giờ học Hán văn, lẽ nào không biết được độ 3.000 chữ Hán? Về lí do thứ hai, “sinh viên Hán học không muốn tiếp tục học”, nếu vậy thì phải tìm nguyên do để sửa chữa, chứ không thể vin cớ đó để dẹp bỏ VHH, “binh sĩ chán nản, có dẹp quân đội đi không”? Từ đó, tác giả thể hiện quan điểm phê phán rất mạnh mẽ: “Nói trắng ra, nguyên do tự Bộ mà ra: vì Bộ không chịu bổ dụng sinh viên tốt nghiệp, vì Bộ mở lớp mới gần 1 năm mà không chịu ban hành quy chế cho họ nên họ mới không chịu học nữa. Thử hỏi nếu Bộ đối xử như vậy với một ngành học nào khác, có phải là phá ngành ấy hay không”? Trên cơ sở phê phán như vậy, tác giả đặt ra 3 câu hỏi đối với Bộ Văn hoá Giáo dục về nguyên nhân thực sự mà Bộ quyết định giải tán VHH:
1) Có phải do Bộ muốn đem văn minh Âu Mĩ để thay thế cho “thứ văn hiến cũ rích trải mấy ngàn năm”?
2) Hay là bởi VHH do ông Diệm lập ra, mà các chính khách hiện thời thù ghét ông Diệm, quyết trừ bỏ những gì liên quan đến chế độ của ông Diệm?
3) Hay vì Bộ không bổ dụng được các sinh viên tốt nghiệp năm trước? Nếu đúng vậy thì cần giao các giờ Hán văn ở chương trình Trung học đương thời cho các sinh viên Hán học, chứ không phải giao cho các giáo viên Việt văn phụ trách như thường lệ. Cuối bài, tác giả đề nghị Bộ “trả lời những thắc mắc trên cho chúng tôi được thông cảm, và cũng để đánh tan bầu không khí nặng nề đang bao trùm sĩ giới xứ Huế và không khí ấy đang tác dụng tai hại trên tâm lí của con em chúng tôi”.(1) Chưa hết, một tuần sau đó, tờ Chính luận lại đăng một bài rất dài của tác giả Việt Dân, hiệu là Chi Li Tử, đề ngày viết 4/5/1965. Bài viết khẳng định giá trị của chữ Hán đối với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Tác giả cho rằng Nhật Bản là một nước tiên tiến hàng đầu của châu Á cũng như toàn thế giới, “mà từ xưa đến nay, Nhật Bản vẫn dùng Hán
1) Có phải do Bộ muốn đem văn minh Âu Mĩ để thay thế cho “thứ văn hiến cũ rích trải mấy ngàn năm”?
2) Hay là bởi VHH do ông Diệm lập ra, mà các chính khách hiện thời thù ghét ông Diệm, quyết trừ bỏ những gì liên quan đến chế độ của ông Diệm?
3) Hay vì Bộ không bổ dụng được các sinh viên tốt nghiệp năm trước? Nếu đúng vậy thì cần giao các giờ Hán văn ở chương trình Trung học đương thời cho các sinh viên Hán học, chứ không phải giao cho các giáo viên Việt văn phụ trách như thường lệ. Cuối bài, tác giả đề nghị Bộ “trả lời những thắc mắc trên cho chúng tôi được thông cảm, và cũng để đánh tan bầu không khí nặng nề đang bao trùm sĩ giới xứ Huế và không khí ấy đang tác dụng tai hại trên tâm lí của con em chúng tôi”.(1) Chưa hết, một tuần sau đó, tờ Chính luận lại đăng một bài rất dài của tác giả Việt Dân, hiệu là Chi Li Tử, đề ngày viết 4/5/1965. Bài viết khẳng định giá trị của chữ Hán đối với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Tác giả cho rằng Nhật Bản là một nước tiên tiến hàng đầu của châu Á cũng như toàn thế giới, “mà từ xưa đến nay, Nhật Bản vẫn dùng Hán
______________________
(1). Đặng Bình, “Tại sao người Việt phải học chữ Hán?”, Chính luận số 339, ngày 12/5/1965, tr. 4.
tự: từ ngữ của họ đều tràn ngập bởi Hán tự Nhật hoá cũng như từ ngữ Việt Nam chúng ta đều tràn ngập bởi Hán tự Việt hoá”. Trong lịch sử, Hán học đã giúp đào luyện nên các nhà cách mạng chống Pháp thời cận hiện đại ở Việt Nam. Chế độ Ngô Đình Diệm dù “độc tài và thối nát” nhưng có cái đáng quý là có ý cổ vũ Hán học, nhưng các võ tướng nắm quyền khi ấy đều xuất thân từ gươm súng, nên không quan tâm tới Hán học. Ông chỉ trích chính phủ của Trung tướng Nguyễn Khánh năm 1964 đòi bỏ ngày quốc lễ Thánh đản [lễ kỉ niệm sinh nhật Khổng tử, ngày 28/9] trong khi các ngày lễ khác đều giữ lại. Kết luận lại, Việt Dân cho rằng kể từ thời thực dân Pháp, người Việt đã “ăn phải cái cặn bã văn hoá nô dịch của thực dân nên chúng ta đã khinh bỉ và ruồng bỏ một khí cụ văn hoá lịch sử: Hán tự. Chúng ta đã thành những Đứa Con Vong Bản”. Từ đó tác giả đưa ra một đề nghị quan trọng: chính phủ Phan Huy Quát không những không nên bỏ VHH, mà còn phải lập thêm Hàn lâm viện Hán học.(1)
Bài thứ 4 quay lại với tác giả Hoàng Bồng, người khởi xướng cuộc trao đổi trên báo Chính luận. Ông quan niệm Hán học có hai nghĩa, nghĩa rộng là “tất cả cái học từ Tàu truyền sang bằng Hán văn, như Phật học, Nho học, Lão học, binh học, y học, số học, bách gia chư tử học”, nghĩa hẹp thì “gần đồng nghĩa với Nho học”, là nghĩa được dùng trong từ “Viện Hán học”, tức là nơi dạy Hán tự, Hán văn, và Nho học, từ cái căn bản Nho học ấy có thể mở rộng tìm hiểu. Hán học Việt Nam có lịch sử lâu đời đã góp phần vun bồi nên nhiều giá trị tinh thần của dân tộc, đào tạo được nhiều thế hệ nhân sĩ trí thức Việt Nam. Nhưng sau khi thế hệ Hán học cuối cùng như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền đã mất, thì phong hoá xuống dần, xã hội dễ phát sinh hiện tượng “Ma cô, con đĩ đầy sông Nhị/ Mật thám, du côn dẫy núi Nùng”. Ông cho rằng trong giai đoạn lịch sử giữa thế kỉ 20 khi ấy, vấn đề Hán học tuy “không cấp bách lắm, nhưng nó có một tính cách tối quan trọng đối với tương lai dân tộc Việt Nam”, Hán học khi ấy dù là vấn đề
________________________
(1). Việt Dân, “Nâng Viện Hán học lên Hàn lâm viện Hán học”, Chính luậnsố 347, ngày 21/5/1965, tr. 4.
lớn lao nhưng không hấp dẫn, thường phải nhận sự “thờ ơ” của người dân, các cơ quan chính quyền thì thậm chí là “không thích” hoặc “không hiểu lợi ích” của Hán học, cho nên ngày càng ít học sinh Trung học chọn học ban D (học Hán văn). Mấy năm gần đây báo chí và dư luận nhắc nhiều đến “phục hưng văn hoá cổ truyền”, “phải trở về với hồn dân tộc”, nhưng chỉ là nói suông chứ ít ai làm, mà cũng không biết làm thế nào. Điển tích “Tịch Đàm vong tổ”(籍談忘祖),(1) quên lịch sử dân tộc mình, được Hoàng Bồng nhắc lại để kêu gọi mọi người cần phải hiểu lịch sử của dân tộc mình. Cuối bài, ông ca ngợi cường quốc Nhật Bản đã đề cao Hán học, thậm chí người Nhật còn in lại bản bộ sách Đại Nam thực lục(2) của Việt Nam rồi đem gửi tặng chính phủ Việt Nam, trong khi bộ đó hiện tại chính phủ Việt Nam chỉ còn dăm bảy bộ in bản gỗ xấu xí, để trong các thư viện ít người đọc đến. Từ đó ông kêu gọi phải học tập người Nhật, giữ lấy tinh thần Hán học, duy trì nền tảng đức dục.(3)
Sau một tháng đăng 4 bài viết kêu gọi bảo vệ sự tồn tại của VHH, tờ Chính luận ngày 13-14/6/1965 cho biết họ đã nhận được một bản Thông cáongắncủa Bộ Văn hoá Giáo dục,(4) được đăng toàn văn trên tr. 4 của số báo đó. Thông cáocho biết quan điểm của Bộ là: VHH không đạt
_____________
(1). Tịch Đàm vong tổ (籍談忘祖, Tịch Đàm quên tổ tiên) là điển cố trong sách Tả truyện, kể chuyện quan đại phu nước Tấn là Tịch Đàm đi sứ nhà Chu, trong bữa tiệc đã
bị Chu vương trách vì không nhớ rằng trong trước đây nước Tấn từng được nhà Chu ban thưởng. Điển cố này thường được dùng để phê phán việc lãng quên nguồn gốc sự kiện, hoặc quên mất lịch sử nước mình.
(2). Từ năm 1961 đến 1980, Viện Nghiên cứu Văn hoá và Ngôn ngữ thuộc Đại học Keio
(慶應義塾大学言語文化研究所), Tokyo, Nhật Bản đã tổ chức in (theo dạng ảnh ấn) bộ Đại Nam thực lục, tổng cộng 19 tập.
3. Hoàng Bồng, “Bỏ Hán học là từ chối văn hoá Dân tộc, phá huỷ nền căn bản đức dục của Việt Nam”, Chính luận số 357, ra ngày 2/6/1965, tr. 4.
(4). Học giả Đài Loan là Trần Dĩ Lệnh (Chen Yiling 陳以令) trong khi bàn tới Hán học MNVN cũng nhắc đến một văn bản của Tổng trưởng Giáo dục Nguyễn Tiến Hỷ, với nội dung khá giống với Thông cáo này. Trần Dĩ Lệnh trích lời Nguyễn Tiến Hỷ: “Viện Hán học thuộc Viện Đại học Huế được thành lập với mục đích đào tạo một số nhân lực chuyên môn về Hán học, để phục vụ việc nghiên cứu, dịch thuật, biên soạn về tư tưởng học thuật cổ đại của hai nước Trung – Việt, đồng thời phát huy văn hoá vốn có của Việt Nam. Nhưng hoạt động của Viện Hán học chưa được như mong muốn, không thể đạt được những mục đích kể trên, lại gần như trùng lặp với Ban Hán văn của Viện Đại học Saigon. Vả lại, sinh viên tốt nghiệp của Viện Hán học gặp phải nhiều khó khăn trong khi tìm việc làm, cho nên phải giải tán Viện. Với những sinh viên còn đang học, thì lần lượt chuyển sang học tại Đại học Sư phạm Huế và Đại học Sư phạm
Quy Nhơn”. Xem: 陳以令,《越南的漢學研究》, 載《世界各國漢學硏究論文集---第二
輯》, 台北: 國防研究院與中華大典編印會合作出版,1967, 44頁, tạm dịch như trên.
được mục đích đào tạo chuyên viên Hán văn; chương trình giảng dạy không theo sát chủ trương đã định; công tác tổ chức của Viện còn nhiều thiếu sót; gần đây lại có ý định hướng sinh viên vào phạm vi giáo dục nên trùng hợp với chương trình của Ban Việt Hán trong Đại học Sư phạm và Đại học Văn khoa; vì vậy sau khi tham khảo ý kiến của VĐH Huế, Bộ đã quyết định đình chỉ hoạt động của VHH và giải quyết tình trạng của sinh viên theo đúng với nguyện vọng của họ [tức là bổ nhiệm ngay những sinh viên đã tốt nghiệp, chuyển các sinh viên chưa tốt nghiệp sang học trường khác]. Ở đoạn cuối, Thông cáonhấn mạnh việc Bộ dự định thành lập một thiết chế Hán học mới để thay thế cho VHH cũ: “Quyết định này không phải là một hành động phản văn hoá dân tộc hay kì thị Khổng học, vì cùng một lúc, Bộ Văn hoá Giáo dục đã ủy cho Viện Đại học Huế nhiệm vụ nghiên cứu một dự án thành lập một cơ quan khác hợp lí và tốt đẹp hơn để thay thế cho Viện Hán học cũ”.(1) Dự định đổi mới thiết chế như vậy đã nhận được sự tán thành của toà soạn báo Chính luận, vì vậy phần Lời toà soạnđăng liền trước Thông cáotrên viết: “Chúng tôi cũng ghi nhận thiện lí của Bộ muốn nghiên cứu dự án thành lập một cơ quan khác hợp lí và tốt đẹp hơn để thay thế cho Viện Hán học cũ”. Thực tế sau này cho thấy, cho đến mãi năm 1975, không có thiết chế Hán học mới
nào được lập ra để thay thế cho VHH như dự định của Bộ.
Nghị định giải tán VHH
Tuy nhiên, mọi cố gắng của các Giáo sư VHH cũng như các vị nhân sĩ tâm huyết với truyền thống Hán học đều không có kết quả trước một sự việc đã rồi. Sự kết thúc chính thức của VHH được đánh dấu bằng Nghị định số 1627-GD ngày 22/9/1965 do Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương - Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ kí, quyết định về việc giải tán VHH Huế kể từ niên khoá 1965-1966, “theo đề-nghị của Tổng Uỷ-viên Văn-hoá Xã-hội kiêm Uỷ-viên Giáo-dục”, tức Trần Ngọc Ninh.
Nghị định này viết:
Nghị định này viết:
“Điều thứ nhất.--- Viện Hán-học thiết-lập do nghị-định số 389-GD ngày mồng 8 tháng mười năm 1959 thượng chiếu, nay được giải tán kể từ niên-học 1965-1966.
Điều thứ 2.--- Tổng Ủy-viên Văn-hoá Xã-hội kiêm Uỷ-viên Giáo-dục và phụ-tá tại Phủ Chủ-tịch Ủy-ban Hành-pháp Trung-ương, chiểu nhiệm-vụ, lãnh thihành nghị-định này”.(1
__________________________
(1). “Quanh việc chấm dứt hoạt động của Viện Hán học, trực thuộc Viện Đại học Huế”, Chính luận số 367, ngày 13-14/6/1965, tr. 4.
Thông tin về việc giải tán VHH cũng được giới báo chí đưa tin. Báo Tự do(một tờ nhật báo khá phổ biến ở MNVN) số ra ngày 27/9/1964 đăng trên trang nhất một mẩu tin ngắn dưới dòng tít “Giải tán Viện Hán học”: “SAIGON. - Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương đã kí nghị định số 1627-GD ngày 22-9-65 giải tán kể từ niên học 1965-1966 Viện Hán học thiết lập do nghị định số 389-GD ngày 8 tháng 10 năm 1959”.(2) Việc được các nhật báo đưa tin, như tờ Chính luậnđăng loạt bài phản đối việc giải tán VHH, hay tờ Tự do đưa tin việc chính thức giải tán VHH, chứng tỏ sự tồn vong của VHH nói riêngvà của nền Hán học nói chung cũng là một chủ đề được dư luận xã hội quan tâm.
_____________________________
(1). CBVNCH, 9/10/1965, tr. 3838. Cũng xem: Quy-pháp vựng-tập (quyển VIII, từ 1-1-1965 đến 31-12-1965, tập II), Saigon: Sở Công-báo ấn-hành, 1966, tr. 353.
(2). “Giải tán Viện Hán học”, Tự do (nhật báo Saigon), 27/9/1964, tr. 1.
Vậy là, sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ ngày 1/11/1963, VHH chỉ sống lay lắt được thêm 2 năm nữa thì bị giải tán vào năm 1965. Chỉ có 2 khóa tốt nghiệp là khóa 1 (1959-1964) và khóa 2 (1960-1965), đào tạo tổng cộng khoảng 70 người. Với số sinh viên chưa tốt nghiệp, trải qua 3 lần ban hành nghị định về học vụ từ giữa năm 1965 đến cuối năm 1967,(1) cuối cùng ông Ủy viên Giáo dục Nguyễn Văn Thơ đã kí Nghị định số 2143-GD/PC/NĐ (2) ngày 21/9/1967, trong đó quy định: “Sinh-viên viện Hán học Huế học hết năm thứ II hay năm thứ III (niên học 1964-1965) có tú tài I được phép nhập học miễn thi vào năm thứ I trường Sư-phạm Qui-nhơn về niên-học 1965-1966. Sinh-viên học hết năm IV và năm thứ V có tú-tài I hay không có tú-tài I được nhập học miển [miễn] thi vào năm thứ II trường Sư-phạm Qui-nhơn về niên học 1965-1966”.
5. THÀNH TỰU
VHH hoạt động ở 3 lĩnh vực: đào tạo Cử nhân Hán học, phiên dịch sử liệu Hán văn, và nghiên cứu Đông y. Thời gian tồn tại quá ngắn đã làm giảm đi rất nhiều thành tựu của Viện ở cả 3 lĩnh vực hoạt động trên.
Đào tạo
Về đào tạo, mới chỉ có 2 khoá sinh viên tốt nghiệp, tổng số khoảng 70 người, số còn lại khoảng 70 người chuyển sang học ngành khác. Phần lớn sinh viên tốt nghiệp theo nghề giảng dạy
__________________________________
(1). 3 lần ban hành nghị định về học vụ gồm: (1) Nghị định số 742-VHGD/PC/NĐ ngày 26/5/1965 (hiện chưa tìm được toàn văn); (2) Nghị định số 1091-GD/PC/NĐ ngày
18/5/1967 do Ủy viên Giáo dục Nguyễn Văn Thơ kí; (3) Nghị định số 2143-GD/PC/NĐ ngày 21/9/1967 cũng do Nguyễn Văn Thơ kí.
Hai nghị định số (2) và (3), lần lượt xem tại: Quy-pháp vựng tập (quyển X, từ 1-1-1967 đến 31-12-1967, tập II), Saigon: Sở Công-báo ấn-hành, 1969, tr. 1233-1234, tr. 1234-1235.
Cả 3 Nghị định này đều quy định về việc giải quyết vấn đề học tập cho sinh viên VHH chưa tốt nghiệp, trong đó Nghị định ra
Hai nghị định số (2) và (3), lần lượt xem tại: Quy-pháp vựng tập (quyển X, từ 1-1-1967 đến 31-12-1967, tập II), Saigon: Sở Công-báo ấn-hành, 1969, tr. 1233-1234, tr. 1234-1235.
Cả 3 Nghị định này đều quy định về việc giải quyết vấn đề học tập cho sinh viên VHH chưa tốt nghiệp, trong đó Nghị định ra
sau thì sửa đổi và phủ định Nghị định ra trước.
Nghị định số (1) không phải là “bãi bỏ Viện Hán-học thuộc Viện Đại-học Huế (NĐ-742/VNGD)” như Đoàn Thêm đã viết; xem: Đoàn Thêm, 1965 (việc từng ngày), Saigon: Phạm Quang Khai, 1968, tr. 87. Đoàn Thêm cũng ghi sai số Nghị định, “742-VHGD/PC/NĐ” đã bị nhầm thành “NĐ-742/VNGD”.
Nghị định số (1) không phải là “bãi bỏ Viện Hán-học thuộc Viện Đại-học Huế (NĐ-742/VNGD)” như Đoàn Thêm đã viết; xem: Đoàn Thêm, 1965 (việc từng ngày), Saigon: Phạm Quang Khai, 1968, tr. 87. Đoàn Thêm cũng ghi sai số Nghị định, “742-VHGD/PC/NĐ” đã bị nhầm thành “NĐ-742/VNGD”.
2. Quy-pháp vựng tập (quyển X, từ 1-1-1967 đến 31-12-1967, tập II), Saigon: Sở Công-báo ấn-hành, 1969, tr. 1234-1235.
Hán văn hoặc Việt văn cho chương trình Trung học Đệ nhất cấp hoặc Đệ nhị cấp, như Võ Hồng Phi. Khoá 2 (1960-1965), cũng là khoá cuối cùng, có hai người được bổ nhiệm làm việc ở Viện Khảo cổ (Sài Gòn) là Tôn Nữ Thương Lãng và Đinh Thị Cẩm Hà. Nguyễn Lý Tưởng là Dân biểu Hạ nghị viện ở MNVN trước năm 1975, cũng là một nhà khảo cứu lịch sử và văn hoá. Một vài người, cùng với quá trình tự đào tạo, sau này trở thành nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, như Vương Hữu Lễ (ngôn ngữ học), Phan Thuận An (sử học), Ngô Văn Lại (bút hiệu Thái Trọng Lai, văn học). Hội đồng môn cựu sinh viên VHH Huế vẫn giữ những mối liên lạc khăng khít và đầm ấm với nhau, họ tổ chức các hoạt động gặp mặt kỉ niệm thường kì. Những hoạt động này chính là được kế thừa từ truyền thống gắn bó trong phong trào hoạt động sinh viên thời còn đi học,(1) được duy trì cho đến bây giờ, khi họ đã là những người bước sang tuổi “thất thập cổ lai hi”. Năm 1999 Hội đồng môn họp mặt tại TP Hồ Chí Minh để kỉ niệm 40 năm thành lập VHH. Năm 2009, họ tổ chức gặp mặt tại Huế, cùng in cuốn Kí ức và hoài niệm: Đặc san kỉ niệm 50 năm thành lập Viện Hán học Huế 1959-2009, gom góp một số bài viết về VHH để lưu hành nội bộ. Gần đây nhất là dịp gặp mặt tại Vũng Tàu ngày 19-20/12/2013.
___________________________
1. Hai bài viết của Nguyễn Lý Tưởng [2000] và Lý Văn Nghiên [2009] đã kể lại nhiều hoạt động của sinh viên Viện Hán học thời còn đi học, cho thấy họ là những sinh viên năng nổ, nhiệt huyết, cá tính, sinh hoạt có tổ chức, có mối quan hệ gần gũi với các giáo sư.
Nghiên cứu, phiên dịch
Về lĩnh vực phiên dịch sử liệu Hán văn, Ủy ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam (thuộc VĐH Huế), phụ trách việc phiên dịch sử liệu từ Hán sang Việt, nhân viên chủ yếu là cán bộ của VHH, do Nguyễn Huy Nhu làm Trưởng ban. Ủy ban đã phối hợp với một học giả nổi tiếng đương thời là GS Trần Kinh Hoà(陳荊和, Chen Ching-ho) để sưu tầm và phiên dịch một số sử liệu quan trọng. Hiện mới biết đến cuốn An Nam chí lược của Lê Tắc (1961),(1) Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán (1963), và công trình đáng kể nhất là bộ Mục lục châu bản triều Nguyễn, dù mới chỉ in được 2 tập đầu vào các năm 1960, 1962. Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Đăng, ngày 7/7/1959, VĐH Huế xin tiếp nhận và bảo quản toàn bộ kho châu bản (2) và các văn kiện triều Nguyễn đang được lưu trữ trong tình trạng không chu đáo tại Viện Văn hoá Trung kì. Từ đó, Ủy ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam được lập ra, GS Trần Kinh Hoà là Tổng thư kí, tập trung hoạt động đầu tiên là chỉnh lí và làm mục lục châu bản. Sau 2 tháng, Ủy ban đã kiểm kê được 611 tập châu bản thuộc 10 triều vua từ Gia Long (tại vị 1802-1819) đến Bảo Đại (tại vị 1926-1945). Từ tháng 9/1959, Ủy ban bắt đầu làm mục lục theo một mẫu phiếu thống nhất gồm các yếu tố: triều đại, ngày, tháng, năm, tập, trang, loại, xuất xứ, trích yếu, đề tài, bị chú,bằng tiếng Việt và chữ Hán. Sau khi 2 tập đầu được in vào các năm 1960 (triều Gia Long) và 1962 (triều Minh Mạng), từ tháng 6/1962, GS Trần Kinh Hoà chuyển sang công tác ở Hồng Kông, dù ông vẫn tiếp tục chỉ đạo việc làm phiếu, cho đến năm 1965, đối với các nội dung châu bản tiếp theo, nhưng việc xuất bản các tập mục lục thì bị dừng lại. Kinh phí hoạt động của Ủy ban chủ yếu do các tổ chức nước ngoài tài trợ, như để xuất bản bộ Mục lục châu bản triều Nguyễn, đã có sự giúp đỡ của Hội đồng Nghiên cứu Đông Á (Council for Eastern Asian Studies), Viện Harvard-Yenching, và Quỹ Châu Á (Asia Foundation).(1) Theo cựu sinh viên khoá 1 Ngô Văn Lại, người ngay từ khi còn là sinh viên VHH đã được tham gia cùng các cụ lão Nho vào việc chỉnh lí và làm thư mục cho bộ châu bản triều Nguyễn, thì hiện nay nhiều tập châu bản đã bị thất lạc, các phiếu tư liệu của Ủy ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam hiện được lưu ở thư viện Trường Đại học Khoa học (thuộc Đại học Huế), từ năm 1985 bắt đầu được sao chụp để sử dụng. Đến năm 1998, nhờ nguồn tài trợ quốc tế, thư viện Trường Đại học Khoa học phối hợp với Cục Lưu trữ Nhà nước và Đại học Quốc gia Hà Nội đã biên tập và xuất bản tiếp tục.(2) Việc khởi thảo bộ Mục lục châu bản triều Nguyễn là một công việc đồ sộ, có giá trị tư liệu và khoa học của Ủy ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam, mà phần công việc chuyên môn thì chủ yếu do người của VHH đảm nhiệm. Di sản tư liệu đồ sộ mà họ để lại, vì chưa có điều kiện in ấn lúc ấy, hiện nay vẫn đang được rà soát và biên tập để xuất bản. Đó có thể coi là đóng góp đáng kể nhất về mặt nghiên cứu học thuật của VHH.
Về nghiên cứu Đông y thì hiện chưa tìm được tư liệu và thông tin gì. Có thể do điều kiện hạn chế về tư liệu, cho nên việc đánh giá các thành tựu về phiên dịch sử liệu và nghiên cứu Đông y ở đây chưa khái quát hết được các bình diện, nhưng dù sao cũng khó có thể đánh giá quá cao những đóng góp về học thuật của VHH từ hai bình diện này.
_____________________________
1. Cuốn An Nam chí lược sau này được NXB Lao động và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây tại Hà Nội cho in lại (2009), nhưng bỏ đi toàn bộ phần phiên âm Hán Việt vốn trong bản cũ, vốn được trình bày song song với phần dịch nghĩa.
2. Châu bản (硃本, văn bản có chữ màu đỏ, do vua ngự phê): các văn bản hành chính của triều đình được hình thành trong quá trình hoạt động quản lí điều hành nhà nước do đích thân nhà vua ban hành hoặc ngự phê trực tiếp bằng bút son (màu đỏ).
______________________________
1. Nguyễn Văn Đăng, “Về hoạt động của nhà Đông phương học Trần Kinh Hoà (1917-1995) trên đất Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (90) năm 2012, tr. 107-118.
2. Nguyễn Trương Đàn, “Gặp người cuối cùng trong nhóm biên dịch Mục lục châu bản triều Nguyễn”, Tạp chí Sông Hương, số 186, tháng 8/2004. Xem bản online tại
tapchisonghuong.com.vn, ngày 1/9/2009.
Nhìn chung, những thành tựu về chuyên môn nghiên cứu và đào tạo của VHH còn nhiều hạn chế, mà nguyên nhân căn bản dẫn đến hạn chế này là do thời gian tồn tại của VHH quá ngắn ngủi, chưa kịp định hình thiết chế đào tạo và nghiên cứu Hán học một cách chặt chẽ và quy mô như chủ trương từ ban đầu.
6. NHÌN LẠI
Ở MNVN những năm 1955-1975, xét trong các thiết chế đào tạo Hán học (tương đương với “nghiên cứu Hán Nôm”, hoặc “Hán Nôm học” - thuật ngữ thông dụng ở MBVN từ nửa sau thế kỉ XX), thì VHH Huế là đơn vị chính quy, tập trung, và chuyên môn hoá cao hơn so với các Ban Hán văn tại các Đại học Văn khoa, cũng như các Ban Việt Hán tại các Đại học Sư phạm. Viện được khai sinh năm 1959 bởi một “văn quan” 58 tuổi có tư tưởng Nho giáo truyền thống, tức Tổng thống Ngô Đình Diệm (1901-1963), rồi được khai tử năm 1965 bởi một “võ tướng” trẻ, khi ấy mới 35 tuổi, tức Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011). Số phận của VHH gắn liền với sự thăng trầm của quyền lực chính trị.
Viện được thành lập theo “mĩ ý” của Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1959, và khó có thể nói rằng đó là một quyết định sai lầm. Trong một xã hội đang chuyển đổi theo hướng Âu Mĩ hoá mạnh mẽ về nhiều mặt, thì việc thiết lập một đơn vị chuyên trách việc đào tạo và nghiên cứu văn hoá truyền thống là điều cần thiết, trước khi truyền thống ấy bị đứt gãy hoàn toàn với hiện tại do không còn có các nhân tố con người được đào tạo đến mức có đủ khả năng kết nối. Viện được thành lập ở đất Thần Kinh(神京) - cố đô Huế - cũng là một lựa chọn đúng đắn nếu xét đến các khu vực trung tâm trong toàn bộ lãnh thổ MNVN khi ấy, bởi trong suốt gần 150 năm triều Nguyễn, Huế là nơi hội tụ được nhiều nhà khoa bảng nổi tiếng, lưu giữ được nhiều di tích và tư liệu cổ, đến giữa thế kỉ XX vẫn còn nhiều nhà cựu học tâm huyết với việc trao truyền văn hoá kinh điển Hán học. Bộ QGGD tạo điều kiện bằng cách không yêu cầu thí sinh dự thi phải có bằng Tú tài (mà chỉ cần bằng Trung học Đệ nhất cấp), đồng thời cấp học bổng toàn phần và bán phần cho tất cả sinh viên - một sự biệt đãi chỉ dành cho sinh viên các trường Sư phạm và VHH.
Tuy nhiên, những lợi thế đó không thể bù lại những khó khăn sau đây:
1) Sự ưu ái của Tổng thống Ngô Đình Diệm đối với VHH là một sự ưu ái mang tính nhất thời, thiếu sự quan tâm sát sao về lâu về dài. Ngay khi còn đương nhiệm, ông đã không tạo điều kiện cho Viện có được những ưu ái thiết thực từ góc độ cơ sở vật chất (trụ sở, giảng đường). Sang thời Quân quản, khó khăn sẽ
nhiều thêm bởi phần đông nhóm sĩ quan quân đội quản lí quốc gia không mấy mặn mà với văn hoá truyền thống, lại càng không ưa một thiết chế học đường dường như “lỗi thời”, một thứ “của nợ” còn rơi rớt lại của chính quyền mà họ vừa lật đổ.
2) Sự nghi kị của xã hội về một ngành học “cũ kĩ” cũng tạo áp lực cho sinh viên, khiến một số sinh viên không tha thiết theo học mặc dù đã thi đỗ, cho nên trong thời gian học tại VHH, họ tranh thủ ôn thi lấy bằng Tú tài để có điều kiện thi chuyển sang trường khác. Tình hình đó diễn ra ngay trong năm học đầu tiên của khoá tuyển sinh đầu tiên.
3) Một số chính sách của Bộ QGGD (sau đó là Bộ Văn hoá Giáo dục) không phù hợp với việc đào tạo chuyên sâu về Hán học. Đầu tiên là việc duy trì đồng thời trong VĐH Huế 3 đơn vị đào tạo Hán học, mặc dù lĩnh vực đào tạo cụ thể của 3 đơn vị này không hoàn toàn trùng nhau: một là VHH, hai là lớp Hán văn thuộc Đại học Văn khoa, ba là lớp Việt-Hán thuộc Đại học Sư phạm. Đó là chưa kể đến ban Hán văn có mặt trong tất cả các Đại học Văn khoa khác. Mô hình đào tạo như vậy khiến cho các sinh viên của VHH khi ra trường sẽ chịu “lép vế” so với hai đơn vị còn lại, dù chỉ là về danh nghĩa: họ thua thiệt so với lớp ViệtHán của trường Sư phạm vì họ thiếu chuyên môn sư phạm, nên khó được bổ dụng làm Giáo sư Trung học; họ cũng thua thiệt so với lớp Hán văn thuộc Đại học Văn khoa vì lớp Hán văn đó thuộc hệ Đại học thực thụ (chứ không phải nửa Đại học nửa Cao đẳng như VHH), sẽ là lựa chọn đầu tiên cho các nhà tuyển dụng cần tới Hán học.
Thí sinh nộp đơn hẳn là cảm thấy rất hứa hẹn vì một là “đầu vào” yêu cầu khá thấp, hai là được cấp học bổng, ba là “đầu ra” đầy hứa hẹn với những công việc có vị trí khá cao trong xã hội. Đầu vào còn thấp, bằng Trung học Đệ nhất cấp (học hết lớp 9), tương đương với đầu vào của bậc đào tạo Trung học chuyên nghiệp ngày nay. Điều 18 trong Nghị định tổ chức Viện cũng ghi rõ là “Sinh-viên viện Hán-học sẽ theo chế-độ áp-dụng cho sinh-viên các trường cao-đẳng chuyên-nghiệp”, chứ không phải trường đại học. Đầu vào thấp như thế chắc hẳn cũng làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sinh viên trong quá trình học. Đầu ra dù rất hứa hẹn nhưng trên thực tế là không thiết thực, khiến cho ngay khoá đầu tiên tốt nghiệp đã gặp khó khăn về tuyển dụng. Bộ chỉ quan tâm đến đầu vào chứ không quan tâm đến đầu ra của sinh viên, không thực hiện đúng lời hứa về bổ nhiệm ghi trong Nghị định tổ chức. Nghị định này cũng ghi nước đôi là “có thểđược bổ-dụng”, chứ không phải “sẽ được bổ dụng”, nên Lý Văn Nghiên cho rằng “do vậy khi qua kiểm soát ước chi người ta không chịu, bởi lẽ các trường hợp này khi Bộ có nhu cầu thì sẽ tuyển dụng còn không có nhu cầu thì không tuyển dụng, vì không bắt buộc và không dự trù trong ngân sách” [2009: 237].
Việc liên tục thay đổi bộ máy quản lí VĐH Huế cũng như VHH cũng khiến cho công việc quản lí gặp nhiều khó khăn. Hội đồng quản trị và hoàn bị của Viện cũng không thể hoàn thành một trong các nhiệm vụ của mình là “giúp đỡ sinh-viên tốt-nghiệp tìm công việc” như ghi trong Nghị định tổ chức Viện. Hội đồng Giáo sư đã rất nỗ lực tìm lối thoát. Trong điều kiện xã hội MNVN những năm 1960, nếu giải quyết tốt vấn đề bổ nhiệm cho sinh viên tốt nghiệp, và triển khai được chương trình giảng dạy mới gồm 7 năm, kèm theo thiết lập ngành Nghiên cứu tại VHH, như đề nghị tháng 3/1965 của Hội đồng Giáo sư, thì chắc hẳn Viện sẽ có những đóng góp đáng kể cho việc đào tạo và nghiên cứu Hán học tại MNVN. Nhưng lịch sử đã không tạo điều kiện cho việc thực thi đề án đổi mới này. Lời hứa của Bộ Văn hoá Giáo dục năm 1965 về việc “thành lập một cơ quan khác hợp lí và tốt đẹp hơn để thay thế cho Viện Hán học cũ” cũng chỉ là lời hứa suông nhằm xoa dịu phản ứng của giảng viên, sinh viên, phụ huynh và nhân sĩ Hán học đương thời.
4) Niềm hi vọng càng lớn thì nỗi thất vọng càng lớn. Cho nên khi ngay khoá đầu tiên đã gặp khó khăn về tuyển dụng, thì sinh viên bị hoang mang tâm lí, đi đến thoả hiệp với Bộ Văn hoá Giáo dục rằng chỉ cần giải quyết vấn đề trước mắt, là việc tuyển dụng đối với sinh viên đã tốt nghiệp và việc học tập đối với sinh viên đang học. Họ chưa nhìn đủ xa để thấy được tầm quan trọng về lâu về dài của một ngành nghiên cứu cơ bản mà họ đang và sẽ gánh vác trách nhiệm. Cũng nên thông cảm với sinh viên của VHH về hành động đó, bởi trong giai đoạn 1963-1964, có quá nhiều bất ổn chính trị - xã hội ở MNVN đã tác động tiêu cực tới những người trẻ tuổi ấy. “Rất tiếc chúng tôi mới chỉ là những đứa bé đang tượng hình trong bụng mẹ, chưa hoàn chỉnh thì chết yểu rồi”, trích lời trao đổi riêng của bà Võ Hồng Phi, khoá 2, một trong những sinh viên cuối cùng tốt nghiệp VHH.
Tóm lại, số phận ngắn ngủi của VHH đã cho thấy nó là một sản phẩm kết hợp không thành công giữa văn hoá truyền thống, học thuật, giáo dục, xã hội, và chính trị. VHH chưa được tạo điều kiện tốt về nhiều bình diện then chốt trong quá trình đào tạo Hán học: cơ chế quản lí giáo dục, chất lượng và tâm lí người học, giảng đường và cơ sở vật chất, và quan trọng hơn cả là vấn đề việc làm. Kinh nghiệm lịch sử này vẫn còn nguyên giá trị đối với việc duy trì ngành đào tạo Hán Nôm trong các trường đại học và cao đẳng ở Việt Nam hiện nay.
Harvard, 2013-2014
N.T.C
(TS., Viện Nghiên cứu Hán Nôm)
(Trích Đặc San 55 Năm Nhớ Lại của cựu sinh viên Viện Hán Học Huế để kỷ niệm 55 năm ngày thành lập trang 234 - 275)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét