Đông Tuần Quá An Lão
Nguyên tác: Lê Thánh Tông
東巡過安老
黎聖宗
窅窅關河路幾千,
北風有力送歸船。
江含落日搖孤影,
心逐飛雲息萬緣。
霜露霝時無綠樹,
桑蔴深處起青煙。
海山離異窮逾目,
只見雄雄亙碧天。
Đông tuần quá An Lão
Lê Thánh Tông
Diểu diểu quan hà lộ kỷ thiên,
Bắc phong hữu lực tống quy thuyền.
Giang hàm lạc nhật dao cô ảnh,
Tâm trục phi vân tức vạn duyên.
Sương lộ linh thì vô lục thụ,
Tang ma thâm xứ khởi thanh yên.
Hải sơn ly dị cùng du mục,
Chỉ kiến hùng hùng cắng bích thiên.
--Dịch nghĩa:--
Đi tuần phía đông qua xứ An Lão (1)
Man mác quan hà, đường xa mấy ngàn dặm,
Gió bắc thổi riết đưa thuyền quay về.
Mặt trời in đáy sông, chập chờn chiếc bóng,
Tấm lòng theo mây nổi, tắt mọi ưu phiền.
Gặp buổi sương lạnh, không còn cây nào xanh tốt,
Giữa ruộng dâu, vừng, những làn khói biếc bốc lên.
Bao núi và bể chạy dài từng dải, mắt nhìn khôn dứt,
Chỉ thấy cả một cảnh hùng vĩ, kéo ngang qua nền trời xanh.
(1) An Lão: tên một huyện thuộc Hải Dương, nay thuộc
ngoại thành Hải Phòng.
Nguyên tác: Lê Thánh Tông
東巡過安老
黎聖宗
窅窅關河路幾千,
北風有力送歸船。
江含落日搖孤影,
心逐飛雲息萬緣。
霜露霝時無綠樹,
桑蔴深處起青煙。
海山離異窮逾目,
只見雄雄亙碧天。
Đông tuần quá An Lão
Lê Thánh Tông
Diểu diểu quan hà lộ kỷ thiên,
Bắc phong hữu lực tống quy thuyền.
Giang hàm lạc nhật dao cô ảnh,
Tâm trục phi vân tức vạn duyên.
Sương lộ linh thì vô lục thụ,
Tang ma thâm xứ khởi thanh yên.
Hải sơn ly dị cùng du mục,
Chỉ kiến hùng hùng cắng bích thiên.
--Dịch nghĩa:--
Đi tuần phía đông qua xứ An Lão (1)
Man mác quan hà, đường xa mấy ngàn dặm,
Gió bắc thổi riết đưa thuyền quay về.
Mặt trời in đáy sông, chập chờn chiếc bóng,
Tấm lòng theo mây nổi, tắt mọi ưu phiền.
Gặp buổi sương lạnh, không còn cây nào xanh tốt,
Giữa ruộng dâu, vừng, những làn khói biếc bốc lên.
Bao núi và bể chạy dài từng dải, mắt nhìn khôn dứt,
Chỉ thấy cả một cảnh hùng vĩ, kéo ngang qua nền trời xanh.
(1) An Lão: tên một huyện thuộc Hải Dương, nay thuộc
ngoại thành Hải Phòng.
--Bản dịch của MaiLộc—
Đi tuần phía đông qua xứ An Lão
Dặm ngàn non nước , ôi xa vời ,
Gió bấc xuôi thuyền thổi chẳng ngơi .
Bóng xế chập chờn làn sóng nước ,
Ưu phiền lắng sạch áng mây trôi .
Sương lam thời tiết cây xơ xác ,
Khói biếc vừng dâu , ruộng mịt mờ .
Núi biển chập chùng dài mút mắt ,
Vắt ngang hùng vĩ ngát xanh trời .
Mailoc
Lê Thánh Tông (chữ Hán: 黎聖宗; 20 tháng 7, 1442 – 30 tháng 1, 1497), là vị Hoàng đế thứ 5 của nhà Hậu Lêtrong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1460 đến 1497, tổng cộng 37 năm.
Ông nổi tiếng là vị minh quân, là người đã đưa Đại Việt lên tới thời hoàng kim của chế độ phong kiến. Ông cũng được xem là một nhà văn hoá và một người coi trọng hiền tài. Trong lúc trị vì, Lê Thánh Tông đã đề xuất nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật pháp. Ngoài ra, ông đã tiến hành công cuộc Nam tiến, mở mang bờ cõi Đại Việt bằng cách đánh chiếm kinh đô của vương quốc Chiêm Thành (1471), sáp nhập một phần lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt; đồng thời có cuộc hành quân về phía Tây đất nước vào năm 1479.
Thánh Tông hoàng đế được coi là một vị hoàng đế vĩ đại không chỉ ở triều đại nhà Lê, mà còn xét trong toàn bộ lịch sử Việt Nam. Không chỉ rực rỡ danh tiếng trong việc đưa Đại Việt đến đại cường, mà trên con đường lên ngôi của ông cũng rất nhiều đồn đoán. Việc Lê Nhân Tông bị ám sát, Lệ Đức hầu Lê Nghi Dân có thể thuận lợi lên ngôi và nhanh gọn bị thủ tiêu, cũng như có thể dần kiểm soát chính những đại thần đưa mình lên ngôi Nguyễn Xí, Đinh Liệt; người ta hoài nghi rằng Thánh Tông rất có thể đã sắp xếp tất cả ngay từ đầu. Kết thúc tất cả, ông đã lên ngôi và trở thành vị Hoàng đế bậc nhất trong lịch sử.
Thánh Tông Thuần hoàng đế tên thật là Lê Tư Thành, còn có tên khác là Lê Hạo; biệt hiệu Thiên Nam động chủ, Đạo Am chủ nhân hay Tao Đàn nguyên súy. Ông là con thứ 4 của Lê Thái Tông|Thái Tông Văn hoàng đế, mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao|Quang Thục Văn hoàng hậu]] Ngô Ngọc Dao, con gái Thái bảo Ngô Từ.
Theo dã sử, từ khi Ngô hoàng hậu chỉ là Tiếp dư và đang mang thai Tư Thành, thì bà Nguyễn Thị Anh|Tuyên Từ Văn hoàng hậu Nguyễn Anh, lúc đó đang là Thần phí quản lý Hậu cung, lo sợ mình bị thất sủng nên đã mưu hại Ngô hoàng hậu. Nguyễn hoàng hậu vu cáo với Thái Tông Văn hoàng đế, đề nghị xử phạt Ngô hoàng hậu với mức án với giày. Nguyễn Trãi và người thứ thiếp là Nguyễn Thị Lộ đã cứu giúp Ngô hoàng hậu và đưa đi lánh nạn. Tư Thành được sinh ra ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất 1442, ở chùa Huy Văn (ngày nay thuộc đống Đa|quận Đống Đa, Hà Nội.
Lê Tư Thành vốn không phải là người sẽ kế vị, theo chính danh. Từ nhỏ, ông được giáo dục ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám|Quốc Tử Giám, giống như người anh cùng cha khác mẹ là Lê Nhân Tông đang làm hoàng đế Đại Việt
Năm 1445, khi được khoảng 4 tuổi, Tư Thành được phong làm Bình Nguyên vương . Ông rất được Nguyễn Thái hậu, hiện đang nhiếp chính thay Nhân Tông còn nhỏ, yêu quý.
Năm 1459, người anh cả cùng cha khác mẹ của Lê Nhân Tông là Lạng Sơn vương Lê Nghi Dân tiến hành đảo chính và sát hại Nhân Tông, hôm sau Nguyễn Thái hậu cũng bị giết. Nghi Dân lên ngôi, tự xưng làm Thiên Hưng. Bình Nguyên vương Tư Thành không bị anh sát hại trong vụ này mà được cải phong làm Gia vương
Chín tháng sau, một cuộc đảo chính thứ hai do Nguyễn Xí và Đinh Liệt cầm đầu đã giết chết Lê Nghi Dân. Nguyễn Xí và Định Liệt là 2 tướng thân cận của Thái Tổ Cao hoàng đế vẫn còn sống sót sau các biến cố chính trị kể từ khi Cao Hoàng mất. Ban đầu, đại thần Lê Lăng định mời anh thứ hai của Tư Thành là Cung vương Lê Khắc Xương lên ngôi nhưng Khắc Xương từ chối không muốn nhận ngôi báu. Họ đề nghị Gia vương Lê Tư Thành đăng ngôi kế vị. Về sau, Cung vương bị bức tử.[2]
Ngày 26 tháng 6 năm 1460, Gia vương Lê Tư Thành lên ngôi, sử gọi là Lê Thánh Tông, lấy niên hiệu là Quang Thuận (光順). Năm đó, ông chỉ mới 18 tuổi. Ông chỉ định Nguyễn Xí và Đinh Liệt vào các chức quan cao nhất của triều đình, nắm giữ binh quyền.
Mailoc
***************************************
Đỗ Chiêu Đức xin được chú thích và dịch xuôi lại bài thơ của "ÔNG VUA" như sau :
1. DIỂU DIỂU 窅窅: là Xa Xôi, Diệu vợi.
2. BẮC PHONG HỮU LỰC: là Gió Bấc GIÀ nên thổi VÙ VÙ rất mạnh. Ca dao Nam bộ có câu:
Gió bấc NON thổi lòn hang chuột,
Tao thấy chị Hai mầy tao đứt ruột đứt gan!
3. GIANG HÀM LẠC NHẬT : là Con sông như NGẬM lấy cái mặt trời lặn. Chỉ cảnh mặt trời chen lặn ở ven song, nửa ở chân trời nửa in đáy nước, thật là thi vị!
4. TÂM TRỤC PHI VÂN : là Lòng ĐUỔI theo những áng mây bay, Ý chỉ Thả hồn theo mây trời về cỏi xa xăm!
5. TANG MA 桑蔴 : TANG là Cây Dâu Tằm ăn.
MA là Câ ĐAY, cây GAI, miền Nam gọi là Cây BỐ
Dâu Tằm ăn để cho kén, kéo tơ dệt lụa.
ĐAY để kéo thành chỉ dệt thành Vải Đay, Vải Bố.
6. LY DỊ: LY là Rời, DỊ là Khác. nên...
LY DỊ: là Phân biệt một cách rõ ràng!
7. CÙNG DU MỤC: CÙNG là hết, DU là Vượt qua, MỤC là Con mắt.
CÙNG DU MỤC là Vượt qua khỏi tầm mắt, có nghĩa là Nhìn mút con mắt.
8. CẮNG có 2 cách viết như sau: 亘, 亙 : Khoảng cách từ đầu nầy đến đầu kia ( kể cả không gian và thời gian . Ví dụ :
CẮNG CỔ 亙古 : là từ Xưa đến nay.
CẮNG MIÊN SỔ LÝ 亙綿數里 : Kéo dài đến mấy dặm.
MA là Câ ĐAY, cây GAI, miền Nam gọi là Cây BỐ
Dâu Tằm ăn để cho kén, kéo tơ dệt lụa.
ĐAY để kéo thành chỉ dệt thành Vải Đay, Vải Bố.
6. LY DỊ: LY là Rời, DỊ là Khác. nên...
LY DỊ: là Phân biệt một cách rõ ràng!
7. CÙNG DU MỤC: CÙNG là hết, DU là Vượt qua, MỤC là Con mắt.
CÙNG DU MỤC là Vượt qua khỏi tầm mắt, có nghĩa là Nhìn mút con mắt.
8. CẮNG có 2 cách viết như sau: 亘, 亙 : Khoảng cách từ đầu nầy đến đầu kia ( kể cả không gian và thời gian . Ví dụ :
CẮNG CỔ 亙古 : là từ Xưa đến nay.
CẮNG MIÊN SỔ LÝ 亙綿數里 : Kéo dài đến mấy dặm.
DỊCH NGHĨA:
TUẦN DU PHÍA ĐÔNG NGANG QUA XỨ AN LÃO
Quan hà diệu vợi xa xôi mấy ngàn dặm đường,
Gió Bấc đã thổi rất mạnh như để đưa thuyền về lối cũ.
Mặt trời chen lặn soi bóng trên dòng sông làm lung linh chiếc bóng cô độc của ta,
và lòng ta thì như đang dõi theo những đám mây trời xa xa nên tắt lịm hết muôn ngàn tạp niệm.
TUẦN DU PHÍA ĐÔNG NGANG QUA XỨ AN LÃO
Quan hà diệu vợi xa xôi mấy ngàn dặm đường,
Gió Bấc đã thổi rất mạnh như để đưa thuyền về lối cũ.
Mặt trời chen lặn soi bóng trên dòng sông làm lung linh chiếc bóng cô độc của ta,
và lòng ta thì như đang dõi theo những đám mây trời xa xa nên tắt lịm hết muôn ngàn tạp niệm.
Sương móc xuống nhiều làm trắng xóa cả rừng cây xanh,
và thấp thoáng trong rừng dâu đay một làn khói xanh ỏng ẹo bốc lên.
Trong tầm nhìn mút con mắt chỉ thấy núi và biển phân biệt rõ ràng in lên trên nền trời xanh vô tận thật nguy nga hùng vĩ !
DIỄN NÔM :
Diệu vợi quan hà đường vạn dặm,
Bắc phong vi vút thổi thuyền về.
Lung linh chiếc bóng sông vờn nắng,
Lơ lửng riêng lòng gởi áng mây.
Sương móc cây xanh vương trắng xóa,
Dâu đay rừng phủ khói mờ bay,
Chập chùng hùng vĩ dôi tầm mắt,
Chỉ thấy trời xanh núi biển bày!
Đỗ Chiêu Đức
***************************************
Đi Tuần Phía Đông Qua An Lão
Mịt mịt dậm ngàn cảnh núi sông
Thuyền đi ngược gió khó xuôi dòng
Mặt trời in bóng lung linh nước
Tâm sự nương mây thắc thỏm lòng
Sương móc giăng mờ cây nhạt sắc
Dâu mè trải rộng biếc mây trong
Chập chùng núi biển xa tầm mắt
Hùng vĩ nằm ngang nối khoảng không.
Quên Đi
***************************************
TUẦN DU QUA AN LÃO
Quan hà ngàn dặm xa vời vợi
Lối cũ thuyền về theo gió đưa
Nắng xuống, lung linh in bóng chiếc
Mây bay lờ lững gợi hồn thơ
Sương buông trắng xóa rừng xa thẳm
Khói tỏa xanh lam bãi mịt mờ
Núi biển, chân trời xa mút mắt
Nguy nga hùng vĩ cành chiều mơ.
Phương Hà phỏng dịch
*********************************
NHÀ VUA DU AN LÃO SƠN
Núi non trùng điệp xa vời vợi,
Rẻ nước thuyền vua lướt sóng đưa.
Gió nhẹ dòng sông, bơi tách bến,
Mưa bay bãi cát, thả hồn thơ.
Danh lam sương khói đây An Lão,
Thắng cảnh mây ngàn đó mịt mờ.
Rừng thẳm quan quân lo hộ giá,
Giang sơn cẩm tú đẹp như mơ!
Mai Xuân Thanh xin góp lời thơ họa, kính bút.
Ngày 28 tháng 01 năm 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét