Thứ Sáu, 6 tháng 11, 2015

Tiếng Thơ Tao Đàn và Miền Nam Tự Do - Nguyễn Đức Cung

TIẾNG THƠ TAO ĐÀN VÀ MIỀN NAM TỰ DO

                                                      Nguyễn Đức Cung

        Sau bốn thập niên mất nước và “bầy chim bỏ xứ” ra đi, ngày nay chúng ta có cơ hội ngâm lại những vần thơ cũ, những vần điệu trác tuyệt đầy tính chất ngôn ngữ Việt Nam, nghe những khúc nhạc nồng nàn tình tự quê hương đất nước, để hãnh diện trong niềm trân quý cái gia tài văn hóa mà các thế hệ cha anh chúng ta đã trao lại từ những thập niên của thế kỷ XX trong một thoáng nhìn qua “Tiếng thơ Tao Đàn và Miền Nam Tự Do.” Đây là một việc làm “đốt lò hương cũ…” cũng đầy ý nghĩa, bởi vì hành trình của dòng thơ Miền Nam nước Việt trước năm 1975, quả thật là khơi nguồn một mạch sống tinh thần đầy tính phục sinh và sáng tạo qua thể điệu thi ca và ngôn ngữ dân tộc.

        I.- Tiếng thơ Tao Đàn trong dòngThơ Mới (1932-1945).
       
        Năm 1932, những nhà thơ mới của Việt Nam mới bắt đầu đoạn tuyệt với lối thơ Đường gò bó trong thể thơ tám câu bảy chữ hay tứ tuyệt, ngũ ngôn và khỉ sự đề ra một lối thơ gọi là Thơ Mới, đã mạnh dạn nói đến cái tôi, xác định vị trí cá thể cơ hữu của mình.
        Các nhà tiền phong của Thơ Mới chủ trương thơ cốt chơn và vì thế Phan Khôi bày ra một lối thơ “đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vần mà không bó buộc bởi niêm luật gì hết.” thể hiện trong bài thơ Tình Già của ông trình diện làng thơ ngày 10-3-1932.
        Trước đó không lâu một nhà thơ được coi là thi sĩ quá độ giữa hai dòng thơ cũ và thơ mới đó là Tản Đà với các bài thơ Thề Non NướcTống Biệt. Các thi nhân thơ mới hay nói về cái tôi kể cả những sự thật của đời sống nội tâm, thí dụ như Thế Lữ:
        Tôi chỉ là khách tình si / Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể. / Mượn lấy bút nàng Ly Tao tôi vẽ, /Và mượn cây đàn ngàn phiếm tôi ca.
        Hoặc như Xuân Diệu:
        Tôi là con chim đến từ núi lạ, / ngứa cổ hát chơi…
        Hay là tình tứ hơn: Tôi muốn tắt nắng đi /Cho màu đừng nhạt mất; / Tôi muốn buộc gió lại / Cho hương đừng bay đi…
        Và Hàn Mặc Tử : Tôi làm trăng cổ độ, / Lượng trời rộng bao la. / Tôi làm Tô Đông Pha, / Đàn tương tư lạc điệu…
        Trong tác phẩm bình thơ bất hủ in năm 1942 của hai tác giả Hoài Thanh và Hoài Chân có tên Thi Nhân Việt Nam, giới thiệu 44 khuôn mặt các nhà thơ nổi tiếng nam có, nữ có thì quả thật trên đất nước Việt Nam, giữa lòng thế kỷ XX đã xuất hiện một Hội Tao Đàn có mặt đầy đủ Nam, Trung, Bắc với các trường phái như phái tả tình, lãng mạn, tượng trưng, tả thực, phái thiên nhiên, nông thôn, kể cả trường phái lập dị như trường phái thơ Bạch Nga của Nguyễn Vỹ hay nhóm Xuân Thu Nhã Tạp của Nguyễn Xuân Sanh, Đoàn Phú Tứ v.v…
        Nếu nói rằng đã có một hội Tao Đàn Việt Nam xuất hiện trong thập niên 30 của thế kỷ XX và được giới thiệu khá đầy đủ trong tác phẩm bình thơ nổi tiếng nói trên thì điều đó cũng không phải là sai sự thật. Tác phẩm đó đã dành cho các tác giả nhiều chỗ ngồi vinh dự trên văn đàn Việt Nam.Thật vậy, đọc lại tác phẩm Thi Nhân Việt Nam, chúng ta thấy tác giả Hoài Thanh đã trịnh trọng mở đầu bằng một bài “Cung chiêu anh hồn Tản Đà” với những đọan văn xác nhân danh xưng của một tập thể những người làm thơ, đồng thời suy cử một vị nguyên soái của thi đàn, được trích dẫn như sau:
        “Hội Tao đàn hôm nay đông đủ hầu khắp mặt thi nhân; chúng tôi một lòng thành kính xin rước anh hồn tiên sinh về chứng giám…”
        Và trong đoạn văn dưới, Hoài Thanh viết tiếp: “Có tiên sinh, người ta sẽ thấy rõ chúng tôi không phải là những quái thai của thời đại, những đứa thất cước không có liên lạc gì với quá khứ của giống nòi. Có tiên sinh, trên Tao đàn sẽ còn phảng phất chút bình yên trong tin tưởng, chút thích thảng mà từ lâu chúng tôi đã mất.
        Thôi, chúng tôi không muốn nói nhiều. Hội Tao đàn đến lúc mở. Xin tiên sinh hãy khai hội bằng ít bài thơ.”

   Danh xưng của thi đàn đơn giản là Hội Tao Đàn và tên vị nguyên soái là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939). Vì sao Hoài Thanh và Hoài Chân đã chọn Tản Đà làm nguyên soái cho dòng thơ được gọi là Thơ Mới ở nước ta? Xin hãy nghe hai tác giả này biện giải: “ Đôi bài thơ của tiên sinh ra đời từ hơn hai mươi năm trước đã có một giọng phóng túng riêng. Tiên sinh đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ đương sắp sửa.
        Ngay sau khi Tản Đả mất (1939), nhà thơ trẻ Xuân Diệu đã ghi nhận công của thi sĩ Tản Đà với văn học Việt Nam như sau: “Tản Đà là người thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi.”
        Theo dòng thời gian, Tiếng thơ Tao Đàn thể hiện trong dòng thơ mới đã dần dà chiếm lĩnh ưu thế của trận địa.

        II.- Tiếng thơ Tao Đàn chìm khuất trong dòng thơ chính trị ở Miền Bắc Việt Nam (1945-1975).

        Năm 1943, Trường Chinh, lý thuyết gia của đảng CS đưa ra bản Bản Đề Cương Văn Hóa Việt Nam với câu viết nhấn mạnh rằng “Cách mạng văn hóa có thể hoàn thành khi nào cách mạng chính trị thành công” và một chỗ khác ông nhấn mạnh: “Đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hóa tiên phong.” Ngoài ra Trường Chinh cũng vạch rõ: “Nền văn hóa mà cuộc cách mạng văn hóa Đông Dương phải thực hiện sẽ là văn hóa xã hội chủ nghĩa.” Kể từ đó, tiếng thơ của những kẻ đi theo Cộng Sản không còn là tiếng thơ Tao Đàn.
        Sau khi cướp được chính quyền năm 1945, thơ chính trị dưới sự lèo lái của Việt Minh CS,  phát triển trong các vùng do Việt Minh kiểm soát. Hồ Chí Minh trong tập thơ ‘cầm nhầm’ Ngục trung nhật ký có những câu được coi như là tuyên ngôn về thơ :
        Nay ở trong thơ nên có thép, / Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
        Khinh mạn đối với lịch sử, đối với tiền nhân là tội ác mà Hồ Chí Minh đã phạm. Khi tới thăm Đền Kiếp Bạc ở Hải Dương nơi thờ Đức Trần Hưng Đạo, Hồ Chí Minh đã làm một bài thơ tự ví công lao mình còn hơn cả Đức Trần Hưng Đạo với những lời lẽ ngang tàng như sau:
        VỊNH TRẦN HƯNG ĐẠO
        Tôi anh hùng, bác cũng anh hùng
        Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung.
        Bác đuổi quân Nguyên thanh kiếm bạc,
        Tôi bình giặc Pháp ngọn cờ hồng.
        Bác đưa một nước qua nô lệ,
        Tôi dắt năm châu tới đại đồng.
        Bác có khôn thiêng cười một tiếng,
        Mừng tôi cách mạng đã thành công.
        Về sau nghe dư luận quần chúng VN chỉ trích mạnh mẽ, bài thơ đó cấm phổ biến nhưng nhiều người còn thuộc và ghi lại cho lịch sử phê phán.
        Tuy nhiên, trong các vùng Việt Minh kiểm soát đã có nhiều dấu hiệu báo trước một trận bão sắp tới, và cảnh cáo trước rằng cái tôi trong thi ca của các nhà thơ Việt Nam sẽ không còn đất đứng, không còn chỗ dung thân theo cùng với cơn lốc kháng chiến. Họ đã bị o ép hay tự nguyện cải tạo bản thân, lột xác, tẩy não sau các đợt chỉnh huấn, chỉnh quân, chỉnh phong của các văn nghệ sĩ, bộ đội hay cán bộ.
        Lãnh tụ thi ca Cộng SảnTố Hữu từng viết những câu thơ như chỉ thị:
        Chúng con thành khẩn lột người / Từ nay xin nguyện suốt đời ăn năn.        
        Người cộng sản đã lội dòng nước ngược, phủ nhận quá khứ, phủ nhận quyền con người bởi vì từ những thập niên 30 của thế kỷ XX, Thơ Mới thời tiền chiến đã làm một cuộc cách mạng lớn, nếu không là lớn nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam, khi đem cái “tôi” vào thơ và qua cuộc cách mạng đó nhà thơ hiện diện trong thơ như một chủ thể, một cá thể.
        Năm 1954, chế độ CS sau khi chiếm lĩnh trọn bộ quyền hành ở Miền Bắc, hàng ngũ các nhà thơ theo kháng chiến đã trước sau phủ nhận các tác phẩm của mình.
        Trước năm 1945, tiếng thơ Xuân Diệu từng rung trên những phiếm tơ: Làm sao sống được mà không yêu, / Không nhớ, không thương một kẻ nào, thì trong các đợt cải cách ruộng đất, cũng Xuân Diệu, tác giả những câu thơ sắt máu, đã thét câu khẩu hiệu hung bạo này:
        Anh em ơi! quyết chung lưng / Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù. / Địa hào, đối lập ra tro / Lưng chừng phản động tới giờ tan xương.
        Huy Cận ngày xưa từng lặng lẽ buồn khi viết :
        Tai nương nước giọt mái nhà
        Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn.
        Ngày nay Huy Cận viết như phủ nhận cá nhân, đề cao cái tập thể:
        Mưa xưa rời rạc tần ngần
        Mưa nay riú rít nhân quần tiếng vang
        Giọt mưa cũ ố vàng thơ phú
        Triều mưa nay đoàn tụ lúa xanh.
        Chế Lan Viên cũng như Hoài Thanh là những người tỏ ra mẫn cán nhất trong vai trò thi nô của mình, nhiệt liệt buộc tội những biểu hiện buồn rầu trong thơ.
        Tiếng thơ của Tố Hữu không còn là tiếng thơ của cách mạng mà toàn những ngôn từ nịnh hót: Yêu biết mấy, khi nghe con học nói / Tiếng đầu lòng con gọi Xít Ta Lin.
        Nhận được tin Xít Ta Lin chết, Tố Hữu đã khóc thay lời vợ: Thương cha, thương mẹ, thương chồng, / Thương mình thương một, thương ông thương mười.
        Từ thơ chính trị chủ trương ca tụng đất nước, tổ quốc, thi ca cộng sản dần chuyển hướng sang thơ chính sách khi người CS đã nắm được chính quyền với dụng ý dùng thi ca để củng cố chế độ, xây dựng chiếc ghế độc tôn của đảng cộng sản.
        Tuy nhiên, văn nghệ sĩ nói chung là những người chịu ảnh hưởng nền văn hóa tự do của Tây phương nên ước muốn sống một đời tự do, hay ý thức tự do vẫn còn tiềm tàng trong huyết quản của họ. Trước đây họ hy sinh theo đảng CS, đặt mình dưới sự lèo lái của đảng CS vì mục đích để đánh Pháp, giành lại độc lập. Nay người Pháp đã thua trận Điện Biên Phủ, đã chịu rút lui khỏi VN thì khi văn nghệ sĩ về Hà Nội họ đã cương quyết đòi Đảng CSVN phải trả lại cho họ quyền tự do sáng tác, không bị lãnh đạo bởi đảng cho nên mới nảy sinh ra vụ án Nhân Văn – Giai Phẩm tại Hà Nội từ tháng 2 đến 12 năm 1956. Người ta có thể kể hằng trăm văn nghệ sĩ và giới cầm bút đó là Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Lưu Thị Yến tức Thụy An, Phùng Quán, Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, sau đó có thêm Phan Khôi, Trương Tửu, Phùng Cung, Trần Lê Văn, Nguyễn Mạnh Tường, kể cả Đào Duy Anh và một số nhà thơ, nhà văn, giáo sư đại học như Hữu Loan, Trần Duy, Chu Ngọc, Trần Đức Thảo và nhóm sinh viên Bùi Quang Đoài.
        Trong Giai Phẩm Mùa Xuân (tháng 2-1956), Trần Dần trong bài thơ Nhất định thắng can đảm viết:
        Tôi bước đi  / không thấy phố, / không thấy nhà. / Chỉ thấy mưa sa / trên mầu cờ đỏ.
        Hoàng Cầm đã có câu thơ được coi như tuyên ngôn của cả nhóm: Dù sợi tóc còn cứa vào nhân phẩm / Tôi còn thét to dù khản tiếng khàn hơi.
        Phùng Quán có những câu đã đi vào lòng người chân chính:
        Yêu nhau cứ bảo rằng yêu / Ghét nhau cứ bảo rằng ghét / Dù ai cầm dao dọa giết / Cũng không nói ghét thành yêu / Dù ai nói ngọt nuông chiều / Cũng không nói yêu thành ghét.
        Sau năm 1956, vụ Nhân Văn – Giai Phẩm nổ ra ở Miền Bắc với hàng trăm văn nghệ sĩ bị chế độ Cộng Sản đấu tố, bắt giam và tước quyền tự do sáng tác của họ, đày đi lao cải tại các nông trường, nhà máy cho đến hơn ba mươi năm sau. Giai Phẩm ra được ba số, Nhân Văn ra được 9 số đánh thẳng vào thành trì của chế độ CS gây vang dội vào tận Miền Nam.
        Cũng từ năm 1956 trở đi, thi ca Miền Bắc hoàn toàn mang vóc dáng một dòng thơ chính sách nghĩa là thuần cổ vũ, ngợi ca các chính sách của đảng CS. Thơ của họ cũng có nói cái “tôi” nhưng là cái tôi đại biểu phát ngôn quan điểm, tình cảm của một giai cấp.  Thơ cộng sản nghèo nàn vì quanh đi quẩn lại cũng một vài đề tài do đảng CS chỉ định, giả tạo vì nói chung, tả chung một khuôn mẫu tình cảm như nhau .   Xa nhau không hề rơi nước mắt / Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt. (Nam Hà)
        Chế Lan Viên từng viết hai câu thơ được coi là tuyên ngôn của thơ cộng sản:
        Ta cầm lấy trái tim mà bóp chặt /
        Tiếng yêu thầm rên rỉ dưới bàn tay.
        Bởi vì thơ cộng sản là thơ chính sách nên sinh ra giả tạo từ đó dẫn tới đơn giản và đơn điệu và đã bị những người chính trong hàng ngũ CS quy kết đó là một nền thơ vô nhân đạo. Trên báo Văn Nghệ số ra ngày 12-3-1988, Hoàng Phủ Ngọc Tường, nguyên là một trí thức miền Nam theo cộng sản từ năm 1965, phát biểu: “Văn học sẽ trở thành vô nhân đạo và vô trách nhiệm nếu nó tỏ ra không cần biết rằng trên đất nước yêu quý của chúng ta vẫn tồn tại những con người bị lăng nhục.” Thơ cộng sản hủy diệt nhân phẩm và biến thân phận con người trở thành số mệnh của một tên đầy tớ.
        Thơ cộng sản chỉ là công cụ tuyên truyền, phục vụ chế độ để được cấp tem phiếu mua lương thực trong một xã hội mà cái đài bán dẫn, chiếc xe đạp là nỗi mơ ước cả một đời con người.
        Xuân Diệu, nhà thơ tình yêu thời tiền chiến, nay hạ mình viết những câu thấp kém như sau:
        Con quỳ trước Bác mênh mông.
Hoặc là :
        Chúng con dưới vực sai lầm / Đang vươn mình, được Bác cầm tay lên.
trong khi đó Xuân Diệu lại rất sắt máu với cả đồng bào ruột thịt: Lôi cổ bọn nó ra đây / Bắt quỳ gục xuống đọa đày chẳng thôi / Bắt chúng đứng chẳng cho ngồi…
        Chế Lan Viên, tác giả tập thơ Điêu Tàn nổi danh thời tiền chiến, nay hạ bút viết những câu như:
        Miền Nam ta ơi, / Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất.
Hoặc giả:
        Ta đánh mày hân hoan như sinh đẻ / Và thiêng liêng như xây dựng kỳ đài.
        Nói tóm lại, nhà thơ phải có nhân cách; không có nhân cách thì nhà thơ chỉ được coi là thi nô, không hơn không kém.
        Trong một xã hội Cộng Sản mà trong văn nghệ không được nói đến cái tôi, mà chỉ nói chúng ta. không đề cập đến tình cảm riêng tư, muốn yêu ai phải xin phép đảng (trường hợp Trần Dần yêu một thiếu nữ Công Giáo ở Hà Nội), ruộng đất toàn bộ bị sung công biến thành hợp tác xã, phá bỏ triệt để quyền tư hữu, chủ trương đấu tranh giai cấp, cấm tự do tôn giáo, tín ngưỡng thì xã hội đó là một nhà tù tập thể, không hơn không kém. Làm sao có văn chương, làm sao có thi ca đúng nghĩa trong một xã hội như vậy được ? 
        Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tất cả những ai đi ngược lại đường lối tôi đã vạch ra đều phải bị tiêu diệt.”
        Chế độ cộng sản huy động các nhà thơ sáng tác nhanh, xuất bản nhiều thi phẩm nhưng chất lượng nghèo nàn, nội dung kém cỏi, đơn điệu một chiều, chỉ biết ca tụng một số lãnh tụ khiến cho Xuân Diệu, trong năm 1986 qua bài Sáu mươi năm phía trước in trong tập 40 năm văn học,đã phải thành thật thừa nhận rằng: “Chúng ta có rất nhiều thơ, nhưng ít thi sĩ, ít thi gia.” (trang 60)

        III.- Tiếng Thơ Tao Đàn hay Dòng Thơ Tự Do của Miền Nam Việt Nam (1954-1975).

        Năm 1954,  trên cửa vào  nhiều con tàu há mồm chở dân Bắc vào Nam, người ta đọc thấy câu khẩu hiệu “ This is your passage to freedom, Đây là con đường TỰ DO của bạn.” Trong số gần một triệu người đó có cả một “thủ đô văn hóa” đang di cư vào Nam gồm 1200 sinh viên từ Bắc vào Sàigòn. Họ là những thanh niên thuộc giới trí thức trẻ  hay giới trẻ đã học thành tài ở các nước Tây phương cũng chọn về Miền Nam

                                    (Tổng Thống Ngô Đình Diệm)
  
        Trong Lời Mở Đầu của Bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành năm 1956, có viết câu sau đây làm nền tảng cho đường hướng xây dựng con người:”Tin tưởng ở giá trị siêu việt của con người mà sự phát triển tự do, điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi hoạt động Quốc Gia…”
        Trong bài diễn văn đọc trước Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ ngày 9-5-1957, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã nói: “Bản chất của dân chủ là nỗ lực không ngừng để tìm mọi biện pháp chính trị khả dĩ bảo đảm cho tất cả các công dân, quyền tự do tiến triển, phát huy sáng kiến, đảm đương trách nhiệm, và sinh hoạt tinh thần tối đa.”.
        Chủ trương một nền văn hóa tôn trọng nhân vị con người, chế độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã thật sự mở ra một hướng tiến vĩ đại cho Miền Nam để một mặt lo cho cuộc sống của người dân, một mặt thu hút người dân Miền Bắc đang quằn quại dưới chế độ độc tài của CS, đồng thời tạo cơ hội cho thế giới ủng hộ chế độ VNCH. Tất cả những yếu tố nhân tài nói trên, cộng với một chính quyền thực sự vì dân đã hình thành một nền văn hóa phục vụ con người và tất cả mọi quyền tự do của con người.
        Năm 1953, TT Ngô Đình Diệm có viết một bài thi Đường luật để nói lên tâm sự của mình như sau:
        NỖI LÒNG
        Gươm đàn nửa gánh quẩy non sông
        Hỏi bến: Thuyền không, lái cũng không.
        Xe muối nặng nề thương vó Ký,
        Đường mây rộng rãi tiếc chim Hồng.
        Vá trời lấp biển người đâu tá?
        Bán lợi mua danh chợ vẫn đông.
        Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
        Cắm sào đợi khách, thuở nào trong?
                        Ngô Đình Diệm, 1953.
        Tất cả những yếu tố về người lãnh đạo, chính sách và nhân sự nói trên quả thật là một vườn ương để cây văn hóa trổ sinh và phát triển, trưởng thành trên một vùng đất mới, đất hứa của Việt Nam giữa lòng thế kỷ XX.
        Miền Nam và mảng văn học ấy (trong đó có thi ca) mang sắc thái đặc thù cá biệt dựa trên một chính thể pháp định, có tự do con người, tự do dân chủ, tự do tư tưởng dẫn đường đưa đến có tự do sáng tác (Nguyễn Văn Lục, Tinh thần tự do sáng tác trong giới làm văn học miền Nam. Đàn Chim Việt, ngày 30-06-2007)
        Ở Miền Nam Tự Do, từ ngày 7 đến 16 tháng 01 năm 1957, Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc với trên ba trăm văn nghệ sĩ, chính khách, nhà báo, nhà văn, nhà thơ được triệu tập thời TT Ngô Đình Diệm, người ta đưa ra ba tiêu ngữ ứng dụng trong lãnh vực văn hóa, đó là Dân tộc, Nhân bản, Khai phóng. Trong đại hội đó, một Dân biểu Miền Nam, ông Nguyễn Phương Thiệp trình bày về tự do tư tưởng trong Hiến pháp VNCH và cho rằng sự “chỉ huy văn hóa” của cộng sản đã tiêu diệt sáng tác văn hóa vì nó phủ nhận bản sắc cá nhân của mọi người nghệ sĩ, nguồn gốc của sự sáng tác. (Theo Trần Anh, Chủ nghĩa quốc gia của chánh quyền Đệ Nhứt Cộng hòa, 1954-1963, Tạp chí Talawas số mùa Thu 2009, chuyên đề “Bao nhiêu chủ nghĩa dân tộc là đủ?).
        Từ khoảng giữa năm 1955, trên Đài Phát Thanh Sài Gòn, hằng tuần vào tối Thứ Tư lúc 9 giờ trên làn sóng ngắn,  người dân Miền Nam thường nghe một lời giới thiệu rất quen thuộc, giọng Bắc, rắn rỏi mà lôi cuốn “Đây Tao Đàn, tiếng nói của Thi Văn Miền Tự Do, do Đinh Hùng phụ trách”. Sau đây xin nghe vài đoạn thơ của Đinh Hùng (1920-1967) :

   Nhà văn Mặc Đỗ cho biết :”. Con người tài hoa này không riêng trong hoạt động thơ văn, mà còn muốn biểu hiện tư chất tài hoa trong lối sống…”
        Nhà văn Phan Lạc Phúc nói về tổ chức Tao Đàn như sau : “Ban Tao Đàn ngoài trách nhiệm đã được minh thị “tiếng nói của thơ, văn miền Tự Do” còn tiềm ẩn một nghĩa vụ ‘đem theo văn hóa của 1 triệu người miền Bắc vừa định cư ở miền Nam.” Thơ, văn Tao Đàn phần đông là văn hóa Bắc Hà, là những làn điệu của văn minh sông Hồng, sông Mã giao duyên cùng văn minh Hương Giang và Cửu Long Giang. Bao nhiêu năm đã trôi qua, bây giờ từ vĩ tuyến 17 trở vào trong, chúng ta có một lối ngâm thơ đã trở thành phổ biến: ngâm thơ Tao Đàn.” ( Kỷ Niệm Tao Đàn, Tạp chí Tân Văn, số 39, tháng 10/2010, trang 58).
        Cũng theo sự sưu khảo của nhà văn Phan Lạc Phúc: “Chương trình Tao Đàn có thể chia ra làm 3 bộ phận. Bộ phận quan trọng nhất là ban biên tập và diễn đọc gồm Đinh Hùng, Thanh Nam, Thái Thủy; vài năm sau có Huy Quang Vũ đức Vinh từ Nha Trtang vào cộng tác. Bộ phận thứ hai là ban ca ngâm gồm những tài tử nam, nữ trình diễn thường xuyên hay tùy hứng. Người “đa năng” nhất trong ban Tao Đàn là Tô Kiều Ngân. Anh vừa là tài tử diễn âm, vừa biên tập, vừa trong ban nhạc. Tiếng sáo Tô kiều Ngân réo rắt thường được coi là “indicatif” của Tao Đàn, hợp cùng tiếng đàn thập lục trầm bổng của Bửu Lộc, tiếng piano trầm ấm của Ngọc Bích, sau của Phạm Đình Chương. Về giọng ngâm nam ngoài họ Tô, còn có Hoàng Thư; một thời giọng ngâm Thanh Hùng cũng có góp tiếng trên đài. Tô Kiều Ngân tuy giọng không khoẻ nhưng anh là người ngâm “khéo” nhất, ngâm giọng Bắc, giọng Trung đều nhuyễn. Hoàng Thư có chất giọng say sưa, mạnh mẽ được đời nhớ mãi trong Bài Ca Ngư Phủ của Vũ Hoàng Chương. Thanh Hùng với giọng thổ pha kim, xuất sắc trong những tác phẩm bi hùng. Có những giọng ngâm không có mặt lâu năm trên đài nhưng vẫn được đời ghi nhớ như Quách Đàm trong những bài lục bát hay Thiếu Lang trong Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác.
        Về giọng ngâm nữ lúc khởi đầu phải nhắc tới cái ngọt ngào của Giáng Hương nhưng các tay sành điệu đều không thể nào quên giọng ngâm đổ hột đặc sắc của bà Đàm Mộng Hoàn, một danh tiếng vang lừng tại Khâm Thiên tiền chiến trong Tỳ Bà Hành. Giọng ngâm nữ nhiều năm làm thổn thức trái tim thính giả là Hồ Điệp trong những bài thơ nức nở TTKH. Về sau, có một giọng nữ như sương như khói làm khởi sắc những vần ca dao dân tộc và những bài ca huyền sử. Đó là giọng ngâm Hoàng Oanh.” (Phan Lạc Phúc, bài đã dẫn, trang 59)


        Đinh Hùng là một thi sĩ nổi tiếng thời tiền chiến với các tập thơ Mê Hồn Ca, Đường Vào Tình Sử, từng được mệnh danh là nhà thơ của tình yêu. Ông cũng chuyên viết tản văn.


    Nhưng nói đến thi ca Miền Nam phải nói đến một bậc thi bá đó là Vũ Hoàng Chương  (1916-1976). Vũ Hoàng Chương lúc nhỏ học chữ Hán ở nhà, học Albert Sarraut Hà Nội, đỗ tú tài năm 1937. Ban đầu ông học Luật rồi chuyển qua học toán, đi dạy học, sáng tác thơ và kịch, chuyển sang dạy văn từ năm 1950 đến 1975. Năm 1954, ông di cư vào Nam. Năm 1959 ông đoạt giải “Văn học Nghệ Thuật Toàn Quốc” của VNCH với tập thơ Hoa Đăng. Trong năm này ông sang Bỉ tham dự Hội nghị Thi ca Quốc Tế ở đây. Năm 1964 ông tham dự Hội nghị Văn Bút Á Châu họp tại Bangkok; năm sau, 1965 lại tham dự Hội nghị Văn Bút Quốc Tế tại Bled, Nam Tư. Cần nhớ là Miền Bắc không được tham dự trong tổ chức Văn Bút Quốc Tế này. Năm 1967 Vũ Hoàng Chương lại  tham dự Hội Nghị Văn Bút Quốc Tế họp tại Abidjan, thủ đô Côte d’Ivoire, Thời gian 1969-1973 Vũ Hoàng Chương là chủ tịch Văn Bút Việt nam. Năm 1972 ông đoạt giải văn chương lần thứ hai. Ông còn được vinh danh là “Thi bá” Việt Nam tức là hoàng đế trong lãnh vực thi ca.
        Nhắc đến Vũ Hoàng Chương, chúng ta thường nhớ những câu này :
Một nét dao bay nghìn thuở đẹp,
Dù sai hay trúng cũng là dư.
                            (Bài ca Sông Dịch)
Hay:
Em ơi lửa tắt, bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai.
                            (Say)
        Các bài thơ chữ Hán của Vũ Hoàng Chương cũng được giới nghiên cứu văn học trong nước đánh giá cao.  Ngày nay một số tác giả có uy tín trong lãnh vực nghiên cứu văn học Miền Bắc như Nguyễn Huệ Chi, Phạm Xuân Nguyên, Trần Mạnh Hảo, Vương Trí Nhàn rất trân quý sự nghiệp văn chương của Vũ Hoàng Chương và nền văn học nghệ thuật của VNCH. Họ đã tỏ ra công bình hơn khi đánh giá biết mình biết người hơn chứ không như 39 năm trước đây cái gì của Miền Nam, chế độ CS cũng cho là phản động và đồi trụy hết.
        Nói đến thơ tình yêu là phải nhắc tới Nguyên Sa:
        Đường Sài Gòn anh đi mà chợt mát,
        Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông.
        Quách Thoại từng viết:
        Lỡ một mai tôi chết trần truồng không cơm áo
        Thì hồn tôi xin phảng phất chốn trăng sao.
        Nhận xét chung về thơ Miền Nam giai đoạn 1954-1975, nhà văn Nguyễn Hưng Quốc cho rằng các nhà thơ Miền Nam khai thác cái “tôi” chủ yếu ở góc độ nhận thức trong mối quan hệ với lịch sử và với con người. Cái “tôi” trong thơ Miền Nam là cái “tôi” trí tuệ, nhân vật trung tâm không còn là người tình mà là những kẻ thao thức, hoang mang trước những ngả ba đường.
Các nhà thơ Miền Nam đã chuyển hướng sang dòng thơ thời thế với những khắc khoải, những phẫn uất trước một lịch sử mịt mùng. Những người như Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Bùi Giáng. Trong tập hồi ký xuất bản trước đây Phạm Duy cho rằng Miền Nam là nơi đất lành chim đậu. Ông cũng ca ngợi nhiều thành quả của VNCH về phương diện thi ca, nghệ thuật, nhất là âm nhạc, điện ảnh. Nguyễn Văn Lục trong một bài viết trên Web Đàn Chim Việt khẳng định tính tự do trong sáng tác của các tác giả Miền Nam.
        Quả thật, trong khi ở Miền Bắc hàng trăm văn nghệ sĩ có tài, có tâm đã phục vụ kháng chiến tích cực lại bị chính quyền CS hãm hại đến tận nơi tận chốn lý do chỉ vì họ muốn có quyền tự do tư tưởng, tự do sáng tác theo cảm quan của mình, muốn thoát ra khỏi sự chỉ huy văn nghệ của đảng CS thì ở Miền Nam đã mở ra một chân trời thật sự tự do, dân chủ cho nhiều tầng lớp người nghệ sĩ, mà ở đây chỉ trong lãnh vực thi ca xin trân trọng nêu phương danh những thi sĩ nổi tiếng như Quách Tấn, Đông Hồ, Bàng Bá Lân, Kiên Giang, Nhất Hạnh, Cung Trầm Tưởng, Tuệ Mai, Nguyễn Đức Sơn, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca, Nguyễn Bắc Sơn, Trụ Vũ, Du Tử Lê, Trần Dạ Từ, Viên Linh, Trần Tuấn Kiệt, Quách Thoại, Tường Linh, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Hà Huyền Chi, Hà Thúc Sinh, Vi Khuê, Vũ Hữu Định, Nguyễn Tất Nhiên, Vương Đức Lệ, Kim Tuấn, Nhất Tuấn, Hoàng Anh Tuấn, Chu Vương Miện, Cao Thoại Châu, Cao Tần, Lê Tất Điều, Nguyễn Hồi Thủ, Khế Yêm, thường Quán, Hoàng Xuân Sơn, Đinh Linh…
        Nhóm Sáng Tạo của Miền Nam là tượng trưng cho nền thi ca lấy tự do của con người làm căn bản trong sáng tác. Nhạc sĩ Cung Tiến cho biết: “…Nhóm Sáng Tạo là cái nhóm nổi tiếng nhất, xuất phát từ con người di cư nhưng đó là con đường văn học nghệ thuật của Miền Nam tự do. Hoạt động nhằm mở ra một con đường mới về ngôn ngữ, hình ảnh, cũng như về lý tưởng tự do, đó là nhóm Sáng Tạo.” Nhóm này gồm có Trần Thanh Hiệp, Thanh Tâm Tuyền,  Quách Thoại, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Sỹ Tế, Thái Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng hay Cung Tiến…
        Quách Thoại từng viết :
        Nếu một mai tôi chết trần truồng không cơm áo,
        Thì hồn tôi xin phảng phất chốn trăng sao.

        Phạm Xuân Nguyên, nhà nghiên cứu văn học sinh ra từ Miền Bắc của chế độ CS đã viết về Thanh Tâm Tuyền như sau:
        “Nhóm văn nghệ sĩ tập hợp quanh tờ tạp chí Sáng Tạo (1956-1961) chủ trương làm “văn nghệ hôm nay” trước hết là thơ. Họ kêu gọi đoạn tuyệt Thơ Mới (gọi là thơ tiền chiến), họ tuyên bố làm thơ bây giờ. Nhà thơ tiên phong của nhóm, người triệt để thí nghiệm thơ tự do – thơ bây giờ, Thanh Tâm Tuyền, cho ra ngay tập  Tôi không còn cô độc, “biến cố thứ nhất của văn học thời hậu chiến’ (Cao Thế Dung). (Talawas, ngày 23.9.2006)
        Tạp chí Thơ, số 3-2006, Hội Nhà Văn Việt Nam, đưa năm trang giới thiệu về Thanh Tâm Tuyền và nêu ý kiến: “Chắc chắn sẽ còn nhiều điều cần được trao đổi, tường giải, song thơ Thanh Tâm Tuyền cùng những quan niệm về thơ của ông giữa cuối những năm năm mươi và đầu những năm sáu mươi thế kỷ trước là một hiện tượng tạo được nhiều quan tâm, là một bước ngoặt đáng trân trọng, là một tài năng có nhiều tâm huyết đóng góp cho quá trình hiện đại hóa thơ. Thơ Thanh Tâm Tuyền có sức ám ảnh  và không dễ cắt nghĩa được hết.” (Talawas, ngày 25.9.2006)
        Nhà thơ Trần Mạnh Hảo, ở Sài Gòn viết: “Trong dòng văn học chính thống của Miền Nam Việt Nam, Thanh Tâm Tuyền giữ một vị trí khá quan trọng. Về thơ, ông là ngọn cờ của nhóm Sáng Tạo.” (Talawas, ngày 23.9.2006).
        Trong Hội nghị Thi ca tại Bled, Nam Tư năm 1965 nói trên, Vũ Hoàng Chương đã đọc một bài diễn văn bằng tiếng Pháp trước nhiều đại diện các quốc gia khác, trong đoạn cuối ông nhấn mạnh:
        Con người phải được tự do, luôn luôn tự do; mọi cuộc xâm lăng phải chấm dứt, bất kể chúng được ngụy trang khéo đến đâu! Các dân tộc phải có quyền tự định đoạt số phận; nhân loại phải sống yên vui, trong hòa bình toàn diện và  đích thực dựa trên những tình cảm cao quí chứ không phải trên phương sách biến người thành máy hoặc hạ thấp nó xuống hàng nô lệ.” (Bách khoa, số 14 , ngày 1-8-1965, trang 83).
        Tự do của con người, nhất là tự do của nhà văn hay nhà thơ nói chung là một cái gì cao quý nhất. Nhà văn Dương Thu Hương đã viết sau ngày 30-4-1975: “khi đội quân chiến thắng vào Sài Gòn năm 1975, trong khi tất cả mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc. Vì tôi thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách uổng phí. Tôi không choáng ngợp vì nhà cao cửa rộng của miền Nam, mà vì tác phẩm của tất cả các nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao giờ biết đến đều có tác phẩm bầy trong các hiệu sách; và đầy dẫy các phương tiện thông tin như TV, radio, cassette. Những phương tiện đó đối với người miền Bắc là những giấc mơ.”
        Điểm lại tiếng thơ Tao Đàn trong thế kỷ XX, để thấy rằng chỉ có chế độ nào tôn trọng sự tự do của văn nghệ sĩ thì tiếng thơ mới cất cánh xa bay được, còn không thì văn nghệ sĩ chỉ là hạng văn nô, thi nô, một phường ăn cơm chúa múa tối ngày, chỉ được phép tung hô “thánh thượng vạn tuế” là HCM và bọn đầu sõ trong Bộ CT theo “thánh chỉ” mà thôi.
        Ngày nay niềm hãnh diện của chúng ta về nền văn hóa của Việt Nam Cộng Hòa đã có nhiều cơ sở vững chắc. Niềm hãnh diện đó không phải là để trả lời câu hỏi “ai thắng ai?” trong lãnh vực văn hóa  nhưng là để hỏi “bên thắng cuộc” đất nước này sẽ đi về đâu khi bọn bá quyền Trung Quốc đang hờm sẵn sau lưng?

           Nguyễn Đức Cung – K.1 Viện Hán Học Huế
                   Philadelphia, 15-4-2014

       


       
       


               



Không có nhận xét nào: