Mời đọc VÔ ĐỀ của Lý Thương Ẩn trước, rồi đọc GIAI THOẠI VĂN CHƯƠNG NGÀY TẾT sau...
VÔ ĐỀ: Lý Thương Ẩn
無題 (1) VÔ ĐỀ (1)
昨夜星辰昨夜風, Tạc dạ tinh thần tạc dạ phong,
畫樓西畔桂堂東。 Họa lâu tây bạn Quế đường đông.
身無綵鳯雙飛翼, Thân vô thái phụng song phi dực,
心有靈犀一點通。 Tâm hữu linh tê nhất điểm thông.
隔坐送鈎春酒暖, Cách tọa tống câu xuân tửu noản,
分曹射覆蠟燈紅。 Phân tào xạ phúc lạp đăng hồng.
嗟余聽鼓應官去, Ta dư thính cổ ưng quan khứ.
走馬蘭臺類轉蓬。 Tẩu mã lan đài loại chuyển bồng.
李商隱 Lý Thương Ẩn
1. CHÚ THÍCH :
- Tinh Thần 星辰 : Từ kép chỉ chung Các Vì Sao trên trời.
- Họa lâu 畫樓 : Lầu các có chạm trổ vẽ vời đẹp đẽ.
- Thái Phụng 綵鳯 : Chim phượng có màu sắc rực rỡ.
- Linh Tê 靈犀 : Một loại Tê Giác, sừng có tuỷ trắng thông từ đầu nầy qua đầu kia, còn gọi là Linh Tê; thường mượn ý để chỉ trai gái vì qúa yêu nhau nên tâm ý tương thông; người nầy biết được người kia đang nhớ thương mình và ngược lại.
- Cách Tọa Tống Câu 隔坐送鈎 : Câu là một loại cống nhỏ bằng đồng, bằng bạc hoặc bằng vàng, dùng để múc rượu. Cách Tọa Tống Câu là một trò chơi trên bàn rượu: người ngồi ngang mặt tìm cách giấu cái cống nhỏ nầy vào tay áo, người ngồi đối diện đoán xem cống ở bên tay áo nào. Ai thua thì bị phạt rượu.
- Phân Tào Xạ Phúc 分曹射覆 : PHÂN TÀO là Chia nhóm; XẠ là Đoán, PHÚC là Đậy; nên XẠ PHÚC là Đoán cái mà người ta đậy lại. Nhưng trên bàn rượu của văn nhân thi sĩ, đây là trò chơi thanh nhã, họ đậy bằng THƠ và đoán cũng bằng THƠ. Ví dụ: Nhóm A ra câu "Duyên Thiên 天 chưa thấy nhô đầu dọc." Nhóm B đoán được đó là chữ PHU 夫, nhưng không nói thẳng là chữ PHU, mà đọc thành câu "Đại trượng PHU tứ hải vi gia" chẳng hạn để trả lời.
- Ta Dư 嗟余 : TA là Than, DƯ là Ta, nên TA DƯ là Than cho tấm thân ta.
- Lan Đài 蘭臺 : là Bí Thư Tỉnh, năm Long Sóc đời Đường Cao Tông đổi lại thành LAN ĐÀI, nơi làm việc của Lý Thương Ẩn, vì lúc bấy giờ Lý đang giữ chức Bí Thư Tỉnh Hiệu Thư Lang.
2. NGHĨA BÀI THƠ :
Đêm hôm qua các vì sao trên trời lắp lánh, cũng đêm hôm qua gió lốc thổi từng cơn. Ở phía tây của họa lâu và ở phía đông của Quế đường, hai ta đã gặp nhau. Rất tiếc là thân ta không có được đôi cánh đẹp như chim phượng để bay đến gặp nhau thường xuyên; cũng may là lòng ta như Linh Tê có được sự cảm thông nhau sâu sắc. Còn nhớ lúc ban đầu gặp gỡ, ta đã cùng chơi trò dấu câu để uống rượu đang khi hâm nóng rượu xuân, và lại chia nhóm mà đố thơ uống rượu dưới ánh hồng lạp nồng nàn. Đáng tiếc cho ta là cuộc vui chóng tàn, khi nghe tiếng trống điểm canh năm, ta không thể không lên ngựa để đến Lan Đài làm việc, cởi trên mình ngựa mà thân ta còn vất vưởng như cánh cỏ bồng lơ lửng.
Lý Thương Ẩn yêu một người con gái qúy tộc, và trân trọng tình yêu đó một cách bình đẳng giữa nam và nữ, quyến luyến nhau trong cuộc vui ngắn ngủi với người yêu. Tình cảm lãng mạn mà chân thành tha thiết. Trong thời buổi phong kiến trọng nam khinh nữ, xem giới nữ chỉ là công cụ để mua vui, thì tình cảm chân thành của Lý đối với người yêu quả là Quý Hóa!
3. DIỄN NÔM :
VÔ ĐỀ
Đêm qua sao sáng gió lùa song,
Gặp gỡ lầu tây phía Quế đông.
Thân chẳng muôn màu đôi cánh phượng,
Ý như linh giác nhất tâm thông.
Cùng ai chuốc chén xuân vừa thắm,
Chia nhóm đố thơ nến rực hồng.
Chỉ tiếc canh tàn quan hối thúc,
Lan Đài lưng ngựa tựa bồng bông!
Lục bát :
Đêm qua sao sáng gió lùa,
Phiá tây lầu Quế đông vừa gặp nhau.
Hận không cánh phượng muôn màu,
Linh tê tâm ý thông nhau bóng hình.
Đoán câu chuốc rượu xuân tình,
Câu thơ đối đáp nến xinh rực hồng.
Tiếc thay canh lụn hừng đông,
Lan Đài cởi ngựa cỏ bồng lắc lư !
Đỗ chiêu Đức
無題 (2) VÔ ĐỀ (2)
来是空言去绝踪, Lai thị không ngôn khứ tuyệt tông,
月斜楼上五更鐘。 Nguyệt tà lâu thượng ngũ canh chung.
夢為遠别啼難唤, Mộng vi viễn biệt đề nan hoán,
書被催成墨未濃。 Thư bị thôi thành mặc vị nồng.
臘照半籠金翡翠, Lạp chiếu bán lung kim phỉ thúy,
麝熏微度繡芙蓉。 Xạ huân vi độ tú phù dung.
劉郎已恨蓬山遠, Lưu lang dĩ hận Bồng sơn viễn,
更隔蓬山一萬重! Cánh cách Bồng sơn nhất vạn trùng!
李商隱 Lý Thương Ẩn
1. CHÚ THÍCH :
- Không Ngôn 空言 : Lẳng lặng không nói lời nào.
- Tuyệt Tông 绝踪 : Là Tuyệt vô tông tích, là Mất tích luôn.
- Ngũ Canh Chung 五更鐘 : Trống điểm canh năm.
- Đề Nan Hoán 啼難唤 : Là có khóc cũng không gọi lại được.
- Mặc Vị Nồng 墨未濃 : Là Mực còn chưa đậm.
- Lạp Chiếu Bán Lung 臘照半籠: Là ánh nến khi mờ khi tỏ.
- Kim Phỉ Thúy 金翡翠 : Rèm màn thêu hình chim phỉ thúy bằng chỉ vàng.
- Xạ Huân Vi Độ 麝熏微度 : Mùi xạ hương được xông lên còn thoang thoảng
- Tú Phù Dung 繡芙蓉 : Chăn mền được thêu hình hoa phù dung.
- Lưu Lang 劉郎 : là Chàng Lưu, chỉ Lưu Thần (và Nguyễn Triệu), người đã đi lạc vào chốn Bồng Lai.
2. NGHĨA BÀI THƠ :
Đến không nói được một lời nào, mà đi thì biền biệt... Trong lúc trăng đã xế non đoài và trống đã điểm canh năm. Xa cách xa xăm nên trong giấc mộng có kêu gào cũng không gọi trở lại được. Thư viết vôi vả nên mực còn nhợt nhạt chưa đủ đậm. Dưới ánh nến chập chờn khi mờ khi tỏ chiếu lên rèm màn có thêu hình đôi chim phỉ thúy lấp lánh chỉ vàng, và mùi xạ hương còn thoang thoảng nhè nhẹ trong chăn thêu hoa phù dung. Chàng Lưu vốn đã hận vì chốn Bồng Lai xa xôi cách trở, nay lại càng cách Bồng Lai muôn vạn lần hơn nữa!
Đau khổ vì xa cách thương nhớ người yêu, chỉ gặp được nhau trong mộng mà cũng không nói thành lời, rồi đi thì mất biệt luôn không sao níu kéo lại được. Câu hai, tả lúc chợt choàng tỉnh mộng trong ánh trăng tà khi trời đã trở canh năm. Cặp Thực 3-4 cho thấy sự nuối tiếc giấc mộng, mơ thấy gặp được người yêu xa xôi cách trở mà có cố gắng kêu gào cũng không sao giữ lại được, khi choàng tỉnh vội vả viết vội những dòng thư nhợt nhạt mơ hồ không biết gởi về đâu. Cặp Luận 5-6 tả cảnh tranh tối tranh sáng của ngọn nến trong nệm ấm chăn êm; Mộng và thực như hòa vào nhau chập chờn hư ảo, đưa đến hai câu kết: Khi đã tỉnh hẵn, thì mới nhận chân rằng người yêu đà biền biệt phương trời khó mong gặp mặt, nên mới mượn tích chàng Lưu gặp tiên mà nói lên cái thất vọng khó khăn của mình khi muốn gặp lại người yêu.
3. DIỄN NÔM :
VÔ ĐỀ
Đến chẳng một lời đi mất tăm,
Trăng tà trống đã điểm canh năm.
Mộng xa thăm thẳm người khôn gọi,
Thơ viết vội vàng mực chửa thâm.
Phỉ thúy rèm châu mờ ánh nến,
Phù dung chăn ấm thoảng hương trầm.
Chàng lưu vốn hận Bồng Lai cách,
Càng cách Bồng Lai cả vạn lần!
Lục bát :
Biệt tăm chẳng nói một câu,
Lầu cao trăng xế trống chầu điểm năm.
Mộng nên khó gọi khôn cầm,
Thư tình viết vội mực thâm nhạt nhòa.
Rèm châu phỉ thúy nến lòa,
Phù dung chăn thoảng chan hòa xạ hương.
Chàng Lưu sợ cách Bồng sơn,
Lại càng cách biệt Bồng sơn vạn lần!
Đỗ Chiêu Đức
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét