Vua Quang Trung &
Trận Ngọc Hồi
Nguyễn Mộng Khôi
- Trận Ngọc Hồi là lớn nhất, ác liệt nhất mang tính quyết định trong toàn bộ chiến dịch Bắc Tiến của Vua Quang Trung Nguyễn Huệ đánh tan 20 vạn quân Tàu (quân nhà Thanh) vào ngày mồng 5 Tết Kỷ dậu 1789.
- *
- * *
- Bối cảnh lịch sử Bắc Hà bấy giờ cực kỳ nhiễu nhương:
-Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ diệt xong Nhà Trịnh, trao quyền cai trị Bắc hà cho vua Lê và được Vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân là con gái thứ 16 cho. Được mấy ngày thì vua băng hà, con là Lê Chiêu Thống lên thay. Sau đó Bắc Bình Vương mang quân về Nghệ an.
(Ngọc Hân Công Chúa - hình minh họa)
-Chiêu Thống nhu nhược, phải nhờ Nguyễn Hữu Chỉnh giúp (1787). Chỉnh chuyên quyền, ý đồ lập một quốc gia riêng. Bắc Bình Vương sai tướng Vũ văn Nhậm mang quân từ Nghệ An ra đánh và giết được Nguyễn Hữu Chỉnh.
-Lê Chiêu Thống thấy Chỉnh là người thân tín bị thảm sát vội bỏ kinh đô, chạy lên Bắc Ninh rồi tìm đường sang Tàu cầu cứu nhà Thanh.
-Được ít lâu, Vũ Văn Nhậm lại có ý phản Tây Sơn. Được tin này, Bắc Bình Vương mang theo một đội quân nhỏ rồi lập tức lên đường. Mười ngày sau tới Thăng Long(1788), hồi canh tư, Vương ập vào Tổng Hành Dinh, giữa lúc Nhậm đang ngủ say. Vương cho võ sĩ đâm chết trên giường.
-Giao Bắc Hà cho Đại Tư Mã Ngô Văn Sở coi việc quân sự, và Tả Thị Lang Ngô Thì Nhậm đảm trách việc cải tổ chánh trị, rồi Vương trở về Phú Xuân
(Tượng Ngô Thì Nhậm tại Quy Nhơn)
*
* *
Trong khi sự cải tổ đang tiến hành tốt đẹp thì Lê Chiêu Thống sang Tàu báo cáo mọi việc xảy ra ở Bắc Hà cho Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị (Qing Gao Zong). Nghị tâu với vua Càn Long (Quian Long): "Họ Lê là công thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự Quân sang cầu cứu, tính cũng nên thương. Vả, nước Nam vốn là đất cũ của Tàu. Nếu sau khi cứu được nhà Lê và lại lấy đất An Nam, thật là lợi cả đôi đường."
- Vua Càn Long chấp thuận luôn đề nghị, rồi huy động binh mã bốn tỉnh Vân Nam (Yun Nan), Qúy Châu (Gui Zhou), Quảng Ðông (Guang Dong) và Quảng Tây (Guang Xi) dưới quyền tổng chỉ huy 20 vạn quân của Tôn Sĩ Nghị. Quân Tàu chia ra làm 3 đạo sang đánh nước ta vào đầu tháng 11 (ta) năm 1788. Lê Chiêu Thống cũng theo gót quân Tàu về nước.
- -Ðạo thứ nhất do chính Tôn Sĩ Nghị và Đề Đốc Hứa Thế Hanh (Hsu Shih Heng) theo đường Lạng Sơn, qua cửa Nam Quan (Nan Guan) đánh vào.
- -Ðạo thứ nhì do Ðề Đốc họ Ô (Wu) thống lĩnh quân đội Vân Nam và Qúy Châu từ Tuyên Quang tới (khi xưa đất Hà Giang, Lào Kay, Yên Bái thuộc tỉnh Tuyên Quang)
- -Ðạo thứ ba do Ðiền Châu Tri Phủ Sầm Nghi Ðống (Cen Yi Dong) từ Cao Bằng đổ xuống.
-
- Ngô Văn Sở được tin quân Thanh xâm phạm lãnh thổ bèn họp các tướng lãnh để tính kế cự địch. Hầu hết các võ tướng Tây Sơn đều muốn đem quân chận đánh vì theo cách suy diễn của họ thì quân ta nghỉ ngơi mà quân Thanh đang nhọc mệt. Lấy quân nghỉ ngơi mà đánh quân mệt nhọc (dĩ dật đãi lao) thì nhất định phải thắng. Ngô Thì Nhậm thì tính kế rút lui vào đèo Tam Ðiệp là chỗ hiểm yếu để đợi quân Phú Xuân của Bắc Bình Vương. Ông bảo: "Ðánh bây giờ là như trứng chọi đá, chi bằng cứ cho chúng ngủ trọ một đêm rồi mai đuổi nó đi."
- Ngô Văn Sở phục là cao kiến, nhưng tỳ tướng của Sở là Phan Văn Lân xin đánh một trận để thử sức. Sở cấp cho Lân 1000 quân. Trời bấy giờ rét buốt. Quân Tây Sơn vuợt sông Nguyệt Ðức đánh vào quân Tàu đang đóng ở núi Tam Tầng. Ðạn của giặc bắn ra như mưa. Quân của Lân chết rất nhiều. Tôn Sĩ Nghị lại phái một toán kỵ binh từ mạn thượng lưu vượt qua sông đánh úp lấy đồn Thị Cầu. Lân cả sợ, đem tàn binh chạy về Thăng Long; rồi nhập với đoàn quân của Ngô Văn Sở đang rút lui.
-
- Sau trận ở Tam Tầng thì Thăng Long bỏ ngỏ. Ba đạo quân Tàu tiến vào mà không tốn thêm một mũi tên, viên đạn. Tôn Sĩ Nghị nghĩ ngay tới việc lập đồn lũy bốn phía chung quanh để phòng thủ Thăng Long.
- Phía Ðông Thăng Long có sông Hồng như một chướng ngại thiên nhiên. Nghị còn lập đại bản doanh ngay trên bãi cát giữa Hồng Hà rồi bắc cầu phao để tiện việc đi lại.
- Từ phía Bắc Thăng Long, chạy ôm vòng sang phía Tây rồi bọc xuống phía Nam, Nghị cho đắp những chiến lũy như Tây Long Cung, Ðống Ða, Văn Ðiển, Quỳnh Ðô, Ngọc Hồi, Hà Hồi... Như vậy, Thăng Long nằm trong khu tứ giác phòng thủ. Sự phòng thủ chặt chẽ và kỹ lưỡng chưa từng thấy so với thời quân Nguyên, Minh sang đánh nước ta hồi xưa. Nghị vốn là danh tướng của Thanh Triều, văn võ toàn tài, đậu Tiến Sĩ triều Thanh Thế Tông (Ching Shih Tsung), lập được nhiều chiến công trong khi bình định Ðài Loan (Tai Wan) và dẹp được nhiều cuộc nổi loạn trong nước.
-
- Ở Thăng Long, những kẻ theo giặc, những bọn Khách trú thì yên trí, hớn hở sắm tết. Họ tin vào tài điều binh của Nghị. Nhưng những người quan tâm đến tiền đồ đất nước thì lo âu, sợ rằng đất nước ta lại rơi vào vòng nô lệ.
- Mấy năm gần đây, Bắc Hà bị thiên tai, mất mùa ba năm liền. Bây giờ phải nuôi thêm 20 vạn quân Tàu, nên nhiều nơi dân chúng bị đói. Ðã vậy, một số quân Tàu ỷ thế làm bậy, hàng ngày kéo nhau vào nhà dân chúng đánh người, cướp của, hãm hiếp đàn bà con gái, không còn kiêng nể một thứ gì.
-
- Ngày 22 tháng 11, Sĩ Nghị làm lễ tại điện Kính Thiên để tuyên đọc tờ sớ của vua nhà Thanh phong cho Lê Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương.
- Sau khi được sắc phong, Chiêu Thống nghĩ ngay đến việc đền ơn, trả oán. Những người trước kia giúp ông, nay được trọng thưởng. Những kẻ theo Tây Sơn đều bị hành hạ hoặc bị giết. Ðàn bà trong Tôn Thất lấy tướng sĩ Tây Sơn đã có mang thì Chiêu Thống sai mổ bụng, lấy bào thai quăng đi để cho chết cả mẹ lẫn con. Hoàng đệ Lê Duy Lưu, phò mã Dương Hành bị chặt chân quăng giữa chợ, thậm chí tấm Bia Tiến Sĩ của Ngô Thì Nhậm dựng ở Văn Miếu cũng bị đục bỏ. Còn việc quân, đáng lẽ phải thúc đẩy gấp thì thầy trò Chiêu Thống chẳng hề nghĩ đến, khiến nhiều đạo quân cần vương chán nản rồi bỏ đi.
-
- Ngày 24 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), quân Tây Sơn vào đến đèo Tam Ðiệp. Ngô Văn Sở cho quân giữ vững vị trí, đồng thời đưa tin cấp báo vào Phú Xuân việc Tôn Sĩ Nghị dưới danh nghĩa Cứu Lê đem quân vào Thăng Long, khí thế rất mạnh mẽ.
- Ðược tin nầy, Bắc Bình Vương lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh. Các tướng đến xin Ngài chính ngôi tôn, để yên lòng người rồi hãy khởi binh.
- Bắc Bình Vương sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn (gần phi trường Phú Bài, Huế bây giờ) ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân. Vương làm lễ Đăng Quang lên ngôi hoàng đế, đế hiệu là Quang Trung Hoàng Đế, rồi thống lĩnh thủy bộ đại binh ra đánh giặc. Trước khi xuất quân, nhà Vua bưng một mâm tiền có phủ vải điều, cung kính dâng lên cao rồi hất tung xuống sân. Quân lính thấy các đồng tiền nhất loạt đều sấp thì reo hò mừng rỡ, tin chắc trận ra Bắc sẽ thắng quân Tàu (đó là mưu của nhà vua, vì nhà vua sai đúc tiền mà cả 2 mặt đều sấp)
-
- Ðến Nghệ An nghỉ lại 10 ngày để kén lấy thêm binh. Cả thảy 100 ngàn quân và 100 con voi trận.
- Vua Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền ba quân phải cố gắng đánh giặc cứu nước, đoạn kéo quân ra Bắc. Ðến ngày 20 tháng 12 thì đến đèo Tam Ðiệp. Ngô văn Sở, Ngô Thì Nhậm ra tạ tội vì để mất Thăng Long. Nghe Sở, Nhậm tâu trình xong, nhà Vua mỉm cười rồi bảo chúng tướng: "Kế hoạch rút quân của Nhậm là có mưu lược, thật hợp ý ta."
- Ðể cho quân Tàu thêm kiêu căng, nhà Vua sai Nhậm viết một lá thư, rồi cử một sứ đoàn gồm 8 người đi theo Trần Danh Bính đến gặp Tôn Sĩ Nghị ngỏ ý cung thuận với thiên triều, đồng thời trả bọn tuần dương binh của nhà Thanh gồm 40 người bị Tây Sơn bắt khi còn ở Thăng Long.
- Sĩ Nghị xé thư, giết Trần Danh Bính và giam toàn thể nhân viên sứ đoàn, rồi truyền hịch kể tội vua Quang Trung và bảo với tướng sĩ là sau khi ăn tết Kỷ Dậu (1789), định ngày mồng 6 tháng Giêng sẽ xuất quân, bắt vua tôi Tây Sơn, cùng đánh Quảng Nam để quét sạch cả gốc lẫn ngọn.
-
- Vua Quang Trung cũng truyền hịch cho tướng sĩ ăn Tết nguyên đán trước. Ðịnh ngày mồng 7 tháng giêng Kỷ dậu thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng.
- Ngày 30 Tết, quân Tây Sơn tới bến đò Giản Thủy, tức Gián Khẩu, Ninh Bình bây giờ (khoảng 80 cây cố phía Nam Thăng Long). Tướng nhà Lê là Hoàng Phùng Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Bọn quân tiền sát nhà Thanh cũng bở vía chạy theo, nhưng tới Phú Xuyên, Hà Ðông bị bắt và bị giết hết; vì vậy giặc mất liên lạc, không biết chiến cuộc đang ở thế bất lợi cho chúng.
- Quân Tàu và bọn vua tôi Lê Chiêu Thống đang vui chơi ăn Tết thì Tây Sơn cũng đang âm thầm tiến đến Thăng Long.
-
- Nhìn vào hệ thống đồn lũy của quân Thanh, ta phải công nhận Nghị là người có nhiều kinh nghiệm chiến trường. Những đồn lũy vừa kiên cố vừa có sự liên lạc chặt chẽ với nhau. Thật khó phá quá! Chính vì vậy mà ta mới thấy tài dụng binh tuyệt vời của vua Quang Trung. Nhà Vua bảo chúng tướng: "Quân Tàu có nhiều đồn luỹ kiên cố, nhưng ta chỉ cần dồn nỗ lực chính yếu vào ĐẠI ĐỒN NGỌC HỒI thì những chỗ khác sẽ theo thế trẻ tre mà vỡ."
-
- Trận đầu tiên là Hà Hồi, một đồn nhỏ (phía Nam Thăng Long 20 km). Ngày mồng 3 Tết, năm Kỷ Dậu (1789), nửa đêm khoảng giờ Tý, quân Thanh đang ngủ say sưa, bỗng một tiếng pháo lệnh, rồi tiếng loa nổi lên, tiếng gào thét thay đổi nhiều giọng, nhất là tiếng trống trận Tây Sơn càng khủng bố tinh thần. Quân giặc tưởng như có thiên binh vạn mã, đang ào tới, khủng khiếp như trời long đất lở. Quân giặc không còn hồn vía, liền kéo cờ hàng. Quân ta không tốn một mũi tên, một viên đạn, vào tiếp thu quân nhu và khí giới.
- Chiếm xong Hà Hồi, đại quân tức tốc vây Ngọc Hồi (hướng bắc khoảng 3km). Không tấn công Ngọc Hồi ngay, quân Tây Sơn ban ngày thì diễu võ dương oai, ban đêm nổi trống trận, mục đích của quân Tây Sơn làm cho quân Thanh sợ hãi và mỏi mệt. Trong khi đó thì một số quân Tây Sơn vào những làng mạc chung quanh lấy cánh cửa, sập gỗ, ván gỗ, làm thành những tấm khiên để chuẩn bị công đồn ngày hôm sau.
- (Tượng của nữ tướng Bùi Thị Xuân
- tại Bình Định)
- Ðêm mồng 5 Tết, trời tối đen như mực, quân Tây Sơn phải đốt đuốc. Ðàn voi trận gồm 80 con của nữ tướng Bùi Thị Xuân bắt đầu tấn công . Những loạt đạn đại bác do đàn voi mang trên lưng nã vào đồn như mưa (theo Thánh Vũ Ký- Ngụy Nguyên). Ðoàn tượng binh này được huấn luyện kỹ càng, tiến lui khớp nhịp với bộ binh. Sự huấn luyện voi vào việc chiến đấu có từ thời các chúa Nguyễn Ðàng Trong, nay quân Tây Sơn được thừa hưởng cái truyền thống đó. Nguyên, tại làng Nguyệt Biều (đối ngạn chùa Thiên Mụ) là nơi mà xưa kia, nhà Chúa có một đấu trường gọi là Hổ Khuyên để cho voi đấu với hổ. con hổ bị nhổ hết móng vuốt rồi cho đánh nhau với voi, sau trận đấu, thường là hổ bị voi đạp chết. Mục đích đấu Hổ Khuyên là để huấn luyện voi trận (trận đấu sau cùng là năm 1904).
- Quân Tàu ứng chiến bằng kỵ binh, nhưng ngựa thấy voi hoảng sợ rống lên rồi chạy tán loạn. Ðịch bị tan vỡ ngay hàng ngũ, vội rút vào cố thủ. Lũy của giặc có cắm chông sắt tua tủa. Ðạn trong đồn bắn ra. Quân ta vẫn cảm tử tiến tới. Ðể ngăn tên đạn, quân ta lấy 60 tấm khiên thành một bó, ngoài phủ rơm nhào với bùn; rồi 10 người khiêng một bó đi trước, lưng giắt đoản đao, theo sau là 20 khinh binh tiến thành hàng chữ nhất. Quân Tàu đốt thuốc súng, bắn hỏa pháo, khói mù mịt bốc ra để theo gió Bắc thổi tới. Quân ta mờ mắt, không tiến được nữa và bắt đầu lâm vào thế bất lợi. Bỗng gió đổi hướng, khói lại thổi ngược về phía địch. Dưới ánh đuốc chập chờn đám quân có ván rơm liền lăn xả vào tiền tuyến, quăng ván xuống để đè lên chông sắt. Bọn có đoản đao ùa theo, lướt qua lằn đạn, phá cửa lũy tràn vào đồn như nước vỡ bờ.
- Quân hai bên bắt đầu đánh cận chiến. Lớp nầy ngã, lớp kia xông tới. Sắt thép đụng nhau vang lên những tiếng lanh lảnh rợn người. Một thứ võ khí mới của quân Tây Sơn là súng hỏa hổ, rất lợi hại khi đánh gần. Súng nầy là một cây bương rỗng ruột, nhét đầy thuốc pháo ở trong, được sử dụng như súng phun lửa ngày nay. Mùi thịt cháy khét lẫn mùi thuốc súng và máu tanh nồng lộn mửa. Lửa đỏ rực góc trời. Lợi hại nhất vẫn là đàn voi xung kích. Chúng điên cuồng đạp chết biết bao địch quân.
- Quân Tàu chịu không nổi, bỏ đồn chạy thoát thân. Bọn chúng lại rơi vào các máy ngầm, các hầm chông và những quả địa lôi do chính chúng gài đặt trước. Những tên sống sót, quần áo tả tơi, thân thể đầy máu chạy về phía những đồn lũy giặc ở phía Bắc. Chính đám tàn binh nầy làm cho quân giặc ở những đồn lũy khác sợ hãi và mất tinh thần chiến đấu.
- Ðến sáng mồng năm, đồn Ngọc Hồi thất thủ. Ðoàn quân chiến thắng của ta hò reo tiến thẳng lên Thăng Long. Trên đường tiến quân, hạ thêm hai đồn ở Văn Ðiển và Yên Quyết một cách dễ dàng. Các tướng Tàu như Ðề Đốc Hứa Thế Hanh, Tả Dực Thượng Duy Thăng (Shang Wei Sheng), Tiên Phong Trương Triều Long (Zang Zhao Long) bỏ mạng ngay ở chiến địa.
- Ðồng thời một đạo quân của Ðô Đốc Long cầm đầu theo kế hoạch đã tiến đến Khương Thượng, vây kín đồn binh của Sầm Nghi Ðống. Quân Tàu cầm cự, nhưng khi kiệt lực mà không có viện binh và đạn dược. Họ Sầm không chịu đầu hàng, chạy tới gò Ðống Ða (nay thuộc quận Ðống Ða, thuộc Hà Nội) treo cổ tự ải trên cành đa.
- Trưa ngày mồng Năm Tết, Tôn Sĩ Nghị được tin các đồn lũy phía Nam và Tây Nam đã rơi vào tay Tây Sơn. Kỵ binh đi do thám về báo cáo thêm là quân Nam đang rầm rộ kéo vào các cửa Ô, có cả đàn voi trận hung ác dẫn đầu. Nghị mất tinh thần, không kịp đóng yên ngựa, cùng một số thân binh vượt cầu phao sông Nhị Hà, chạy sang Bắc Ninh. Quân các doanh trại cũng chạy theo chủ tướng, xô đẩy nhau không chút gì là trật tự. Cầu phao bị đè nặng, chịu không nổi. Cầu sập, hàng vạn quân Tàu chết đuối. Nghị chạy đến Phượng Nhỡn lại rơi vào ổ phục kích của Ðô Đốc Lộc. Hai chục thớt voi xông ra giày đạp quân Thanh chết vô số kể. Nghị và bọn thủ túc mất tinh thần, chạy thục mạng làm đánh rơi cả những sắc thư bí mật của vua Càn Long gửi cho họ Tôn những chỉ thị đánh chiếm nước ta để trở thành thuộc quốc như xưa. Lê Chiêu Thống bám sát Tôn Sĩ Nghị theo về Tầu, sau bị triều đình Mãn Thanh bắt phải ăn mặc và phải theo phong tục Trung Hoa rồi chết nhục nhã ở Quế Lâm (Gui Lin), tháng 10 năm Quí Sửu (1793) hưởng dương 28 tuổi.
-
- Ngày Mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789), giờ Thân (khoảng 4 giờ chiều), vua Quang Trung cùng đại quân và 80 thớt voi tiến vào Thăng Long. Dân kinh đô bày hương án đón Ngài, họ mong quân giải phóng Tây Sơn của Vua Quang Trung như đại hạn mong mưa. Tính ra từ khi xuất quân ở Phú Xuân đến mồng 5 Tết là 40 ngày. Nhưng nếu tính từ khi bắt đầu đánh Hà Hồi lúc nửa đêm ngày mồng 3 đến chiều mồng 5 Tết thì tất cả chỉ mất gần 3 ngày. Khi mới xuất quân, Ngài dự trù mồng 7 tháng giêng vào Thăng Long, như vậy là giải phóng Thăng Long sớm hơn 2 ngày.
Các nhà viết sử đều công nhận là Trận Ngọc Hồi quả thực mang tính quyết định trong toàn bộ chiến dịch Bắc Tiến của Vua Quang Trung đánh tan 20 vạn quân Tàu .
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét